Bản án số 61/2024/DS-ST ngày 26/09/2024 của TAND huyện Krông Pắk, tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 61/2024/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 61/2024/DS-ST ngày 26/09/2024 của TAND huyện Krông Pắk, tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về quyền sở hữu và các quyền khác đối với tài sản
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Krông Pắk (TAND tỉnh Đắk Lắk)
Số hiệu: 61/2024/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 26/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Bà Phan Thị L đòi tài sản với bà Trần Thị X
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN KRÔNG PẮC
TỈNH ĐẮK LẮK
Bản án số: 61/2024/DS-ST.
Ngày: 26/9/2024.
V/v: “Kiện đòi tài sản”
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG PẮC, TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Thu Hiền.
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Bà Nguyễn Thị Lan.
2. Bà Trịnh Thị Oanh.
- Thư phiên tòa: Ông Trần Hòa nh - Thư Tòa án nhân dân huyện
Krông Pắc
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pắc tham gia phiên toà:
Bùi Thị Thu Hương - Kiểm sát viên.
Ngày 19 tháng 8 năm 2024 ngày 26 tháng 9 năm 2024. Tại trụ sở Tòa án
nhân dân huyện Krông Pắc xét xử thẩm vụ án dân sự thụ L số: 265/2023/TLST-
DS, ngày 01 tháng 11 năm 2023 về việc “Kiện đòi tài sảntheo Quyết định đưa v
án ra xét xsố 44/2024/QĐXXST-DS, ngày 15 tháng 7 m 2024, Quyết định hoãn
phiên tòa số: 30/2024/QĐST- DS ngày 31 tháng 7 năm 2024; Quyết định ngừng
phiên tòa số: 06/QĐTS- TA ngày 19/8/2024; giữa các đương sự:
+ Nguyên đơn: Phạm Thị L, sinh năm 1963. Địa chỉ: Thôn Thắng C,
Nham B, huyện Y, tỉnh Bắc Giang.(Vắng mặt)
Đaị diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Phan Thanh H, sinh năm 1988.
Địa chỉ: Thôn Ngh, E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk (Theo hợp đồng ủy quyền số
000693 ngày 24/01/2024 - có mặt)
+ Bị đơn: Trần Thị X. Điạ chỉ: Thôn xx, E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk.
(Vắng mặt)
+ Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Đậu Xuân H. Điạ chỉ: Thôn
xx, xã E, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. (Vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
2
* Theo đơn khởi kiện lập ngày 07/8/2023 của bà Phạm Thị L, quá trình tham
gia tố tụng tại phiên tòa đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Phan Thanh
Hải trình bày:
Do có mối quan hệ quen biết nhau nên bà Phan Thị L có cho bà Trần Thị X
vay số tiền tổng cộng 476.000.00(Bốn trăm bảy mươi sáu triệu đồng) vào các
lần cụ thể như sau:
Lần 1: Vào ngày 09/12/2016 L cho bà X vay số tiền 176.000.000đ (Một
trăm bảy mươi sáu triệu đồng), hẹn ngày 23/12/2016 thì trả đủ số tiền nợ gốc
tiền lãi phát sinh theo thỏa thuận.
Lần 2: Vào ngày 28/3/2017 L cho X vay số tiền 300.000.000đ (Ba trăm
triệu đồng), hẹn ngày 01/4/2017 thì trả đủ số tiền nợ gốc và tiền lãi phát sinh theo
thỏa thuận.
Khi vay số tiền trên X viết giấy vay tiền giấy nhận tiền cho L giữ.
Do chỗ quen biết nên khi cho X vay số tiền trên L không yêu cầu X thế
chấp tài sản gì cả. Mặt khác trên giấy vay tiền và giấy nhận tiền mặc dù viết cả tên
của Trần Thị X ông Đậu Xuân H, trên thực số tiền trên bà X vay nhân,
không liên quan đến ông H. Toàn bộ chữ Trần Thị X, Đậu Xuân H đều doX
viết ra.
Sau khi vay số tiền trên, khi đến hạn trả nợ L đã nhiều lần yêu cầu X
thanh toán khoản vay nói trên cho L song không kết quả. Do vậy, bà L np
đơn khởi kiện đến Tòa án. Nguyện vọng của bà L yêu cầu Tòa án buộc Trần
Thị X thanh toán cho bà L số tiền ngốc là 476.000.000đ (Bốn trăm bảy mươi sáu
triệu đồng). Ngoài ra bà L không yêu cầu gì khác.
Do quá trình giải quyết vụ án bị đơn Trần Thị X cố tình vắng mặt, đại diện
theo ủy quyền cho nguyên đơn ông Phan Thanh H đã làm đơn đề nghị Tòa án ra
quyết định trưng cầu giám định chữ ký, chữ viết của bà Trần Thị X.
Ngày 09/4/2024 Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc ban hành quyết định
trưng cầu giám định số: 10/2024/QĐ-TCGĐ, Trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự
Công an tỉnh Đắk Lắk thực hiện giám định:
Chữ chữ viết “Trần Thị Xtrong Giấy nhận tiền ngày 09/12/2016 tại
mục Người nhận tiền; chữ ký và chữ viết “Trần Thị X” trong Giấy nhận tiền ngày
28/3/2017 tại mục Người nhận tiền chữ ký chữ viết “Trần Thị Xtrong Hợp
đồng ủy quyền lập ngày 13/7/2017 tại Phòng công chứng số 2 tỉnh Đắk Lắk, số
công chứng 1592 có phải do bà X ký và viết ra không
Tại bản Kết luận giám định số: 604/KL -KTHS, ngày 15/5/2024 của Phòng
kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk, kết luận:
Chữ ký, chữ viết mang tên Trần Thị X dưới mục “Người nhận tiền” trong
tài liệu cần giám định kí hiệu A1, A2 so với chữ ký đứng tên Trần Thị X trong tài
liệu mẫu so sánh ký hiệu từ M1, là do cùng một người ký ra.
Ngày 20/8/2024 ông Phan Thanh H có đơn yêu cầu giám định bổ sung đối
3
với chữ ký chữ viết của bà Trần Thị X, trong giấy mượn tiền lập ngày 09/12/2016
tại mục Người mượn tiền; chữ ký và chữ viết “Trần Thị X” trong Giấy mượn tiền
ngày 28/3/2017 tại mục người mượn tiền chữ chữ viết “Trần Thị Xtrong
Hợp đồng ủy quyền lập ngày 13/7/2017 tại Phòng công chứng số 2 tỉnh Đắk Lắk,
số công chứng 1592 có phải do bà X ký và viết ra không.
Tại bản Kết luận giám định số: 1409/KL -KTHS, ngày 09/9/2024 ca Phòng
kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk, kết luận:
1./ Chữ ký, chữ viết mang tên Trần Thị X dưới mục “Người ợn tiền” trong
tài liệu cần giám định kí hiệu A1, A2 so với chữ ký đứng tên Trần Thị X trong tài
liệu mẫu so sánh ký hiệu từ M1, là do cùng một người ký ra.
Tại phiên toà: Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn giữ nguyên quan
điểm đề nghị Hội đồng xét xử buộc bà Trần Thị X phải trả cho bà L số tiền nợ gốc
số tiền 476.000.000đ, ngoài ra không yêu cầu gì khác.
Bị đơn bà Trần Thị X, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đu Xuân
H vắng mặt tại phiên tòa.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Pắc tham gia phiên
tòa phát biểu ý kiến:
+ Về tố tụng: Thẩm phán HĐXX, thư phiên tòa và nguyên đơn, đã thực
hiện đúng đầy đủ quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS). Bị đơn, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không đến Tòa án để lập bản tự khai, không tham
gia phiên họp phiên hòa giải là từ bỏ quyền và không thực hiện nghĩa vụ theo quy
định tại Điều 70, 72, Điều 73 BLTTDS. Tại phiên tòa bị đơn Trần Thị X,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Đậu Xuân H vắng mặt, căn cứ khoản 2
Điều 227 BLTTDS đề nghị HĐXX xét xử vắng mặt bà X, ông Hòa.
+ Về nội dung:
- Áp dụng khoản 2 Điều 26; Điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều
39; điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015.
- Áp dụng Điều 166 Bộ luật dân sự năm 2015.
Đề nghị HĐXX chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
Phạm Thị L.
Buộc Trần Thị X có nghĩa vụ trả cho bà Phạm Thị L số tiền 476.000.00
(Bốn trăm bảy mươi sáu triệu đồng).
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ vụ án được thẩm tra
tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận
định về nội dung vụ án như sau:
[1]. Xét về hình thức: Căn cứ đơn khởi kiện của Phạm Thị L, Tòa án
nhân dân huyện Krông Pắc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là “Kiện đòi tài
4
sảnđược quy định ti khon 2 Điều 26 của Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS).
Tại thời điểm bà Phạm Thị L khởi kiện, bị đơn bà Trần Thị X có đăng ký hộ khẩu
thường trú và trú tại xã E, huyện K, tỉnh Đk Lắk. Do vậy, Tòa án nhân dân huyện
Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39
của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thụ lý giải quyết vụ án đúng thẩm quyền.
Tại phiên tòa lần thứ nhất bị đơn Trần Thị X, người quyền lợi nghĩa
vụ liên quan ông Đậu Xuân H vắng mặt không có L do, nên HĐXX đã quyết định
hoãn phiên tòa tống đạt Quyết định Hoãn phiên tòa cho Trần Thị X, ông Đậu
Xuân H. Tuy nhiên, tại phiên tòa hôm nay Trần Thị X, ông Đậu Xuân H vắng
mặt không do. Căn cứ vào Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng Dân sự Toà án
tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn bà Trần Thị X, ông Đậu Xuân H.
[2]. Xét về nội dung:
[2.1] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phạm Thị L về việc yêu cầu
bà Trần Thị X trả cho bà L số tiền tổng cộng là 476.000.000đ (Bốn trăm bảy mươi
sáu triệu đồng).
Khi nộp đơn khởi kiện ngun đơn bà L đã cung cấp cho Toà án 02 chng t
thể hiện việc bà Trần Thị X đã nhận của bà L tổng stin 476.000.000 đồng, cthnhư
sau:
- Ngày 09/12/2016 bà X nhận của bà L số tiền 176.000.000đ (Một trăm bảy
mươi sáu triệu đồng).
- Ngày 28/3/2017 X nhận tiếp của L số tiền 300.000.000đ (Ba trăm
triệu đồng).
Ngày 19/8/2024 ông Phan Thanh H cung cấp cho T án 02 chứng từ thể hin
việc bà Trn ThX đã mượn ca L tổng số tiền 476.000.000 đồng, cụ thể như sau:
Ngày 09/12/2016 bà X mượn của L số tiền 176.000.000đ (Một trăm bảy
mươi sáu triệu đồng) để đáo hạn ngân hàng. Hạn trả nợ là ngày 23/12/2016.
- Ngày 28/3/2017 X mượn tiếp của L số tiền 300.000.00(Ba trăm
triệu đồng) để đáo hạn ngân hàng, hạn trả nợ là ngày 01/4/2017.
Do quá trình giải quyết vụ án bị đơn Trần Thị X không đến Tòa án làm
việc. Do vậy, để có căn cứ giải quyết vụ án Tòa án đã trưng cầu giám định chữ ký
chữ viết của Trần Thị X trong giấy nhận tiền đngày 28/3/2017 và Giấy nhận
tiền ngày 09/12/2016 mà nguyên đơn dùng để khởi kiện bị đơn tại Tòa án. Tại bản
Kết luận giám định số: 604/KL - KTHS, ngày 15/5/2024 của Phòng kỹ thuật hình
sự Công an tỉnh Đắk Lắk, kết luận:
Chữ ký, chviết mang tên Trần Thị X dưới mục “Người nhận tiền” trong i
liệu cần giám định kí hiệu A1, A2 so với chữ ký đứng tên Trần Thị X trong tài liệu
mẫu so sánh ký hiệu từ M1, là do cùng một người ký ra.
Ngày 26/8/2024, Tòa án đã trưng cầu giám định chữ ký chữ viết của và Trần
Thị X trong giấy mượn tiền đề ngày 28/3/2017 Giấy mượn tiền ngày 09/12/2016
5
đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn cung cấp bổ sung cho Tòa án. Tại bản
Kết luận giám định số: 1409/KL -KTHS, ngày 09/9/2024 của Phòng kỹ thuật hình
sự Công an tỉnh Đắk Lắk, kết luận:
Chữ ký, chữ viết mang tên “Trần Thị X dưới mục “Người mượn tiền” trong
tài liệu cần giám định kí hiệu A1, A2 so với chữ ký đứng tên Trần Thị X trong tài
liệu mẫu so sánh ký hiệu từ M1, là do cùng một người ký ra.
Căn cứ vào đơn khởi kiện của bà Phạm Thị L, bản tự khai của đại diện theo
uỷ quyền của nguyên đơn bà Phạm Thị L là ông Phan Thanh H, bản kết luận giám
định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk số 604/KL -KTHS, ngày
15/5/2024 số 1409/KL - KTHS, ngày 09/9/2024. HĐXX xét thấy đã có đủ sở
pháp để chứng minh: Ngày 28/3/2017 X vay L số tiền 300.000.000đồng
mục đích là để đáo hạn ngân hàng, thời hạn trả nợ chậm nhất ngày 01 tháng 4
năm 2017; Ngày 09/12/2016 X vay bà L cho số tiền 176.000.000đồng hạn trả
nợ chậm nhất là ngày 23 tháng 12 năm 2016. Tổng cộng X vay của bà L số tiền
476.000.000 (Bốn tm bảy mươi sáu triệu đồng). Sau khi viết giấy vay tiền nói
trên, khi nhận tiền bà X lại viết giấy nhận tiền cho L giữ. Tuy nhiên, khi đến hạn
thanh toán s tiền nói trên X không thanh toán cho bà L các khoản tiền như thỏa
thuận là vi phạm cam kết trả nợ theo quy định tại Điều 466 Bộ luật dân sự năm
2015. Điều 429 BLDS 2015 quy định:“Thời hiu khi kiện để yêu cu Tòa án gii
quyết tranh chp hợp đồng 03 năm, kể t ngày người quyn yêu cu biết hoc
phi biết quyn và li ích hp pháp ca mình b xâm phm”. Trong khi đó chứng
cứ mà nguyên đơn cung cấp thể hiện: Ngày 09/12/2016 bà L cho bà X vay số tiền
176.000.000đồng, hạn trả nợ chậm nhất ngày 23 tháng 12 năm 2016; Ngày
28/3/2017 X vay L số tiền 300.000.000đồng, hạn trả nợ chậm nhất ngày
01 tháng 4 năm 2017. Tính đến ngày bà Phạm Thị L nộp đơn khởi kiện (ngày
20/10/2023) để yêu cầu bà X phải có nghĩa vụ trả số tiền 476.000.000đ (Bốn trăm
bảy mươi sáu triệu đồng) thời hiệu khởi kiện đã hết. Tuy nhiên, Điều 166 của Bộ
luật dân sự năm 2015 quy định:“Chủ sở hữu, chủ thể có quyền khác đối với tài sản
có quyền đòi lại từ người chiếm hữu, người sử dụng tài sản, người được lợi về tài
sản không có căn cứ”
Do vậy, áp dụng Điều 166 của Bộ luật dân sự năm 2015 HĐXX buộc Trần
Thị X phải có nghĩa vụ trả cho bà Phạm Thị L số tiền 476.000.000đ (Bốn trăm bảy
mươi sáu triệu đồng) là phù hợp.
[2.2]. Về trách nhiệm trả nợ: Quá trình giải quyết vụ án Phạm Thị L chỉ
yêu cầu bà Trần Thị X trả cho L số tiền 476.000.000đồng. HĐXX xét thấy, mặc
dù trong giấy nhận tiền và giấy mượn tiền đề ngày 09/12/2016 và ngày 28/3/2017
thể hiện người vay là bà Trần Thị X, ông Đậu Xuân H. Tuy nhiên, trong giấy nhận
tiền nói trên chữ ký chữ viết Đậu Xuân H là do bà Trần Thị X tự viết ra. Bản thân
bà L chỉ yêu cầu bà X trả số tiền nói trên. Do vậy, cần buộc bà Trần Thị X trả cho
bà L số tiền 467.000.000đồng là phù hợp.
[3]. Về chi phí giám định: Trong quá trình giải quyết vụ án do bà Trần Thị
X không đến Tòa án để làm việc, nên theo đơn yêu cầu của người đại diện theo ủy
6
quyền của nguyên đơn, Tòa án đã trưng cầu giám định chữ ký chữ viết của bà
X trong giấy nhận tiền. Tại bản Kết luận giám định số: 604/KL-KTHS, ngày
15/5/2024 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk đã kết luận chữ ký và
chữ viết trong giấy nhận tiền ngày 28/3/2017 ngày 09/12/2016 do Trần Th
X ký và viết ra cho nên áp dụng khoản 4 Điều 161 của Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015. Buộc bà X phải chịu chi phí giám định chữ ký là 6.200.000 đồng, số tiền này
đại diện theo ủy quyền cho nguyên đơn bà Phạm Thị L đã nộp, nên buộc chị bà X
phải thanh toán lại cho bà L là đảm bảo đúng quy định pháp luật. Ngày 20/8/2024
đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn nộp đơn yêu cầu giám định bổ sung theo
đó đại diện nguyên đơn yêu cầu giám định chữ chữ viết của Trần Thị X trong
giấy mượn tiền. Tại bản Kết luận giám định số: số 1409/KL - KTHS, ngày
09/9/2024 của Phòng kỹ thuật hình sCông an tỉnh Đắk Lắk đã kết luận chữ ký và
chữ viết Trần Thị X trong giấy mượn tiền ngày 28/3/2017 ngày 09/12/2016
do bà X ký và viết ra. Tại phiên tòa đại diện nguyên đơn tự nguyện nộp số tiền chi
phí giám định 5.860.000đồng. Xét việc nguyên đơn tự nguyện nộp số tiền trên
không trái quy định của pháp luật nên cần chấp nhận. Số tiền trên đại diện nguyên
đơn đã nộp, Tòa án đã chi xong nên không đề cập giải quyết.
[4]. Về án phí:
Do HĐXX buộc Trần Thị X phải trả cho L số tiền vay là
476.000.0000đồng. Nên Trần Thị X phải chịu 23.040.000 đồng tiền án phí dân
sự sơ thẩm. Mức tính như sau:{400.000.0000đ = 20.000.000 đồng + (76.000.000đ
x 4%)} = 23.040.000đ (Hai mươi ba triệu không trăm bốn mươi nghìn đồng)
Phạm Thị L được miễn nộp tiền tạm ứng án phí nên không đcập giải
quyết.
[5]. Xét quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện
Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk tại phiên tòa có căn cứ nên Hội đồng xét xử cần chấp
nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
- Căn cứ khoản 2 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39,
Điều 147; Điều 203; Điều 220, khoản 2 Điều 227, Điều 266, Điều 271, Điều
273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
- Căn cứ Điều 166 Bộ luật dân sự năm 2015;
- Căn cứ vào Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản L sử
dụng án phí lệ phí Tòa án
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phạm Thị L.
Buộc bà Trần Thị X phải trả cho bà Phạm Thị L tiền nợ gốc476.000.000đ
7
(Bốn trăm bảy mươi sáu triệu đồng).
Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn
yêu cầu thi hành án của người được thi hành án, cho đến khi thi hành án xong, tất
cả các khoản tiền hàng tháng bên phải thi hành án còn phải trả khoản tiền lãi của
số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của
Bộ luật dân sự năm 2015”.
2. Về chi phí giám định: Buộc bà Trần Thị X phải chịu 6.200.000đ (Sáu triệu
hai trăm nghìn đồng) tiền chi phí giám định. Phạm Thị L được nhận lại số tiền
6.200.000đ (Sáu triệu hai trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng chi phí giám định khi thu
được từ bà Trần Thị X.
3. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Trần Thị X phải chịu 23.040.000đ (Hai mươi ba triệu không trăm bốn
mươi nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Phạm Thị L được miễn nộp tiền án phí nên không đề cập giải quyết.
4. Về quyền kháng cáo:
Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15(mười lăm) ngày kể
từ ngày tuyên án.
Bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án
trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm
yết theo quy định của pháp luật.
“Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 luật
thi hành án dân sự, Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
luật thi hành án dân sự./.”
T.M - HỘI ĐỒNG XÉT X SƠ THẨM
Nơi nhận: Thẩm phán – Chủ ta phiên tòa
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- TAND tỉnh Đắk Lắk; (Đã ký)
- VKSND huyện Krông Pắc;
- Chi cục THADS huyện K;
- Các đương sự;
- Lưu VP, Hồ sơ.
Nguyễn Thị Thu Hiền
8
Tải về
Bản án số 61/2024/DS-ST Bản án số 61/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 61/2024/DS-ST Bản án số 61/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất