Bản án số 60/2023/HS-ST ngày 01/11/2023 của TAND TP. Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
-
Bản án số 60/2023/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Thuộc tính Bản án 60/2023/HS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 60/2023/HS-ST ngày 01/11/2023 của TAND TP. Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa về tội tàng trữ trái phép chất ma túy |
---|---|
Tội danh: | 249.Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015) |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TP. Sầm Sơn (TAND tỉnh Thanh Hóa) |
Số hiệu: | 60/2023/HS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 01/11/2023 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: |
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SẦM SƠN - TỈNH THANH HÓA
BẢN ÁN 60/2023/HS-ST NGÀY 01/11/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 01 tháng 11 năm 2023 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
Xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 57/2023/TLST-HS ngày 10 tháng 10 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 60/2023/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 10 năm 2023, đối với:
- Bị cáo: Trần Ngọc B, sinh năm 2002.
ĐKHKTT: Tổ dân phố Xuân Thượng, phường Quảng Vinh, thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 8/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Bố: Trần Ngọc S (đã chết); Mẹ: Phạm Thị T; Bố mẹ bị cáo sinh được 03 người con, B là con thứ ba; Tiền án, tiền sự: Không; tạm giam ngày 23/6/2023, tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Sầm Sơn.
Có mặt.
- Người làm chứng: 1.Ông Nguyễn Hữu B - sinh năm 1954. Vắng mặt.
2. Bà Đinh Thị H - sinh năm 1975. Vắng mặt.
Cùng địa chỉ: Tổ dân phố Lương Thiện, phường Trung Sơn, thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 3 giờ ngày 08/04/2022, do nghe nói Lê Thị L ở phòng trọ của gia đình ông Bùi Văn D ở tổ dân phố Lương Thiện, phường Trung Sơn, thành phố Sầm Sơn bán ma túy và báo công an bắt nhân viên của mình nên Nguyễn Ngọc D ở phố Tân Tự, phường Đông Tân, thành phố Thanh Hóa, Trần Ngọc B ở tổ dân phố Xuân Thượng, phường Quảng Vinh, thành phố Sầm Sơn, Lê Văn Vinh ở tổ dân phố Hải Thành, phường Bắc Sơn, thành phố Sầm Sơn, Cao Văn K ở tổ dân phố Sơn Thắng, phường Trường Sơn, thành phố Sầm Sơn muốn gặp L hỏi rõ nên B lấy lý do gọi điện cho L hỏi mua 03 viên thuốc lắc và nửa chỉ Ketamine. L đồng ý, hẹn ra trước cổng trường THPT Nguyễn Thị Lợi, phường Trung Sơn, thành phố Sầm Sơn. Khoảng 15 phút sau, L đi xe máy đến đầu đường Nguyễn Trãi gần cột đèn đỏ thì B chặn xe, D túm tóc và đấm đánh rồi kéo lên xe. Sau đó, Vinh chở L, D về phòng trọ của L. B, Khánh đi xe theo sau.
Đến phòng trọ, D hỏi L về nơi để ma túy thì L chỉ về phía tủ nhựa đầu giường. Tại phòng trọ, lúc này B nhìn thấy trên nền nhà ngay gần cửa phòng vệ sinh giáp móc treo quần áo có 01 túi nilon có 03 viên thuốc lắc màu xanh, B cầm lên cho vào túi áo đem về sử dụng. Cùng thời điểm này, Lê Văn Vinh đến Công an phường Trung Sơn, thành phố Sầm Sơn báo cáo ở gần nhà văn hóa có người bán ma túy. Khi Công an phường Trung Sơn đến, sợ bị phát hiện nên B giấu túi nilon chứa 03 viên nén màu xanh lên kẽ tường áp mái tôn trước cửa phòng Lê Thị L. Trong lúc cơ quan Công an tiến hành kiểm tra thì Đinh Thị Hương là chủ nhà trọ phát hiện, báo cáo trên kẽ tường áp mái tôn có túi nilon. Lê Thị L lấy từ kẽ tường mái tôn 01 túi nilon bên trong chứa 03 viên nén màu xanh và giao nộp cho Cơ quan Công an (Niêm phong ký hiệu M2). Sau đó, Công an tiến hành lập B bản bắt người phạm tội quả tang đối với Lê Thị L, thu giữ cùng vật chứng.
Bản kết luận giám định số 1355/KL-KTHS ngày 11/4/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận: "03 (ba) viên nén màu xanh hình kim cương của phong bì niêm phong ký hiệu M2 gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 1,355g, loại MDMA".
Tại bản kết luận giám định số 3007/KL-KTHS kèm theo phụ lục ngày 05/9/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận về nội dung hình ảnh camera thu thập tại phòng trọ nhà ông Bùi Văn D, mô tả diễn biến, hành vi của Trần Ngọc B cất giấu ma túy, không phát hiện dấu hiệu chỉnh sửa, cắt ghép nội dung hình ảnh trong 05 (năm) tệp video của 02 (hai) USB gửi giám định.
Vật chứng của vụ án: 03 viên nén màu xanh hình kim cương được bỏ vào trong 01 phong bì thư do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành, được dán kín, niêm phong bởi các chữ ký, chữ viết và các dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa. Vật chứng đã được chuyển theo hồ sơ vụ án Lê Thị L để phục vụ truy tố, xét xử.
Đối với hành vi của Nguyễn Ngọc D, Trần Ngọc B, Cao Văn K, Lê Văn Vinh do Lê Thị L tố cáo bị các đối tượng trên đánh, đấm, bắt đưa về phòng trọ và lấy tài sản của L nên Cơ quan điều tra thụ lý giải quyết trong vụ việc khác.
Đối với Lê Thị L, Cơ quan điều tra đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Lê Thị L về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, Tòa án nhân dân thành phố Sầm Sơn đã đưa vụ án ra xét xử, bản án đã có hiệu lực pháp luật.
Cáo trạng số: 66/CTr-VKS-HS ngày 09 tháng 10 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa truy tố Trần Ngọc B, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với Trần Ngọc B và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt Trần Ngọc B, từ 12 đến 18 tháng tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định, vật chứng là số ma túy này đề nghị được xử lý trong cùng Bản án hình sự sơ thẩm số 24/2023/HS-ST ngày 09/5/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Trong phần tranh luận bị cáo không có ý kiến tranh luận gì với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát.
Trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án, trong lời nói sau cùng bị cáo tỏ ra ăn năn hối cải. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử bị cáo mức án thấp nhất để bị cáo sớm có điều kiện trở về với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về thủ tục tố tụng: Các Cơ quan tiến hành tố tụng và Người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật, không ai có khiếu nại gì.
[2]. Về căn cứ kết tội: Vào hồi 3 giờ ngày 08/04/2022, tại tổ dân phố Lương Thiện, phường Trung Sơn, thành phố Sầm Sơn, bị cáo B, có hành vi tàng trữ 03 viên thuốc lắc và nửa chỉ Ketamine để sử dụng. Qua giám định có khối lượng 1,355g ma túy loại MDMA, bị cáo chưa kịp sử dụng thì bị Công an phát hiện thu giữ.
Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố Trần Ngọc B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác trong vụ án tại cơ quan điều tra.
[3]. Xét tính chất vụ án: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo tàng trữ 1,355g ma túy loại MDMA để sử dụng là hoàn toàn không có giấy phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, là cố ý trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước trái pháp luật, ma túy là mối đe dọa đến sự phát triển lành mạnh của giống nòi, ảnh hưởng đến sức khỏe của con người, làm sói mòn và ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Quá trình phạm tội bị cáo nhận thức được pháp luật và hành vi nhưng do nghiện ma túy nên bất chấp. Hành vi phạm tội của bị cáo cần được xử lý nghiêm minh tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra để bị cáo thấy được sự nghiêm minh của pháp luật.
[4]. Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì thấy rằng: Bị cáo B không có tiền án, tiền sự, nhân thân tốt, nhưng phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng nên cần phải có mức hình phạt nghiêm khắc.
Tuy nhiên, bị cáo không có mục đích phạm tội từ đầu mà đến phòng trọ của chị L vì mục đích khác (đã được phản ánh tại phần nội dung vụ án), bị cáo vô tình nhìn thấy 03 viên thuốc lắc và nửa chỉ Ketamine tại nền nhà phòng trọ của chị L, bị cáo nhặt lên cất giấu mục đích để sử dụng, nhưng chưa kịp sử dụng thì bị Công an phát hiện thu giữ. Quá trình điều tra và tại phiên tòa khai báo thành khẩn nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Do đó khi lượng hình cần xem xét cân nhắc nguyên nhân, mục đích, động cơ, hành vi, tính chất, mức độ, hậu quả, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khi quyết định hình phạt. Xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo B cần thiết phải cách ly khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định và xử bị cáo mức án trên mức khởi điểm của khung hình phạt mới đủ tác dụng giáo dục răn đe và phòng ngừa chung.
[5]. Về xử lý vật chứng và án phí: Cần xử lý theo qui định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; điểm đ khoản 1 Điều 32; 50; 47 Bộ luật hình sự; Điều 61; 331; 333; 106; 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên bố: Trần Ngọc B, phạm tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt: Trần Ngọc B, 13 (Mười ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam 23/6/2023.
Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định, vật chứng là số ma túy này đề nghị được xử lý trong cùng Bản án hình sự sơ thẩm số 24/2023/HS-ST ngày 09/5/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
Về án phí: Bị cáo Trần Ngọc B, phải chịu 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Về quyền kháng cáo: Bị cáo B có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Trường hợp bản án, Quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định Luật thi hành án dân sự.
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!