Bản án số 59/2023/HS-ST ngày 01/11/2023 của TAND TP. Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa về tội trộm cắp tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 59/2023/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 59/2023/HS-ST ngày 01/11/2023 của TAND TP. Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa về tội trộm cắp tài sản
Tội danh: 138.Tội trộm cắp tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Sầm Sơn (TAND tỉnh Thanh Hóa)
Số hiệu: 59/2023/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 01/11/2023
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ S – TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 59/2023/HS-ST NGÀY 01/11/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 01 tháng 11 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố S, tỉnh Thanh Hóa.

Xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 64/2022/TLST-HS ngày 13 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 59/2022/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 10 năm 2023, đối với:

- Bị cáo: Ngô Xuân C - Sinh năm 2003.

ĐKNKTT: Tổ dân phố Thượng Du, phường Q, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa.

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Bố: Ngô Xuân B, (đã chết). Mẹ: Lê Thị L; Gia đình có 04 chị em, C là con thứ ba trong gia đình; Vợ con chưa có; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 14/8/2023. Có mặt.

- Bị hại: Bà Trần Thị D - sinh năm 1947. Có mặt.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Trương Văn G, sn 2000. Cùng địa chỉ: Tổ dân phố Thượng Du, phường Q, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt.

- Người chứng kiến: Chị Hoàng Thị P - sinh năm 2006.

Địa chỉ: Tổ dân phố Kiều Đại, phường Quảng Châu, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ ngày 27/7/2023, Ngô Xuân C đi qua cửa phụ thông sang nhà bà Trần Thị D (bà nội C), sinh năm 1947 ở Tổ dân phố Thượng Du, phường Q, Thành phố S, tìm thuốc lào để hút. C đi lại giường ngủ của bà D lục trong quần áo treo ở móc sát bờ tường cuối giường thì phát hiện một túi vải dạng thổ cẩm treo bên trong áo khoác ấm. Biết bên trong có tiền và đang nợ nần, C nảy sinh ý định lấy trộm tiền của bà D. C mang chiếc túi dạng thổ cẩm ra khu vực phía sau nhà kiểm đếm thì thấy bên trong có số tiền là 17.000.000 đồng, gồm các mệnh giá 500.000 đồng, 200.000 đồng và 100.000 đồng. Sau khi lấy được tiền, C về nhà rủ bạn gái đang ở nhà mình là Hoàng Thị P đi chuộc xe máy Wave Alpha BKS 36N1-X mà C đã bán trước đó, P hỏi tiền ở đâu thì C nói là tiền của bà. Sau đó cả hai đi bộ đến nhà anh Trương Văn G, sinh năm 2000, ở tổ dân phố Thượng Du, phường Q hỏi chuộc lại xe, trên đường đi C đưa tiền cho P cầm hộ. Đến nơi anh Giang đồng ý cho chuộc lại xe nên P đưa 8.000.000 đồng cho anh Trương Văn G. Sau khi chuộc được xe, P đưa lại tiền cho C, cả hai đi chơi và ra thành phố Hà Nội để tìm việc nhưng không tìm được. C tiếp tục rủ P đến tỉnh Bắc Giang tìm việc nhưng P không đồng ý và muốn đi về, lúc này C đưa cho P 4.000.000 đồng và nói là “anh cho tiền”. P đồng ý nhận và hẹn sẽ trả lại sau, sau đó P đi về tìm việc. Số tiền 5.000.000 đồng còn lại C sử dụng chi tiêu cá nhân hết.

Tại bản Kết luận giám định số 2920/KL-KTHS ngày 11/8/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận: 31 (ba mươi mốt) tờ tiền Việt Nam gửi giám định nêu ở mục II.1 (mẫu cần giám định) là tiền thật, (BL 45).

Kết luận giám định số 2903/KL-KTHS ngày 09/8/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa. kết luận: 02 tệp video gửi giám định có tính liên tục, không phát hiện dấu hiệu chỉnh sửa, cắt ghép nội dung hình ảnh.

Quá trình điều tra, Ngô Xuân C khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai của bị can phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và tài liệu vật chứng thu giữ của Cơ quan CSĐT.

Về vật chứng của vụ án: - 01 (một) túi vải, loại túi xách có dây màu đen, kích thước 14x19 cm, túi có 03 ngăn, ngăn giữa có khóa kéo bị hỏng. Đây là túi đựng tiền của bà D mà C đã trộm cắp. Cơ quan điều tra đã trả lại cho bà Trần Thị D; Tiền Việt Nam 8.000.000 đồng (Tám triệu đồng) là số tiền Ngô Xuân C trả cho anh Trương Văn G để chuộc xe máy, anh Giang đã nộp lại, Cơ quan điều tra đã trả lại cho bà Trần Thị D.

Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra bà Trần Thị D đã nhận lại số tiền 8.000.000 đồng (Tám triệu đồng), Ngô Xuân C đã khắc phục số tiền 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng), Hoàng Thị P đã trả cho bà D số tiền 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng). Đối với số tiền còn lại bà D thống nhất tự thỏa thuận với C và không có yêu cầu, đề nghị gì khác.

Bị can Ngô Xuân C đã khắc phục cho anh Trường Văn G 4.000.000 đồng, số tiền còn lại anh Giang thỏa thuận thống nhất cho C trả sau. Anh Giang không có yêu cầu, đề nghị gì khác.

Cáo trạng số 72 /CTr-VKS-HS ngày 12 tháng 10 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố S, truy tố Ngô Xuân C, về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với Ngô Xuân C, về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự; xử phạt Ngô Xuân C, từ 06 đến 09 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 đến 18 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa Bà Trần Thị D, trình bày bị cáo C đã trả lại đầy đủ số tiền của bà bị mất; Đối với số tiền còn lại 4.000.000 đồng của anh Giang, anh Giang đồng ý để cho C dần và không có yêu cầu gì khác nên miễn xét.

Trong phần tranh luận: - Bị cáo không có ý kiển tranh lận gì với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát.

- Bị hại bà Trần Thị D, trình bày: Khi mới bị phát hiện mất tiền tôi không biết đó là C cháu nội tôi lấy tiền của tôi nên tôi đã trình báo Công an. Nay, C đã trả lại đủ tiền cho tôi, vì bố C mất sớm, hoàn cảnh gia đình cháu khó khăn, tôi nay đã già yếu nên kính mong Hội đồng xét xử xem xét không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với C nữa, nếu không được miễn thì xử C mức án thấp nhất để cháu có điều kiện rèn luyện và về tôi sẻ dạy bảo cháu thêm để cháu sớm trở thành con người lương thiện.

Trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án, trong lời nói sau cùng bị cáo tỏ ra ăn năn hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử bị cáo mức án thấp nhất để bị cáo có điều kiện rèn luyện sớm trở thành người công dân tốt, sống có ích cho gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Các Cơ quan tiến hành tố tụng và Người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật, không ai có khiếu nại gì.

[2]. Về căn cứ kết tội: Vào khoảng 11 giờ ngày 27/7/2023, Ngô Xuân C vào nhà bà Trần Thị D ở tổ dân phố Thượng Du, phường Q, thành phố S, trộm cắp 17.000.000đ (Mười bảy triệu đồng) của bà D.

Cáo trạng số 72 /CTr-VKS-HS ngày 12 tháng 10 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố S, truy tố Ngô Xuân C, về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Xét tính chất vụ án: Lợi dụng sự sơ hở mất cảnh giác của người quản lý tài sản bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội, cố ý trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác một cách trái pháp luật, gây tâm lý hoang mang lo lắng, bất bình đối với quần chúng nhân dân làm ảnh hưởng đến tình hình trật tự, trị an xã hội trên địa bàn dân cư. Quá trình phạm tội bị cáo nhận thức và điều khiển được hành vi nhưng do thiếu tự giác trong việc rèn luyện ý thức mà bất chấp. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội nên cần phải có đường lối xử lý nghiêm minh, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra để bị cáo thấy được sự nghiêm minh của pháp luật.

[4]. Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì thấy rằng: Bị cáo không có tiền án, tiền sự, nhân thân tốt, không có mục đích phạm tội từ đầu mà sang nhà bà D tìm thuốc lào để hút, sau đó không thấy bà D ở nhà và do đang nợ nần nên đã lợi dụng sự sơ hở mất cảnh giác của người quản lý tài sản nên bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên tòa khai báo thành khẩn phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng trong vụ án. Tài sản trộm cắp, sau khi phạm tội đã khắc phục cho người bị hại vầ đã khắc phục được một phần cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.

Quá trình giải quyết vụ án bị hại bà D có đơn xin miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo, nếu không miễn thì xin xử bị cáo mức án thấp nhất, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được qui định tại điểm b, i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do đó khi lượng hình cũng cần xem xét cân nhắc tính chất, mức độ, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khi quyết định hình phạt. Xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo không thiết phải cách ly khỏi đời sống xã hội mà chỉ cần xử ở mức khởi điểm của khung hình phạt cũng đủ tác dụng giáo dục răn đe và phòng ngừa chung.

[5]. Về trách nhiệm dân sự: Đối với số tiền còn lại là 4.000.000 đồng, của anh Giang. Quá trình giải quyết vụ án anh Giang và C thỏa thuận thống nhất để cho bị cáo C trả dần và không có yêu cầu gì khác nên miễn xét.

[6]. Về án phí: Cần xem xét xử lý theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ: - Khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; điểm đ khoản 1 Điều 32; 50; 65 Bộ luật hình sự;

- Điều 61; 62; 65; 331; 333; 136 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, quy định về án phí, lệ phí Tòa án Tuyên bố: Ngô Xuân C, phạm tội:“Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Ngô Xuân C, 6 (Sáu) tháng tù, cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 12 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Về án phí: Bị cáo Ngô Xuân C, phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng), tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo Ngô Xuân C; bị hại bà Trần Thị D, có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; Người có quyền lợi nghãi vụ liên quan, có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, Quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các Điều 6; Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Tải về
Bản án số 59/2023/HS-ST Bản án số 59/2023/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất