Bản án số 588/2025/DS-PT ngày 27/11/2025 của TAND tỉnh Đồng Nai về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 588/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 588/2025/DS-PT ngày 27/11/2025 của TAND tỉnh Đồng Nai về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Đồng Nai
Số hiệu: 588/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 27/11/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Bà Bảy yêu cầu hủy họp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐỒNG NAI
Bản án số: 588/2025/DS-ST
Ngày: 27-11-2025
V/v tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất và
hợp đồng vay tài sản
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm :
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Đinh Thị Quý Chi
Các Thẩm phán: Đỗ Thị Nhung
Ông Lê Văn An
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Đăng Dung - Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Đồng Nai- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tham gia
phiên tòa: Bà Nguyễn Hoàng Thế Anh - Kiểm sát viênNgày 27 tháng 11 năm
2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử phúc thẩm công khai vụ
án dân sự thụ lý số 386/2025/TLPT-DS thụ lý số 386/2025/TLPT-DS ngày
20/10/2025 về "Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tranh
chấp hợp đồng vay tài sản”.
Do Bản án dân sự thẩm số 25/2025/DS-ST ngày 30/5/2025 của Toà án
nhân dân thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai (nay Tòa án nhân dân khu
vực 4 - Đồng Nai) bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 459/2025/QĐXXPT-
DS ngày 29/10/2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn:Bùi Thị B, sinh năm 1968; nơi cư trú: Tổ B, khu phố S,
phường S, thành phố L, tỉnh Đồng Nai, nay phường B, tỉnh Đồng Nai. (có
mặt)
Người đại diện theo uỷ quyền nguyên đơn: Bà Phùng Thị Lệ M, sinh năm
1986, nơi trú: Thôn C, T, huyện B, Thành phố Nội, nay là: V,
Thành phố Hà Nội. (có mặt)
- Bđơn: Ông Ngọc X, sinh năm 1959 Đặng Thị H, sinh năm
1962; Cùng nơi cư trú: Tổ B, khu phố S, phường S, thành phố L, tỉnh Đồng Nai,
nay là: phường B, tỉnh Đồng Nai. (vắng mặt)
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
2
1. Ngân hàng Thương mại cổ phần Á (A); địa chỉ trụ sở: 442, N, phường
E, quận C, Thành phố Hồ Chí Minh (nay phường B, Thành phố Hồ Chí
Minh). Địa chỉ liên lạc: Số B H, phường Q, thành phố B, tỉnh Đồng Nai, nay
phường T, tỉnh Đồng Nai.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Từ Tiến P - Chức vụ: Tổng Giám đốc
Người đại diện theo uỷ quyền: Ông Nguyễn Minh C Chức vụ: nhân viên
xử nợ (văn bản uỷ quyền ngày 22/9/2023) ông Nguyễn L Chức vụ:
Giám đốc xử lý nợ khu vực (theo Giấy ủy quyền ngày 14/8/2025) (ông C và ông
L có mặt)
2. Ông Trương Văn H1, sinh năm 1959; nơi trú: Tổ B, khu phố S,
phường S, thành phố L tỉnh Đồng Nai, nay là: phường B, tỉnh Đồng Nai (xin
vắng mặt).
3. Trương Thị Ngọc M1, sinh năm 2005; nơi trú: Tổ B, khu phố S,
phường S, thành phố L tỉnh Đồng Nay, nay là: phường B, tỉnh Đồng Nai (xin
vắng mặt)
- Người kháng cáo: Ngân hàng Thương mại cổ phần Á.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Theo đơn khởi kiện ngày 22/01/2018, bản tường trình tại phiên tòa -
nguyên đơn bà Bùi Thị B trình bày:
Ngày 12/7/2011, nhận chuyển nhượng một phần diện tích đất thuộc
thửa 1043, tờ bản đồ số 07 (nay thửa đất số 22, tờ bản đồ số 35) tọa lạc tại ấp
S, S, thị L (nay phường S, thành phố L, tỉnh Đồng Nai) của ông Lê
Ngọc X, Đặng Thị H. Hai bên làm giấy tay thỏa thuận mua bán xác
nhận đóng mộc của Ủy ban nhân dân (UBND) S, thị xã L (nay phường S,
thành phố L). Giá chuyển nhượng 250.000.000 đồng, ngày 12/7/2011 đã
đưa cho H số tiền 50.000.000 đồng; ngày 18/7/2011 đưa cho H stiền
100.000.000 đồng; ngày 01/8/2011 đưa cho H số tiền 50.000.000 đồng.
Mỗi lần đưa tiền thì bà và bà H có làm giấy tay, ngày 18/7/2011 giữa bà và H
thỏa thuận bằng giấy tay số tiền 50.000.000 đồng còn lại khi nào giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất thì sẽ giao hết, về thủ tục chi phí phát sinh
thì do bà H chịu toàn bộ. Sau khi làm giấy tay thì bà B đã nhận đất.
Đầu năm 2012, đã xây dựng nhà làm hàng rào toàn bộ phần diện
tích đất đã mua, đã nhiều lần hối thúc bà H làm thủ tục sang nhượng đất cho
nhưng H cứ nói từ từ. Năm 2014 H xây dựng nhà trọ tại phần đất còn
lại của bà, tháng 8/2015 hay tin H vay nợ nhiều không trả được nên cùng
ông X bỏ đi khỏi địa phương, trình báo với chính quyền địa phương về
việc chuyển nhượng đất trên.
Đến năm 2018 bà mới biết tài sản bà H đã thế chấp cho ngân hàng là do b
kê biên phát mãi tài sản trả nợ cho ngân hàng. Nay bà khởi kiện ông X, bà H yêu
cầu Tòa án công nhận giao dịch dân sự bằng giấy thỏa thuận mua bán ngày
12/7/2011 UBND S xác nhận đối với hiện trạng diện tích đất đang sử
3
dụng là thửa đất số 22, Tờ bản đồ số 35 tọa lạc tại khu phố S, xã S, thành phố L,
tỉnh Đồng Nai diện tích 308,4m
2
theo Trích lục và đo vhiện trạng thửa
đất bản đồ địa chính số 2414/2024 ngày 18/9/2024 của Văn phòng đăng đất
đai tỉnh Đ chi nhánh L1. sẽ trách nhiệm thanh toán cho ông X, bà H số
tiền mua đất 50.000.000 đồng còn thiếu sau khi có giấy tờ.
Nay bà B yêu cầu Tòa án ghi nhận sự thỏa thuận giữa ông X, H
về việc tiếp tục thực hiện hợp đồng và ghi nhận thỏa thuận ông X, bà H sẽ trả lại
cho bà số tiền chi phí tố tụng là 25.984.826 đồng, ngoài ra bà không còn yêu cầu
gì khác.
+ Không yêu cầu định giá lại diện tích đất tranh chấp và thống nhất giá đã
được Hội đồng định gvào năm 2025 diện tích đất này không biến động
nhiều về giá cả.
+ Thống nhất bản vẽ của Văn phòng Đ chi nhánh L1 đo vẽ số: 2414/2024
ngày 18/9/2024.
+ Về án phí: đề nghị giải quyết theo quy định pháp luật.
* Tại biên bản lấy lời khai, bản tường trình - bị đơn Đặng Thị H, ông
Lê Ngọc X trình bày:
Lời khai của ông X, bà H thống nhất với lời trình bày của bà Bùi Thị B về
quá trình giao kết thực hiện việc chuyển nhượng quyền sdụng đất của các
bên. Ngày 25/5/2015 bà H có ký hợp đồng tín dụng với Ngân hàng Á để vay vốn
và thế chấp quyền sử dụng đất luôn cả phần đất đã chuyển nhượng cho bà B vào
năm 2011, người làm thủ tục tách thửa cho B khi nào giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất sẽ rút sổ về sang tên cho B, nhưng ông bà làm ăn
thất bại không còn khả năng chi trả H bđi nên không thực hiện được
sang tên thửa đất cho B đến hôm nay. Đối với yêu cầu khởi kiện của B
yêu cầu độc lập của Ngân hàng Á thì ông bà xin Ngân hàng Á giúp đỡ vợ chồng
bà và bà B hoàn thành thủ tục quyền sử dụng đất thửa đất số 22, tờ bản đồ số 35
cho bà B. ông X, bà Hòa đồng Ý với ý kiến của bà B về số tiền sau khi làm xong
thủ tục đồng ý trả toàn cho B số tiền chi phí tố tụng, ngoài ra ông
không còn yêu cầu gì khác.
Đối với việc thế chấp tài sản cho ngân hàng, vào năm 2015 ông bà có vay
mượn của ngân hàng Á số tiền 3.500.000.000đồng; tài sản đảm bảo các giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất diện tích 1.075m
2
thửa đất số 1043 (nay thửa
22, 23 tờ bản đ số 35 phường S) theo hợp đồng thế chấp s
DNA.BĐCN.02200415 ngày 25/4/2015. Khi thế chấp tài sản trên thì một phần
thửa đất đã chuyển nhượng cho bà B bà B đã xây nhà từ năm 2011. Khi ngân
hàng đến thẩm định tài sản để vay tiền chúng tôi thông báo cho ngân hàng
biết là một phần đất đã chuyển nhượng cho bà B như đã nêu trên. Nay chúng tôi
đồng ý trả tiền cho ngân hàng đồng ý phát mãi một phần tài sản thế chấp để
trả khoản nợ trên cho ngân hàng.
*Tại bản tường trình, biên bản lấy lời khai, lời khai tại phiên tòa đại
diện theo ủy quyền của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ngân hàng
4
thương mại cổ phần () Á Châu trình bày:
Vào năm 2015, Ngân hàng thương mại cổ phần () Á Châu cấp tín dụng
cho ông X, H với stiền vay 3.500.000.000 đồng, theo hợp đồng tín dụng
số DNA.BĐCN.02200415 - 02 ngày 25/4/2015 hợp đồng số
DNA.BĐCN.02200415 - 03 ngày 25/4/2015; theo khế ước nhận nợ số
196837829; 196842659 ngày 27/04/2015; tài sản đảm bảo đthanh toán khoản
nợ vay trên thửa đất số 1043, tờ bản đồ số 07, theo hợp đồng thế chấp số
DNA.BĐCN.02200415 ngày 25/4/2015. Do ông X, H vi phạm nghĩa vụ trả
nợ nên Ngân hàng TMCP Á khởi kiện ông, ra Tòa án yêu cầu trả số nợ trên.
Ngày 19/9/2017, Tòa án nhân dân thị xã Long Khánh ban hành Quyết định công
nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 05/2017/QĐST-KDTM sau đó bị hủy.
Ngân hàng TMCP Á nhận thế chấp tài sản của ông X, H đúng theo quy định
pháp luật, vậy yêu cầu Tòa án tuyên hủy Giấy thỏa thuận mua bán đất được
lập ngày 12/7/2011 giữa ông Lê Ngọc X, bà Đặng Thị H với bà Bùi Thị B, đồng
thời bác toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn là bà Bùi Thị B vì theo quy định tại Bộ
luật Dân sự Luật đất đai đều quy định “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất phải được lập thành văn bản, có công chứng, chứng thực theo quy định
pháp luật”. Tuy nhiên, việc mua bán đất giữa B ông X, H chưa được
thực hiện việc công chứng, chứng thực vi phạm về hình thức của hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, do vậy việc mua bán đất của ông X, H
cho B không được pháp luật công nhận bảo vệ, đồng thời đề nghị Hội
đồng xét xử xem xét bảo vquyền lợi của người thứ ba ngay tình, vì ngân hàng
đã thực hiện việc đăng ký thế chấp đầy đủ đúng quy định.
+ Hiện nay ngân hàng Á yêu cầu ông Ngọc X, H phải trả cho ngân
hàng số tiền: 5.123.852.079đồng (Nợ gốc 1.811.080.000đồng, lãi trong hạn
225.843.408đồng, lãi 3.086.928.671 đồng). Trường hợp ông X không trả
được số tiền trên thì ngân hàng được quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền phát
mãi tài sản thế chấp diện tích đất thuộc thửa 1043, tờ bản đồ số 07 (nay
thửa đất số 22, 23 tờ bản đồ số 35) tọa lạc tại KP. Suối Tre, S, thành phố L,
tỉnh Đồng Nai của ông Lê Ngọc X, bà Đặng Thị H.
+ Đề nghị hủy hợp đồng chuyển nhượng bằng giấy tay giữa ông Ngọc
X, bà Đặng Thị H với bà Bùi Thị B diện tích đất trên.
+ Không yêu cầu định giá lại diện tích đất tranh chấp và thống nhất giá đã
được Hội đồng định gvào năm 2025 diện tích đất này không biến động
nhiều về giá cả.
+ Thống nhất bản vẽ của Văn phòng Đ chi nhánh L1 đo vẽ số 2414/2024
ngày 18/9/2024.
+ Về án phí: đề nghị giải quyết theo quy định pháp luật.
* Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan – ông Trương Văn H1,
Trương Thị Tuyết M2 trình bày:
Ông H1 chồng của B, chị M2 con ruột của ông bà; ông B
chung sống với nhau nhưng không đăng kết hôn. Hiện nay chỉ ông
5
B, cháu M2 đang sinh sống trên thửa đất tranh chấp. Việc chuyển nhượng mua
bán do B mua bán với ông X, H từ năm 2011, ông không liên quan gì,
ông chị M2 không ý kiến hay yêu cầu về việc các bên đang tranh chấp
nên ông H1 chị M2 đề nghị Tòa án cho phép được vắng mặt trong tất cả các
buổi làm việc và xét xử và đề nghị Tòa án giải quy định pháp luật.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 25/2025/DS-ST ngày 30/5/2025 của Toà án
nhân dân thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai (nay Tòa án nhân dân khu
vực 4 – Đồng Nai) đã quyết định:
Chp nhn yêu cu khi kin của nguyên đơn Bùi Th B v vic yêu
cu công nhn hợp đồng mua bán đất gia ông Lê Ngc X và Đng Th H vi bà
Bùi Th B ký ngày 12/7/2011.
Công nhận giao dịch dân sự bằng giấy thỏa thuận mua bán đất ngày
12/7/2011 giữa ông Ngọc X, Đặng Thị H Bùi Thị B đối với diện
tích đất 308,4m
2
tại thửa đất số 22, tờ bản đồ số 35 tọa lạc tại khu phố S, phường
S, thành phố L, tỉnh Đồng Nai, theo Trích lục đo vhiện trạng thửa đất bản
đồ địa chính số 2414/2024 ngày 18/9/2024 của Văn phòng đăng đất đai tỉnh
Đ - chi nhánh L1.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ngân hàng thương mại cổ phần Á đối
với ông Ngọc X Đặng Thị H về việc tranh chấp hợp đồng vay tài sản.
Buộc ông Ngọc X Đặng Thị H nghĩa vụ liên đới thanh toán cho
ngân hàng Á số tiền nợ 5.123.852.079đ (năm tỷ một trăm hai mươi ba triệu
tám trăm năm mươi hai ngàn không trăm bảy mươi chín đồng. (Trong đó nợ gốc
1.811.080.000đồng, lãi trong hạn 225.843.408đồng, lãi 3.086.928.671 đồng).
Chấp nhận một phần hợp đồng thế chấp số DNA.BĐCN.02200415 ngày
25/4/2015 đối với diện tích đất 493.9m
2
tại thửa đất số 23, tờ bản đồ số 35 bản
đồ địa chính phường S, theo trích lục đo vẽ hiện trạng thửa đất bản đồ địa
chính số: 2414/2024 ngày 18/9/2024 của Văn phòng Đ chi nhánh L1. Ngân hàng
thương mại cổ phần Á được quyền yêu cầu quan thi hành án phát mãi tài sản
thế chấp diện tích đất 493.9m
2
tại thửa đất số 23, tờ bản đồ số 35 của ông X,
H trên để thanh toán khoản nợ cho ngân hàng Á.
Hủy một phần hợp đồng thế chấp số DNA.BĐCN.02200415 ngày
25/4/2015 đối với diện tích đất 308.4m
2
thửa đất số 22, tờ bản đồ số 35 bản đồ
địa chính phường S của Bùi Thị B, theo trích lục và đo vẽ hiện trạng thửa đất
bản đồ địa chính số: 2414/2024 ngày 18/9/2024 của Văn phòng Đ chi nhánh L1.
Không chấp nhận yêu cu khi kin ca Ngân hàng c phn Á v hy hp
đồng mua bán đất gia ông Lê Ngc X và Đặng Th H vi bà Bùi Th B ký ngày
12/7/2011.
Ngoài ra, Bản án còn tuyên nghĩa vụ chịu án phí, chi phí tố tụng, nghĩa vụ
thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử thẩm, vào ngày 12/6/2025 người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan là Ngân hàng TMCP Á kháng cáo toàn bộ Bản án sơ thẩm.
6
Ngày 12/7/2025, Ngân hàng TMCP Á có Đơn sửa đổi, bổ sung đơn kháng
cáo, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xét xử theo hướng chấp nhận không chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của B; tuyên vô hiệu hợp đồng mua bán đất gia ông
Lê Ngc X Đặng Th H vi Bùi Th B ngày 12/7/2011; công nhn hiu
lc ca hợp đồng thế chp gia Ngân hàng TMCP Á và ông X bà H.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Đại diện Ngân hàng TMCP Á giữ nguyên yêu cầu kháng cáo như đã
trình bày tại Đơn sửa đổi bổ sung đơn kháng cáo đề ngày 12/7/2025.
- Đại diện Viện kiểm sát tỉnh Đồng Nai phát biểu quan điểm:
Về việc tuân thủ pháp luật tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án của Tòa án
từ khi thụ lý đến khi xét xử phúc thẩm của Thẩm phán, Thư ký Tòa án, Hội đồng
xét xử các đương sự đã tuân thủ đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân
sự.
Về nội dung giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản
1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự; không chấp nhận kháng cáo của Ngân
hàng TMCP Á; giữ nguyên Bản án dân s thẩm s 25/2025/DS-ST ngày
30/5/2025 của Toà án nhân dân thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai (nay
Tòa án nhân dân khu vực 4 - Đồng Nai).
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án đã được thẩm tra tại
phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng, Hội đồng xét xử nhận định:
Về tố tụng:
[1] Đơn kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ngân hàng
TMCP Á làm trong thời hạn luật định, hình thức, nội dung và phạm vi kháng
cáo phù hợp với quy định tại các Điều 271, 272, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015 nên đủ điều kiện được xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
Về nội dung tranh chấp:
[2] Về nguyên nhân dẫn đến việc tranh chấp: Ngày 12/7/2011, bà Bùi Thị
B có nhận chuyển nhượng một phần đất thuộc thửa 1043, tờ bản đồ số 07 (nay là
thửa đất số 22, tờ bản đồ số 35) tọa lạc tại ấp S, S, thị L, tỉnh Đồng Nai
của vợ chồng ông Ngọc X, Đặng Thị H với giá chuyển nhượng
250.000.000 đồng. Việc mua bán được hai bên lập thành “Giấy thỏa thuận mua
bán” có xác nhận của UBND xã S, thị xã L (cũ). Thời điểm hai bên lập giấy mua
bán, bà B đã thanh toán cho vợ chồng ông X H 03 lần với tổng số tiền
200.000.000 đồng và được ông X bà H bàn giao đất để sử dụng. Hai bên có thỏa
thuận khi nào hoàn tất việc sang tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
(sau đây gọi tắt là: GCNQSDĐ) cho B thì B sẽ trách nhiệm thanh toán
nốt số tiền 50.000.000 đồng còn lại (BL 02-04). Đầu năm 2012, B tiến hành
xây nhà trên một phần của thửa đất, làm tường rào và ở trên đất; năm 2014, bà B
tiếp tục xây thêm nhà trọ trên phần đất còn lại và sử dụng đất cho đến nay nhưng
7
các bên chưa làm thủ tục tách thửa cho B phần đất đã nhận chuyển
nhượng.
[3] Năm 2015 ông X, H thế chấp toàn bộ thửa đất số 1043, tờ bản đồ
số 07 (nay thửa đất số 22, 23 tờ bản đồ số 35) tọa lạc tại ấp S, S, thị L,
tỉnh Đồng Nai của ông cho Ngân hàng TMCP Á đvay vốn, trong đó bao
gồm cả phần đất đã chuyển nhượng cho B. Do không tiền trả vi phạm
hợp đồng nên ngân hàng khởi kiện buộc ông X, B phải trả số tiền nợ vay
đồng thời yêu cầu phát mãi tài sản thế chấp thửa đất trên. Do đó, B khởi
kiện yêu cầu Tòa án công nhn hợp đồng mua bán đt gia ông Ngc X
Đặng Th H vi Bùi Th B ngày 12/7/2011; Ngân hàng TMCP Á cũng
khi kin yêu cu Tòa án buc ông X H phải trả số tiền nợ gốc lãi đã vay
cho ngân hàng, yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa
ông X, bà H với bà Bùi Thị B và yêu cầu phát mãi tài sản thế chấp để thanh toán
nợ.
[4] Xét kháng cáo của Ngân hàng TMCP Á (sau đây gọi tắt là: ngân hàng)
về yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm: không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của B;
tuyên vô hiệu hợp đồng mua bán đt gia ông Lê Ngc X Đặng Th H vi bà
Bùi Th B ngày 12/7/2011; công nhn hiu lc ca hợp đng thế chp gia
Ngân hàng TMCP Á và ông X bà H, nhận thấy:
[5] Năm 2011, B nhận chuyển nhượng của ông X H diện tích
308,4m
2
(theo kết quả đo đạc của Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đ - Chi nhánh
L1 thhiện tại bản Trích lục đo vẽ hiện trạng thửa đất bản đồ địa chính số
2414/2024 xác nhận ngày 18/9/2024- BL 651) là một phần thuộc thửa 1043,
tờ bản đồ số 07 (nay thửa 22, tờ bản đồ số 35) tại ấp S, xã S, thị L. Việc
chuyển nhượng được hai bên lập giấy tay mua bán được UBND S xác
nhận. H, ông X đã nhận tiền; B nhận đất, xây nhà, xây tường rào sử
dụng ổn định từ đầu năm 2012 đến nay, không phát sinh tranh chấp. Các bên
đều thừa nhận các tình tiết trên, nên đây sự kiện không phải chứng minh theo
khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[6] Xét thấy, giao dịch chuyển nhượng giữa các bên được xác lập trên
thực tế, bằng sự tự nguyện được UBND xác nhận, phù hợp với quy định
tại các điều 121, 122, 123 Bộ luật Dân sự năm 2005; khoản 1 Điều 117 và khoản
2 Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2015. Tuy hợp đồng chưa tuân thủ đầy đủ về
hình thức theo Luật Đất đai 2003 nhưng các bên đã giao nhận tiền (trên 2/3 giá
trị) bàn giao đất thực tế; B đã sử dụng đất ổn định, xây dựng nhà
không ai tranh chấp. Bên cạnh đó, tại Biên bản xác minh ngày 10/10/2018,
UBND S đã ý kiến khẳng định thửa 1043 khi đo đạc năm 2013 đã tách
thành thửa 22 và thửa 23 theo hiện trạng quản lý; thửa 22 (là thửa B nhận
chuyển nhượng, đủ điều kiện tách thửa được sang tên nếu không tranh chấp.
Đến nay, các đương sự vẫn thống nhất tiếp tục thực hiện việc chuyển nhượng và
làm thủ tục sang tên. Như vậy, có căn cứ khẳng định việc chuyển nhượng cho bà
B hoàn toàn thật, phù hợp với hiện trạng ý chí các bên. Để bảo đảm
quyền, lợi ích hợp pháp và sự ổn định cuộc sống của bà B Tòa án cấp sơ thẩm đã
công nhận giao dịch dân sự bằng giấy thỏa thuận mua bán đất ngày 12/7/2011
8
giữa ông Ngọc X, Đặng Thị H Bùi Thị B đối với diện tích đt
308,4m
2
các bên đã chuyển nhượng cho nhau là phù hợp. Cần giữ nguyên
Bản án sơ thẩm về phần này.
[7] Về việc yêu cầu Tòa án buộc ông X bà H phải có nghĩa vụ thanh toán
số tiền nợ gốc và lãi theo hợp đồng tín dụng: Tòa án cấp thẩm đã chấp nhận
yêu cầu của phía ngân hàng, buộc ông Lê Ngọc X, bà Đặng Thì H2 phải có trách
nhiệm thanh toán cho ngân hàng số tiền nợ 5.123.852.079 đồng (gồm:
1.811.080.000 đồng nợ gốc, 225.843.408 đồng lãi trong hạn 3.086.928.671
đồng lãi quá hạn). Sau khi xét xử sơ thẩm, các đương sự không kháng cáo, Viện
kiểm sát không kháng nghị về nội dung này nên Hội đồng xét xử không xem xét
lại theo thủ tục phúc thẩm.
[8] Về tài sản thế chấp: Để đảm bảo cho khoản vay, ngân hàng đã nhận
thế chấp tài sản đảm bảo thửa đất số 1043, tờ bản đồ số 07 bản đồ địa chính
S theo Hợp đồng thế chấp số DNA.BĐCN.02200415 ngày 25/4/2015 giữa
ông X bà B và ngân hàng. Tại Đơn kháng cáo, ngân hàng cho rằng căn cứ để xác
định Giấy thỏa thuận mua bán lập ngày 12/7/2011 giữa B với ông X H2
không giá trị pháp lý, do: tại thời điểm năm 2011 ông X H2 chưa
được cấp GCNQSDĐ nên không có quyền được chuyển nhượng đất; việc
chuyển nhượng đất phải được lập thành hợp đồng công chứng, chứng thực
nhưng các bên chỉ lập giấy tay, không công chứng, chứng thực là vi phạm về
mặt hình thức nên việc chuyển nhượng đất giữa các bên không phát sinh hiệu
lực pháp lý. Đồng thời, cho rằng hợp đồng thế chấp giữa ngân hàng với ông X
H2 là có hiệu lực, vì: ngân hàng đã căn cứ vào GCNQSDĐ, đây chứng thư
pháp cao nhất để ghi nhận ông X bà H2 được quyền sử dụng, sở hữu tài sản;
hợp đồng này thực hiện đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định tại thời
điểm kết không hề bất cứ tranh chấp, thông tin ngăn chặn nào; ngân hàng
ký kết hợp đồng thế chấp là hoàn toàn ngay tình. Tại phiên toà phúc thẩm, người
đại diện theo ủy quyền của ngân hàng bổ sung căn cứ để xác định giao dịch
chuyển nhượng ngày 12/7/2011 vô hiệu là vì các lý do: giấy sang nhượng không
thề hiện diện tích, giá tiền, tứ cận cụ thể; phần xác nhận của UBND chỉ
chữ đóng dấu không lời xác nhận nên không sở xác định nội
dung thỏa thuận chuyển nhượng được UBND xác nhận không chữ đó
phải chữ của ông Chủ tịch hay không; một hợp đồng giấy tay không
giá trị pháp lý không thể trở thành hợp đồng hợp pháp. Vì vậy, đề nghị Tòa phúc
thẩm tuyên vô hiệu giao dịch chuyển nhượng ngày 12/7/2011 giữa B với ông
X H2, công nhận hiệu lực của hợp đồng thế chấp giữa ông X H2 với ngân
hàng.
[9] Xét trình bày của phía ngân hàng, Hội đồng xét xử xét thấy: tại phiên
tòa những người đại diện theo ủy quyền của ngân hàng cho rằng ngân hàng nhận
tài sản thế chấp thì chỉ căn cứ vào Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông
X, H2, còn việc thẩm định tài sản thế chấp là chỉ để xác định giá trị tài sản
thế chấp. Xét trình bày trên không hợp lý, bởi ngân hàng đồng ý giao cho
người vay vốn một khoản tiền lớn nhưng lại chấp nhận nhận thế chấp một tài
sản chỉ được thể hiện trên giấy tờ không xem xét đến thực tế hiện trạng tài
9
sản thể hiện ngay từ khi nhận thế chấp ngân hàng đã chấp nhận rủi ro. Xét,
trình bày của bị đơn ông X H2 khi ông khẳng định thời điểm ngân hàng
đến thẩm định tài sản thế chấp ông bà có thông báo cho ngân hàng biết việc bà B
đã mua đất. Và, xét việc bà B đã tiến hành xây dựng công trình có hàng rào ranh
giới rõ ràng từ năm 2012, trước thời điểm ngân hàng nhận thế chấp cũng như xét
việc chính ngân hàng thừa nhận đến thẩm định đất thì thấy rằng, thời điểm
nhận thế chấp thửa đất 1043 ngân hàng hoàn toàn biết và buộc phải biết trên đất
liên quan đến người thứ ba (là B). Nhưng, ngân hàng vẫn ký kết hợp đồng
thế chấp một phần lỗi dẫn đến hợp đồng thế chấp bhiệu một phần
không thuộc trường hợp ngay tình. Tòa án cấp thẩm chỉ chấp nhận một phần
hiệu lực của hợp đồng thế chấp căn cứ. Đồng thời, như đã phân tích các
đoạn [5], [6] thì mặc giao dịch ngày 12/7/2011 giữa B ông X bà H2
mặc không đúng về mặt hình thức, trong giấy thỏa thuận chuyển nhượng
không ghi số tiền, diện tích, tứ cận nhưng các bên đã thống nhất với nhau về
giá tiền, diện tích, đã bàn giao đất trên thực tế, ranh giới ràng; giao dịch
chuyển nhượng này trước giao dịch thế chấp. Theo tinh thần hướng dẫn tại
mục 2 phần II Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về việc hướng dẫn áp dụng pháp luật trong
việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình thì cần công nhận giao
dịch thực tế của các đương sự này. Ngoài ra, xét tại phiên tòa phúc thẩm, người
đại diện theo ủy quyền ngân hàng yêu cầu Tòa trưng cầu giám định đối với chữ
trong phần xác nhận của UBND S đxác định đây phải chữ của
ông Chủ tịch Ủy ban hay không, Hội đồng xét xử thấy rằng việc giám định
không cần thiết vì giấy sang nhượng này được lập bằng giấy tay đã được xác
định không đúng pháp luật về mặt hình thức nên không chấp nhận yêu cầu
giám định của phía ngân hàng.
[10] Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử thấy rằng kháng cáo
của Ngân hàng thương mại cổ phần Á là không có căn cứ để chấp nhận.
[11] Vchi phí ttụng án phí dân sự thẩm: phần này các đươgn sự
không kháng cáo, Viện kiểm sát không kháng nghị nên Hội đồng xét xử không
xem xét và giữ nguyên quyết định của Bản án sơ thẩm.
[12] Đối vi s tiền 50.000.000 đồng bà Bùi Th B đang nợ ông X, H2.
S tiền này hai bên đã tha thun khi nào làm xong giy t B s tr li cho
ông X, H2 như đã cam kết. Ông X, bà H2 không đơn yêu cu gii quyết
trong v án này nên Tòa án không xem xét trong v án này, các đương s
quyn khi kin bng mt v án khác khi có yêu cu.
[13] Án phí dân s phúc thẩm: do kháng cáo không đưc chp nhn nên
Ngân hàng TMCP Á phi chịu 300.000 đồng.
[14] Quan điểm của đại din Vin kim sát tại phiên tòa căn c nên
đưc chp nhn.
Vì các l trên,
QUYẾT ĐỊNH:
10
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Không chấp nhận kháng cáo của người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Ngân hàng TMCP Á;
Giữ nguyên Bản án dân sự thẩm s25/2025/DS-ST ngày 30 tháng 5
năm 2025 (kèm theo Quyết định sửa đổi, bổ sung Bản án s 08/2025/QĐ-
SCBSBA ngày 20/10/2025) của Tòa án nhân dân thành phố Long Khánh, nay
Tòa án nhân dân khu vực 4 – Đồng Nai.
Căn cứ các điều 85, 86, 87, 92, 147, 157, 165 của Bộ luật tố tụng dân sự;
các Điều 121; 122, 123 của Bộ luật dân sự năm 2005; các điều 117, 129, 292,
295, 297, 318, 325, 357, 463, 466, 467, khoản 1 điều 468, 500; 501, 502; điểm d
khoản 1 Điều 688 của Bộ luật dân sự năm 2015; các điều 99, 100, 166, 167, 203
của Luật Đấtnăm 2013; khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức Tín dụng năm 2010;
Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Chp nhn yêu cu khi kin của nguyên đơn Bùi Th B v vic yêu
cu công nhn hợp đồng mua bán đất gia ông Lê Ngc X và Đng Th H vi bà
Bùi Th B ký ngày 12/7/2011.
Công nhận giao dịch dân sự bằng giấy thỏa thuận mua bán đất ngày
12/7/2011 giữa ông Ngọc X, Đặng Thị H Bùi Thị B đối với diện
tích đất 308,4m
2
tại thửa đất số 22, tờ bản đồ số 35 tọa lạc tại khu phố S, phường
S, thành phố L, tỉnh Đồng Nai, theo Trích lục đo vhiện trạng thửa đất bản
đồ địa chính số: 2414/2024 ngày 18/9/2024 của Văn phòng đăng đất đai tỉnh
Đ chi nhánh L1.
Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, các đương sự có nghĩa vụ liên hệ với
quan nhà nước thẩm quyền để tiến hành thủ tục sang tên, chuyển quyền
cũng như đăng khai, tách thửa theo quy định của pháp luật (kèm theo
Trích lục đo v hiện trạng thửa đất bản đồ địa chính số 2414/2024 ngày
18/9/2024 của Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Đ chi nhánh L1).
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ngân hàng thương mại cổ phần Á đối
với ông Ngọc X Đặng Thị H về việc tranh chấp hợp đồng vay tài sản.
Buộc ông Ngọc X Đặng Thị H nghĩa vụ liên đới thanh toán cho
ngân hàng Á số tiền nợ 5.123.852.079đ (năm tỷ một trăm hai mươi ba triệu
tám trăm năm mươi hai ngàn không trăm bảy mươi chín đồng. Trong đó ngốc
1.811.080.000 đồng, lãi trong hạn 225.843.408 đồng, lãi 3.086.928.671 đồng).
Kể từ ngày bản án hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp quan
thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn
yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả
cho người được thi hành án) nếu người phải thi hành án chưa thanh toán cho
ngân hàng Á số tiền nợ trên thì hàng tháng còn phải chịu thêm khoản tiền lãi quá
hạn phát sinh trên số tiền nợ gốc chưa thanh toán tính từ ngày 31/5/2025,
theo lãi suất thỏa thuận tại Hợp đồng tín dụng các bên đã số:
DNA.BĐCN.02200415 - 02 ngày 25/4/2015 hợp đồng s
11
DNA.BĐCN.02200415 - 03 ngày 25/4/2015; theo khế ước nhận nợ số
196837829; 196842659 ngày 27/04/2015 tương ng với số tiền thời gian
chậm trả.
Chấp nhận một phần hợp đồng thế chấp số DNA.BĐCN.02200415 ngày
25/4/2015 đối với diện tích đất 493.9m
2
tại thửa đất số 23, tờ bản đồ số 35 bản
đồ địa chính phường S, theo trích lục đo vẽ hiện trạng thửa đất bản đồ địa
chính số: 2414/2024 ngày 18/9/2024 của Văn phòng Đ chi nhánh L1. Ngân hàng
thương mại cổ phần Á được quyền yêu cầu quan thi hành án phát mãi tài sản
thế chấp diện tích đất 493.9m
2
tại thửa đất số 23, tờ bản đồ số 35 của ông X,
H trên để thanh toán khoản nợ cho ngân hàng Á.
Hủy một phần Hợp đồng thế chấp số DNA.BĐCN.02200415 ngày
25/4/2015 đối với diện tích đất 308.4m
2
thửa đất số 22, tờ bản đồ số 35 bản đồ
địa chính phường S của Bùi Thị B, theo trích lục và đo vẽ hiện trạng thửa đất
bản đồ địa chính số: 2414/2024 ngày 18/9/2024 của Văn phòng Đ chi nhánh L1.
Không chấp nhận yêu cu khi kin ca Ngân hàng c phn Á v yêu cu
hy hợp đồng mua bán đất gia ông Lê Ngc X và Đặng Th H vi bà Bùi Th B
ký ngày 12/7/2011.
Chi phí tố tụng: Ông Lê Ngọc X, bà Đặng Thị H nghĩa vụ hoàn trả cho
Bùi Thị B cho phí tố tụng 25.984.826 (hai lăm triệu chín tm tám bốn nghìn
tám trăm hai sáu) đồng. Buộc ông X, H phải trả lại cho Ngân hàng Á số tiền
3.000.000đồng (ba triệu) đồng.
Án phí dân sự sơ thẩm:
Ông Ngọc X, Đặng Thị H phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng
án phí dân sự sơ thẩm không giá ngạch 113.123.852 (một trăm mười ba
triệu một trăm hai ba nghìn tám trăm năm hai) đồng án phí dân sthẩm
giá ngạch;
Ngân hàng TMCP Á phi chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng, được tr
vào s tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đng tm ứng án phí ngân hàng đã np theo
biên lai s 008419 ngày 04/5/2018 ti Chi cc thi hành án dân s th Long
Khánh, nay là Phòng Thi hành án dân s khu vc 4- Đồng Nai.
Hoàn tr cho Bùi Th B s tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đng tm ng
đã nộp theo biên lai thu tin s 008181 ngày 05/02/2018 ca Chi cc thi hành án
dân s th Long Khánh, nay Phòng Thi hành án dân s khu vc 4-Đồng
Nai.
Hoàn tr cho Ngân hàng TMCP Á s tin 37.589.034 (ba by triệu năm
trăm tám chín nghìn không trăm ba bốn) đng tm ứng đã np theo biên lai thu
tin s 008610 ngày 22/3/2017 ca Chi cc thi hành án dân s th Long
Khánh, nay là Phòng Thi hành án dân s khu vc 4- Đồng Nai.
Án phí dân sự phúc thẩm: Ngân hàng TMCP Á phải chịu 300.000 (ba
trăm nghìn) đồng, được trừ vào số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tạm ứng án
12
phí ngân hàng đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số
0018616 ngày 11/7/2025.
Trường hợp Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 9 Luật Thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Đồng Nai;
- TAND khu vực 4 - Đồng Nai;
- Phòng Thi hành án dân sự khu vực
4 - Đồng Nai;
- THADS tỉnh Đồng Nai;
- Các đương sự;
- Lưu: HSVA, Tổ HCTP, Tòa DS.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đinh Thị Quý Chi
Tải về
Bản án số 588/2025/DS-PT Bản án số 588/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 588/2025/DS-PT Bản án số 588/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất