Bản án số 53/2022/HS-ST ngày 11/08/2022 của TAND TP. Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 53/2022/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 53/2022/HS-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 53/2022/HS-ST ngày 11/08/2022 của TAND TP. Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa về tội tàng trữ trái phép chất ma túy |
|---|---|
| Tội danh: | 249.Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015) |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND TP. Sầm Sơn (TAND tỉnh Thanh Hóa) |
| Số hiệu: | 53/2022/HS-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 11/08/2022 |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ án: |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ SẦM SƠN
TỈNH THANH HÓA
–––––––––––––
Bản án số: 53/2022/HS-ST
Ngày 11 - 8 - 2022
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
–––––––––––––––––––––––––––––––
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SẦM SƠN - TỈNH THANH HÓA
Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Bùi Thị Thuyên.
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Bùi Ngọc Nam.
Bà Trần Thị Ngọc.
Thư ký phiên tòa: Bà Lê Thị Hồng Nhung - Thư ký Tòa án nhân dân thành
phố Sầm Sơn.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân
thành phố sầm sơn tham gia phiên tòa:
Bà Vũ Thị Lan - Kiểm sát viên.
Ngày 11 tháng 8 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sầm Sơn,
tỉnh Thanh Hóa.
Xét xử công khai
vụ án hình sự sơ thẩm
thụ lý số: 46/2022/TLST- HS ngày 13
tháng 7 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 51/2022/QĐXXST- HS
ngày 01 tháng 8 năm 2022, đối với:
- Bị cáo: Trần Thanh T - sinh năm 1985 (giới tính: Nam).
ĐKHKTT: Khu phố Hồng Thắng, phường Quảng Cư, thành phố Sầm Sơn,
tỉnh Thanh Hóa; Trình độ học vấn: 10/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc
tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Bố: Trần Q B; mẹ: Nguyễn Thị
T; Bố mẹ bị cáo sinh được 5 người con, bị cáo Tùng là con thứ nhất trong gia
đìnhầu; Vợ: Lê Thị H, có 02 con, con lớn sinh năm 2014, con nhỏ sinh năm 2019;
Tiền sự: Không.
Nhân thân: - Ngày 16/5/2007 bị đưa vào cơ sở giáo dục Xuân Hà, Hà Tĩnh
thời gian 24 tháng về hành vi: Cố ý gây thương tích” và “Gây rối trật tự công
cộng”.
- Ngày 27/01/2010 TAND thị xã Sầm Sơn (Nay là thành phố Sầm Sơn), xử
phạt 36 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Cố ý gây thương tích” và tội “Cố ý làm
hư hỏng tài sản”, thời gian thử thách 5 năm.
Tiền án: Ngày 05/3/2018, bị Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa xử phát 30
tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong 28/8/2020.
Tạm giữ: Ngày 29/3/2022 đến ngày 07/4/2022, sau đó thay đổi Biện pháp
ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú”. Có mặt tại phiên tòa.
Người bào chữa cho bị cáo: Bà Nguyễn Thị Ngọc Trâm - Trợ giúp viên pháp
lý thuộc Trung Tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Thanh Hóa. Có mặt.

2
- Người chứng kiến: Ông Lê Mạnh Thường – sinh năm 1962.
Địa chỉ: Tổ dân phố Hưng Thông, phường Quảng Thọ, thành phố Sầm Sơn,
tỉnh Thanh Hóa. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa,
nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào hồi 22h15’ ngày 29/3/2022 tại đoạn đường liên khu phố Thành Thái,
phường Quảng Cư, thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Tổ tuần tra Bộ đội Biên
phòng đồn biên phòng Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa phát hiện Trần Thanh Tùng điều
khiển xe máy điện có biểu hiện nghi vấn, thấy Tổ công tác Tùng tăng ga bỏ chạy
thì bị khống chế Tùng bị ngã làm rơi 02 túi nilon màu trắng ngay dưới chân, Tổ
công tác yêu cầu Tùng nhặt lên mở ra bên trong túi có chứa các chất bột màu trắng
ngà và 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng Tùng khai
nhận là heroin và ma túy đá, Tổ công tác lập biên bản bắt người phạm tội quả tang
đưa Trần Thanh Tùng cùng tang vật về Đồn Biên Phòng để tiếp tục làm việc.
Vật chứng thu giữ gồm: 01 túi nilon màu trắng, bên trong có diềm đỏ chứa
các chất bột màu trắng ngà; 01 túi nilon màu trắng bên trong có diềm xanh chứa
các hạt tinh thể màu trắng (Niêm phong ký hiệu M1); 01 điện thoại di động hiệu
Realme (Niêm phong ký hiệu M2); 01 xe máy điện hãng OSAKAR, BKS: 36MĐ -
071.13 và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe moto gắn máy mang tên Trần Thị Tây.
Tại Bản kết luận giám định số: 1248/PC09 ngày 31/3/2022 của Phòng kỹ
thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa, kết luận: Chất bột màu trắng ngà trong túi
nilon màu trắng bên trong có diềm đỏ hình dạng chữ nhật, kích thước 08x05cm,
trong phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy có tổng khối lượng 0,628 gam
loại heroin; các hạt tinh thể màu trắng trong túi nilon màu trắng bên trong có diềm
xanh dạng hình vuông kích thước khoảng 2,5x2,5cm đựng trong phong bì niêm
phong gửi giám định có tổng khối lượng 0,523 gam loại Methamphetamine.
Quá trình điều tra, Trần Thanh Tùng khai nhận: Khoảng 21h45’ ngày
29/3/2022 Tùng gọi điện cho người phụ nữ không rõ tên, tuổi, địa chỉ hỏi mua ma
túy, người này đồng ý, hẹn Tùng đến gần quán Trâu giật ở đường Nam Sông Mã,
phường Quảng Cư, thành phố Sầm Sơn, Tùng đi xe máy điện đến đoạn đường liên
khu phố Thành Thái, phường Quảng Cư thì gặp người phụ nữ này đang ngồi trên
xe máy hướng ra đường Nam Sông Mã, Tùng quay xe vòng lại thì người phụ nữ
đưa cho Tùng 02 gói ma túy và nói giá 1.500.000đồng, do không có tiền Tùng khất
nợ hôm sau trả thì người phụ nữ không nói gì mà nổ máy đi thẳng về hướng đường
Nam Sông Mã, Tùng đi theo hướng ngược lại để về nhà được khoảng 3 mét thì bị
Tổ tuần tra Bộ đội biên phong phát hiện bắt quả tang thu giữ cùng tang vật.
Vật chứng vụ án: Mẫu vật còn lại sau giám định được đựng trong 01 phong
bì niêm phong dán kín do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa phát; 01
điện thoại di động nhãn hiệu Realme đang được bảo quản theo hồ sơ vụ án.
Đối với chiếc xe máy điện hãng OSAKAR, BKS: 36MD - 071.13 và 01 giấy
chứng nhận đăng ký xe moto gắn máy mang tên Trần Thị Tây. Quá trình điều tra
xác định chủ sở hữu là Trần Thị Tây (em gái Tùng), chị Tây không biết việc Tùng
đã sử dụng xe để đi mua ma túy, do đó cơ quan điều tra đã trả lại cho chị Tây.
3
Cáo trạng số: 53/CTr - VKS.HS ngày 12 tháng 7 năm 2022 của Viện kiểm sát
nhân dân thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa truy tố Trần Thanh Tùng về tội
“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249
BLHS.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với
Trần Thanh Tùng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249;
điểm p điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự;
xử phạt: Trần Thanh Tùng, mức án từ 18 đến 24 tháng tù, về tội “Tàng trữ trái
phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành tù tính từ ngày bắt giam thi hành án nhưng
được trừ đi thời gian tạm giữ tính từ ngày 29/3/2022 đến 07/3/2022.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy 0,628
gam loại heroin và 0,523 gam loại Methamphetamine còn lại sau giám định đựng
trong 01 phong bì niêm phong do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa
phát hành và tịch thu 01 điện thoại di động nhãn hiệu Realme để sung công quỹ
Nhà nước.
Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là lao động tự do thu nhập không ổn
định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Về án phí: Bị cáo thuộc người khuyết tật nên được miễn án phí theo quy định của
pháp luật.
- Trợ giúp viên pháp lý phát biểu quan điểm bào chữa đối với bị cáo: Thống
nhất với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát về điều luật, tội danh áp dụng đối
với bị cáo, nhưng xét thấy bị cáo là người khuyết tật nặng được hưởng các chính
sách của Nhà nước nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử cho bị cáo một mức án
thấp nhất của khung hình phạt để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội, không
áp dụng hình phạt bổ sung và miễn án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cáo theo quy
định của pháp luật.
Trong phần tranh luận bị cáo không có ý kiến tranh luận gì với bản luận tội
của đại diện Viện kiểm sát và quan điểm bào chữa của Trợ giúp viên pháp lý đối
với bị cáo.
Trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án, trong lời nói sau cùng bị cáo tỏ ra ăn
năn hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử bị cáo mức án thấp nhất để bị
cáo sớm có điều kiện trở về với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ
án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1].Về tố tụng: Trong giai đoạn tiến hành tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát; Điều tra viên; Kiểm sát viên đã thực hiện điều tra, truy tố đúng theo quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo
không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng.
[2]. Về nội dung vụ án: Do sử dụng ma túy nên vào khoảng 22h15’ ngày
29/3/2022 tại đoạn đường liên khu phố Thành Thái, phường Quảng Cư, thành phố
Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa, Tổ tuần tra của Bộ đội Biên phòng thuộc đồn biên
phòng Sầm Sơn phát hiện Trần Thanh Tùng có hành vi tàng trữ trái phép các chất

4
ma túy, qua giám định có tổng khối lượng 0,628 gam loại heroin và 0,523 gam loại
Methamphetamine. Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như
nội dung bản cáo trạng đã nêu, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra
và người chứng kiến.
Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố Trần Thanh Tùng về tội “Tàng trữ trái
phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, là có
căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3]. Xét tính chất vụ án: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã
hội, bị cáo đã có hành vi tàng trữ lượng 0,628 gam loại heroin và 0,523 gam loại
Methamphetamine để sử dụng là hoàn toàn không có giấy phép của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền, là cố ý trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các
chất ma túy của Nhà nước một cách trái pháp luật, ma túy là mối đe dọa đến sự
phát triển lành mạnh của giống nòi, ảnh hưởng đến sức khỏe của con người, làm
sói mòn và ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Quá trình tàng trữ ma
túy để sử dụng bị cáo nhận thức được pháp luật và hành vi nhưng do nghiện ma
túy nên bị cáo bất chấp pháp luật. Hành vi phạm tội của bị cáo cần được xử lý
nghiêm minh tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã gây
ra để bị cáo thấy được sự nghiêm minh của pháp luật.
[4]. Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
thì thấy rằng: Bị cáo có nhân thân xấu và là đối tượng nghiện ma túy, cụ thể: Nhân
thân: Ngày 16/5/2007 bị đưa vào cơ sở giáo dục Xuân Hà, Hà Tĩnh thời gian 24
tháng về hành vi: Cố ý gây thương tích” và “Gây rối trật tự công cộng” và ngày
27/01/2010 TAND thị xã Sầm Sơn (Nay là thành phố Sầm Sơn), xử phạt 36 tháng
tù cho hưởng án treo về tội “Cố ý gây thương tích” và tội “Cố ý làm hư hỏng tài
sản”; Tiền án: Tại Bản án số: 40/2018/HS-PT ngày 05/3/2018 của Tòa án nhân dân
tỉnh Thanh Hóa xử phạt 30 tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp
hành xong 28/8/2020, nhưng chưa được xóa án tích, bị cáo không lấy đó là bài học
kinh nghiệm để rèn luyện bản thân mà ngày càng lấn xâu vào con đường phạm tội,
điều đó chứng tỏ ý thức chấp hành pháp luật của bị cáo là rất kém. Bị cáo phạm tội
lần này thuộc trường hợp tái phạm được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 51
BLHS nên cần phải có mức hình phạt nghiêm khắc. Tuy nhiên, quá trình điều tra
và tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, bị cáo là người khuyết tật theo giấy
xác nhận khuyết tật số hiệu: 3838214839010, thuộc dạng khuyết tật vận động, mức
độ khuyết tật đặc biệt nặng, do UBND phường Quảng Cư, thành phố Sầm Sơn xác
nhận ngày 20/8/2017 nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
được qui định tại điểm s điểm p khoản 1 Điều 51 BLHS. Do đó khi lượng hình cần
xem xét giảm cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng
của pháp luật mà yên tâm cải tạo, nhưng việc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội
một thời gian là cần thiết mới đủ tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo sớm trở thành
người công dân tốt, sống có ích cho xã hội, đồng thời răn đe và phòng ngừa tội
phạm chung cho xã hội.
[5]. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là lao động tự do, thu nhập không
ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6].Về xử lý vật chứng và án phí: Xem xét xử lý theo quy định của pháp luật

5
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ: Điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s điểm p khoản 1 Điều 51; điểm h
khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự.
- Điều 61; Điều 331; Điều 333; khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136 Bộ luật
tố tụng hình sự.
- Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, quy định
về án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên bố: Bị cáo Trần Thanh T, phạm tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt: Trần Thanh T, 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình
phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án nhưng được trừ thời gian đã tạm giữ từ
ngày 29/3/2022 đến ngày 07/4/2022.
Về xử lý vật chứng: - Tịch thu tiêu hủy 0,628 gam loại heroin và 0,523 gam
loại Methamphetamine còn lại sau giám định đựng trong 01 phong bì niêm phong
do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành.
- Tịch thu, phát mại 01 điện thoại nhãn hiệu Realme đựng trong 01 phong bì
niêm phong do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa để sung vào công
quỹ nhà nước theo biên bản mô tả giao nhận vật chứng số: 52/BBVC-CCTHA
ngày 12/7/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh
Hóa.
Về án phí: Bị cáo Trần Thanh T, là người khuyết tật nên được miễn án phí
hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Về quyền kháng cáo: Bị cáo Trần Thanh T, có quyền kháng cáo bản án này
trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Trường hợp bản án, Quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2
Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có
quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo các Điều 6; Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự.
Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- TAND tỉnh Thanh Hóa; THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- VKSND tỉnh Thanh Hóa;
- Công an TP Sầm Sơn;
- VKSNDTP Sầm Sơn;
- Chi cục THADSTP Sầm Sơn;
- Bị cáo;
- Lưu hồ sơ vụ án. Bùi Thị Thuyên
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 03/04/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 29/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 29/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 22/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 15/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 14/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 08/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 07/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 07/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 05/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 04/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 01/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 23/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 06/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 06/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 06/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 06/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 05/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 05/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 05/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm