Bản án số 520/2025/DS-PT ngày 29/09/2025 của TAND tỉnh Vĩnh Long về tranh chấp đất đai
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 520/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 520/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 520/2025/DS-PT
| Tên Bản án: | Bản án số 520/2025/DS-PT ngày 29/09/2025 của TAND tỉnh Vĩnh Long về tranh chấp đất đai |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp đất đai |
| Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Vĩnh Long |
| Số hiệu: | 520/2025/DS-PT |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 29/09/2025 |
| Lĩnh vực: | Dân sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ/việc: | Tranh chấp quyền về lối đi qua |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH VĨNH LONG
Bản án số: 520/2025/DS-PT
Ngày: 29-9-2025
V/v tranh chấp quyền về lối đi qua
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH VĨNH LONG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Lê Minh Đạt
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Thành Đăng
Ông Nguyễn Thế Hồng
- Thư ký phiên tòa: Ông Phan Trung Tín - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Vĩnh Long.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân
tỉnh Vĩnh Long tham gia phiên tòa:
Bà Lê Thị Hồng Vân - Kiểm sát viên.
Ngày 29 tháng 9 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 272/2025/TLPT-DS ngày 05 tháng 8
năm 2025 về “Tranh chấp quyền về lối đi qua”.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số: 54/2025/DS-ST ngày 29 tháng 5 năm 2025
của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre (Nay là Tòa án nhân dân
Khu vực 5 – Vĩnh Long) bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 401/2025/QĐXXPT-
DS ngày 20 tháng 8 năm 2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Xuân H, sinh năm: 1963. Địa chỉ: Số D, ấp
P, xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre (Nay là phường P, tỉnh Vĩnh Long).
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Trần Thanh G, sinh
năm 1978. Địa chỉ: Số G, ấp P, xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre (Nay là xã P, tỉnh
Vĩnh Long). Có mặt.
2. Bị đơn: Ông Bạch Minh T, sinh năm: 1976. Địa chỉ: Số B, ấp P, xã P,
huyện C, tỉnh Bến Tre (Nay là phường P, tỉnh Vĩnh Long).
2
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Bà Huỳnh Thị M, sinh năm
1974. Địa chỉ: ấp B, xã B, thành phố B, tỉnh Bến Tre (Nay là phường B, tỉnh
Vĩnh Long). Có mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Ông Bạch Minh Đ, sinh năm 1965. Địa chỉ: Số D, ấp P, xã P, huyện C,
tỉnh Bến Tre (Nay là phường P, tỉnh Vĩnh Long).
3.2. Bà Nguyễn Thị Á, sinh năm 1968. Địa chỉ: Số D, ấp P, xã P, huyện C,
tỉnh Bến Tre (Nay là phường P, tỉnh Vĩnh Long).
3.3. Bà Đinh Thị Linh T1, sinh năm 1977. Địa chỉ: Số B, ấp P, xã P, huyện
C, tỉnh Bến Tre (Nay là phường P, tỉnh Vĩnh Long).
Người đại diện theo ủy quyền của ông Đ, bà Á, bà T1: Bà Huỳnh Thị M,
sinh năm 1974. Địa chỉ: ấp B, xã B, thành phố B, tỉnh Bến Tre (Nay là phường
B, tỉnh Vĩnh Long). Có mặt.
4. Người kháng cáo: Ông Bạch Minh T, là bị đơn; bà Đinh Thị Linh T1, là
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo nội dung bản án sơ thẩm;
Tại đơn khởi kiện, trong quá trình tố tụng tại Tòa án và tại phiên tòa sơ
thẩm, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Trần Thanh G trình bày:
Bà H là chủ sử dụng quyền sử dụng đất thửa đất số 812, tờ bản đồ 02, (thửa
mới là thửa 79, tờ bản đồ 16) tọa lạc tại địa chỉ D ấp P, xã P, huyện C, tỉnh Bến
Tre. Nguồn gốc thửa đất và căn nhà hiện tại là bà H được bà nội bà H cho. Bà
nội bà H là Bà mẹ Việt Nam anh hùng Trần Thị T2. Bà H sinh ra, lớn lên và
sinh sống tại đây. Đường đi vào nhà bà H đã có từ trước ngày 30/4/1975. Ông
Bạch Minh T – là người tại địa phương là hàng xóm của bà H. Đầu tháng
8/2024, ông T trồng trụ kéo rào kẽm gai bít lối đi ra, vào nhà của bà H. Bà H có
trình báo chính quyền địa phương, chính quyền địa phương đã vận động nên ông
T đã tháo dỡ hàng rào. Nhưng đến ngày 13/8/2024, ông T lại tiến hành làm hàng
rào bít lối ra vào nhà bà H kiên cố hơn bằng hình thức trồng trụ bê tông, rào kẽm
gai, gia cố thêm ưới B40 (có hình ảnh kèm theo). Bà H có trình báo chính quyền
địa phương và tiến hành dỡ rào để có lối đi ra ngoài vào ngày 16/8/2024. Nhưng
sau đó, ngày 17/8/2024, ông T lại tiếp tục làm hàng rào bít lối đi vào nhà của bà
H tại vị trí trước đó. Lần này, ông T bít lối đi rất kiên cố bằng nhiều lớp kẽm gai
và lưới B40. Lý do ông T đưa ra để làm hàng rào, bít lối ra vào nhà của Bà H là:
“tại Bà H không chịu hiến đất để mở đường ven sông N theo chủ trương của địa
3
phương" nên bít lại không cho đi để bà H phải hiến đất mới cho đi. Do ngày
17/8/2024 là ngày thứ 7 nên bà H điện thoại báo Công an xã và Công an huyện
thì được các anh trả lời không được tháo dỡ rào mà bà H phải kiện ra Tòa đề
Tòa án giải quyết. Ngày 23/8/2024, bà H trích lục bản đồ địa chính thì biết được
phần đất mà ông T làm hàng rào nằm trên một phần thửa đất số 67; tờ bản đồ số
16; tọa lạc tại xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre do ông Bạch Minh T đứng tên quyền
sử dụng đất. Nhận thấy việc ông T lập hàng rào, bít lối đi đã hình thành từ trước
năm 1975 để ép bà H hiến đất là vi phạm pháp luật, ảnh hưởng đến an toàn sức
khỏe, tính mạng và tự do đi lại của bà H. Vì ngoài lối đi ra vào nhà hiện tại, bà
H không còn lối đi nào khác, bà H phải lội mương để ra vào nhà. Nay, bà H yêu
cầu ông Bạch Minh T và bà Đinh Thị Linh T1 mở lối đi cho bà H phần đất có
diện tích cụ thể: chiều ngang cạnh ngoài là 24,48m chiều ngang cạnh trong là
22,2m; chiều sâu cạnh ngoài là 2,81m, chiều sâu cạnh trong là 3,51m có tổng
diện tích 69,8m
2
thuộc thửa 67-2-1, thửa 67-3; thửa 67-4, tờ bản đồ số 16, tọa
lạc tại ấp P, xã P, huyện C,tỉnh Bến Tre do ông Bạch Minh T và bà Đinh Thị
Linh T1 đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Bà Hòa đồng Ý bồi
thường theo qui định.
Trong quá trình giải quyết vụ án, đại diên theo ủy quyền của bị đơn bà
Huỳnh Thị M trình bày:
Bà H trình bày ông T rào lối đi để ép bà H mở đường là không đúng, ông
T, bà T1 rào để bảo vệ tài sản. Trước yêu cầu khởi kiện của bà H, ông T và bà
T1 không đồng ý. Ông T và bà T1 muốn phục hồi ranh, để trồng trọt phục vụ
cho điều kiện kinh tế gia đình ông T và bà T1 lấy lại hết đất có chiều dài gần
50m chứ không phải một phần đất của bà H. Ông T và bà T1 đã tạo cho bà H
một lối đi mới, không gây thiệt hại trên đất của bà H nhưng bà H không đồng ý
đi mà đòi đi lối đi cũ là không phù hợp.
Ông T và bà T1 muốn lấy lại để trồng cây, lo kinh tế gia đình. Để bảo vệ tài
sản của ông. Theo họa đồ thì thửa 79 của bà H cũng giáp lối đi, nên bà H tự cải
tạo để đi, đi trên lối đi của ông T là không phù hợp.
Do hòa giải không thành, Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến
Tre (Nay là Tòa án nhân dân Khu vực 5 – Vĩnh Long) đã đưa vụ án ra xét xử.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 54/2025/DS-ST ngày 29 tháng 5 năm 2025
của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre (Nay là Tòa án nhân dân
Khu vực 5 – Vĩnh Long) đã tuyên:
Căn cứ khoản 2 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a, c khoản 1 Điều
4
39; Điều 157, 158, 165 và 166 Bộ luật tố tụng dân sự.
Áp dụng Điều 254 Bộ luật dân sự;
Áp dụng Nghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ
phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Xuân H.
Buộc ông Bạch Minh T và bà Đinh Thị Thanh T3 mở lối đi cho bà Nguyễn
Thị Xuân H thuộc các thửa 67-3-1 có diện tích 2m
2
, thửa 67-3-2 có diện 2m
2
;
thửa 67-2-1-2 có diện tích 0,3 m
2
; thửa 67-2-1-1 có diện tích 2m
2
; thửa 67-2-1-3
có diện tích 2m
2
và thửa 67-2-1-4 có diện tích 0,2 m
2
diện tích, tổng diện tích là
diện tích 8,5m
2
cùng tờ bản đồ số 16, tọa lạc tại xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre.
Tuyên bố hạn chế quyền sử dụng của ông Bạch Minh T và bà Đinh Thị
Thanh T3 mở lối đi cho bà Nguyễn Thị Xuân H thuộc các thửa 67-3-1 có diện
tích 2m
2
, thửa 67-3-2 có diện 2m
2
; thửa 67-2-1-2 có diện tích 0,3m
2
; thửa 67-2-
1-1 có diện tích 2m
2
; thửa 67-2-1-3 có diện tích 2m
2
và thửa 67-2-1-4 có diện
tích 0,2m
2
diện tích, tổng diện tích là 8,5m
2
cùng tờ bản đồ số 16, tọa lạc tại xã
P, huyện C, tỉnh Bến Tre.
Bà Nguyễn Thị Xuân H được quyền sử dụng hạn chế phần lối đi mà ông
Bạch Minh T và bà Đinh Thị Thanh T3 mở, có quyền sử dụng đất và tuân thủ
các điều kiện đảm bảo trong quá trình sử dụng đất của các bên mà pháp luật quy
định. Các bên được quyền đăng ký quyền sử dụng hạn chế quyền sử dụng đất
theo quy định tại Điều 171 của Luật Đất đai năm 2013 tại cơ quan nhà nước có
thẩm quyền.
(Có họa đồ hiện trạng sử dụng đất kèm theo).
2. Bà Nguyễn Thị Xuân H có trách nhiệm đền bù giá trị phần đất mở lối đi
cho ông Bạch Minh T và bà Đinh Thị Thanh T3 số tiền là 4.250.000 (bốn triệu
hai trăm năm mươi nghìn) đồng.
3. Án phí dân sự sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị Xuân H là người cao tuổi nên
được miễn án phí.
4. Chi phí tố tụng: Bà Nguyễn Thị Xuân H phải chịu 15.171.000 (mười lăm
triệu một trăm bảy mươi mốt nghìn) đồng, đã nộp xong.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về lãi suất chậm thi hành án, thi
hành bản án và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 10/6/2025, bị đơn ông Bạch Minh T và người có quyền lợi, nghĩa vụ
5
liên quan bà Đinh Thị Linh T1 kháng cáo yêu cầu sửa bản án sơ thẩm theo
hướng buộc bà Nguyễn Thị Xuân H đi trên lối đi có phần đất của bà H giáp với
lối đi công cộng và đồng ý cho bà H đi trên lối đi thuộc các thửa 67-2; 67-3; 67-
4 của ông T, bà T1 và ông Đ, bà Á cũng đồng ý cho gia đình bà H đi trên các
thửa đất 80-1; 80-2; 80-3; 8-4; 129-1; 129-2; 129-3 do ông Đ đứng tên để bà H
đi ra đường công cộng và không yêu cầu bà H hoàn lại trị giá đất cho ông T, bà
T1 và ông Đ, bà Á.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan là bà Huỳnh Thị M giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là ông Trần Thanh G đề
nghị không chấp nhận kháng cáo của bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long tham gia phiên tòa
phát biểu ý kiến:
- Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng đã tuân theo đúng các quy
định của pháp luật tố tụng, những người tham gia tố tụng thực hiện đúng quyền
và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật tố tụng.
- Về nội dung: Xét thấy kháng cáo của bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan là không có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều
308 Bộ luật Tố tụng dân sự. Không chấp nhận kháng cáo của ông Bạch Minh T
và bà Đinh Thị Linh T1, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 54/2025/DS-ST
ngày 29 tháng 5 năm 2025 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến
Tre (Nay là Tòa án nhân dân Khu vực 5 – Vĩnh Long).
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ đã được thẩm tra công
khai tại phiên tòa; kết quả tranh tụng tại phiên tòa; ý kiến đề nghị của Kiểm sát
viên; xét kháng cáo của ông Bạch Minh T và bà Đinh Thị Linh T1; Hội đồng xét
xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
Bị đơn ông Bạch Minh T và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà
Đinh Thị Linh T1 kháng cáo và thực hiện các thủ tục kháng cáo hợp lệ, trong
thời hạn luật định nên được xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
[2] Về nội dung:
6
Xét kháng cáo của ông Bạch Minh T và bà Đinh Thị Linh T1, Hội đồng xét
xử xét thấy:
Theo biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 15/11/2024 thể hiện thửa
79, tờ bản đồ số 16 của bà H, bị bao bọc bởi thửa 67, tờ bản đồ số 16 và thửa số
80, tờ bản đồ số 16; phần còn lại của thửa 79, tờ bản đồ số 16 của bà H giáp
sông và một phần thửa 66, tờ bản đồ số 16. Theo họa đồ hiện trạng sử dụng đất
thể hiện: Thửa 67-2 có diện tích là 74,7m
2
là đường bê tông; phần 67-4 có diện
tích là 7,8m
2
là phần bà H yêu cầu mở lối đi để được đi ra thửa 67-2. Tại phiên
tòa, ông T thừa nhận phần đường 67-2 hiện có rất nhiều hộ dân cùng đi và lối đi
này có từ rất lâu năm, các hộ dân cùng nhau tu bổ để có lối đi bằng đan như hiện
nay. Theo công văn số: 855/UBND-KT ngày 24/9/2025 của Ủy ban nhân dân
phường P, tỉnh Vĩnh Long, các thửa đất 67, 80, 129 cùng tờ bản đồ số 16 (nay là
tờ bản đồ số 82) có tiếp giáp với lối đi bằng bê tông, độ rộng của lối đi khoảng
1,2m đến 1,4m và lối đi này có thể đi ra đường giao thông công cộng và lối đi
này được quy hoạch là đường ĐC.14.
Nếu dời lối đi của bà H lại tại vị trí 79-2 theo đề nghị của ông T thì bà H
phải đi trên thửa 129-3, 80-2 của ông Đ, bà Á. Tuy nhiên, tại Giấy xác nhận cam
kết cho đường đi đề ngày 11/9/2025 của ông Bạch Minh Đ và bà Nguyễn Thị Á,
ông Đ, bà Á đồng ý cho bà H đi trên các thửa đất nêu trên để đi ra đường công
cộng và không yêu cầu bồi hoàn giá trị đất. Mặt khác, thửa đất số 79 của bà H,
cụ thể tại thửa 79-2 có giáp với lối đi nêu trên. Do đó, nếu mở lối đi ở vị trí này
thì bà H chỉ cần mở hàng rào là có thể đi ra được đường đi công cộng, không tốn
nhiều chi phí để bắc cầu hay lấp mương nước, cũng không phải đi qua đất của
ông Bạch Minh T và cũng không phải bồi hoàn giá trị đất cho ông T. Việc mở
lối đi tại thửa 79-2 tuy không phải thuận tiện nhất theo ý kiến của bà H, nhưng là
lối đi có thể đi ra đường công cộng, không gây ảnh hưởng đến người khác và
cũng góp phần thắt chặt tình làng nghĩa xóm do được sự đồng tình, cho phép của
các hộ dân xung quanh nhà của bà H.
[3] Từ những phân tích trên, xét kháng cáo của bị đơn ông Bạch Minh T và
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Đinh Thị Linh T1 cũng như những lời
trình bày, tranh luận tại phiên tòa xét thấy yêu cầu kháng cáo của ông T, bà T1
là có cơ sở nên được chấp nhận. Vì vậy, sửa bản án sơ thẩm.
[4] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Long là
không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.
[5] Về án phí dân sự phúc thẩm:
7
Do kháng cáo được chấp nhận nên ông T, bà T1 không phải chịu án phí dân
sự phúc thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Chấp nhận kháng cáo của ông Bạch Minh T và bà Đinh Thị Linh T1, sửa
Bản án dân sự sơ thẩm số: 54/2025/DS-ST ngày 29 tháng 5 năm 2025 của Tòa
án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre (nay là Tòa án nhân dân Khu vực
5 – Vĩnh Long).
Căn cứ khoản 2 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a, c khoản 1 Điều
39; Điều 157, 158, 165 và 166 Bộ luật tố tụng dân sự.
Áp dụng Điều 254 Bộ luật dân sự;
Áp dụng Nghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ
phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Xuân H.
Bà H có quyền mở lối đi tại thửa 79-2, tờ bản đồ số 16, tọa lạc tại xã P,
huyện C, tỉnh Bến Tre (nay là phường P, tỉnh Vĩnh Long).
(Có họa đồ hiện trạng sử dụng đất kèm theo).
2. Ghi nhận việc ông Bạch Minh Đ và bà Nguyễn Thị Á đồng ý cho bà
Nguyễn Thị Xuân H đi trên đường đi thuộc thửa đất số 129 và 80, tờ bản đồ số
16 của ông Đ, bà Á và không yêu cầu bồi hoàn giá trị đất.
3. Chi phí tố tụng: Bà Nguyễn Thị Xuân H phải chịu 15.171.000 (mười lăm
triệu một trăm bảy mươi mốt nghìn) đồng, đã nộp xong.
4. Về án phí:
4.1. Án phí dân sự sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị Xuân H là người cao tuổi nên
được miễn án phí.
4.2. Án phí dân sự phúc thẩm:
- Ông Bạch Minh T không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, hoàn lại số
tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu số
0010146 ngày 10/6/2025 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Bến Tre,
tỉnh Bến Tre cho ông Bạch Minh T.
8
- Bà Đinh Thị Linh T1 không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm, hoàn lại
số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu
số 0000772 ngày 23/7/2025 của Thi hành án dân sự tỉnh Vĩnh Long cho bà Đinh
Thị Linh T1.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa
thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 của Luật Thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật Thi hành
án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- VKSND tỉnh Vĩnh Long;
- TAND Khu vực 5 – Vĩnh Long;
- THADS tỉnh Vĩnh Long;
- Phòng GĐ,KT,TT&THA TAND tỉnh;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Lê Minh Đạt
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 13/10/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 11/10/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 28/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 26/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 24/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 23/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 22/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 21/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 20/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 19/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 19/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 18/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 18/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 18/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 17/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 17/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 17/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm