Bản án số 51/2023/HS-ST ngày 21/09/2023 của TAND TP. Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa về tội mua bán trái phép chất ma túy

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 51/2023/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 51/2023/HS-ST ngày 21/09/2023 của TAND TP. Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa về tội mua bán trái phép chất ma túy
Tội danh: 251.Tội mua bán trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Sầm Sơn (TAND tỉnh Thanh Hóa)
Số hiệu: 51/2023/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 21/09/2023
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SẦM SƠN - TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 51/2023/HS-ST NGÀY 21/09/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 9 năm 2023 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố S, tỉnh Thanh Hóa.

Xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 48/2023/TLST-HS ngày 17 tháng 8 năm 2023, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 52/2022/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 9 năm 2023, đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Ngọc H. Sinh ngày 12/6/1990.

Nơi ĐKHKTT và ở: Tổ dân phố Lập Công, phường Bắc S, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Học vấn: 7/12; Bố: Nguyễn Ngọc T; Mẹ: Văn Thị D; Gia đình có 02 anh em, H là con đầu; Vợ: Trần Thị Ngọc M, có 02 con, lớn sinh năm 2011, nhỏ sinh năm 2015; tiền án: Không.

Tiền sự: Ngày 06/01/2021, Chủ tịch UBND phường Bắc S, thành phố S ra Quyết định số 04/QĐ-UBND áp dụng biện pháp giáo dục tại phường Bắc S, thành phố S từ ngày 06/01/2021 đến ngày 06/4/2021.

Nhân thân: Ngày 02/8/2022 Chủ tịch UBND phường Bắc S ra Quyết định số 144/QĐ-UBND cai nghiện ma túy tại gia đình, cộng đồng.

Tạm giữ ngày 24/3/2023 chuyển tạm giam ngày 02/4/2023.

2. Phạm Văn H - Sinh ngày 05/11/1972. Nơi ĐKHKTT và ở: Xóm Lâm Quan, xã P, huyện G, tỉnh Nam Định. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; học vấn: 6/12; Bố: Phạm Văn L (đã chết); Mẹ: Lâm Thị S; Gia đình có 04 anh em, H là con thứ hai; Vợ: Nguyễn Thị Huyền (đã ly hôn); có 02 con, lớn sinh năm 2001, nhỏ sinh năm 2006; Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 27/02/2016 bị Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương xử phạt 03 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Ngày 28/02/2018 chấp hành xong hình phạt, đã được xóa án tích.

Tạm giữ ngày 25/3/2023 chuyển tạm giam ngày 03/4/2023.

3. Lê Văn S. Sinh ngày 20/5/1978.

Nơi ĐKHKTT và ở: Tổ dân phố Quang G, phường T, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do. Văn hóa: Không; Bố: Lê Văn T (đã chết); Mẹ: L Thị T; Gia đình có 03 anh em, S là con đầu. Có vợ là Trịnh Thị T; có 04 con, lớn sinh năm 2002, nhỏ sinh năm 2014; Tiền án, tiền sự: Không.

Tạm giữ ngày 24/3/2023 chuyển tạm giam ngày 02/4/2023.

Hiện nay các bị cáo đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố S, có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Ngọc H, là Bà Nguyễn Thị Ngọc T, thuộc Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt có lý do.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Phạm Văn P, sn 1974. Địa chỉ: Xóm Lâm Bồi, xã P, huyện G , tỉnh Nam Định.

Người làm chứng: 1. Vũ Đình L - sinh năm 1987.

Địa chỉ: Tổ dân phố Xuân Phương, phường Q, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa.

2. Vũ Thị V - sinh năm 1982.

Địa chỉ: Tổ dân phố Quang G, phường T, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa.

3. Trần Thị Ngọc M - sinh năm 1991.

Địa chỉ: Tổ dân phố Lập Công, phường Bắc S, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa.

4. Trần Đức T - sinh năm 1968.

Địa chỉ: Tổ dân Kiều Đ, phường Q, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa.

5. Nguyễn Hữu D - sinh năm 1992.

Địa chỉ: Tổ dân Long S, phường Bắc S, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa.

6. Lê Văn P - sinh năm 1976.

Địa chỉ: Tổ dân phố Vinh Phúc, phường Quảng T, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa. (Người liên quan và nhân chứng vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 20 giờ 00 phút ngày 24/3/2023, tại khu vực cầu Bình Hòa thuộc tổ dân phố An Chính, phường Q, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa. Tổ công tác Công an các phường Quảng T, Q, Bắc S thuộc Công an thành phố S đang làm nhiệm vụ tuần tra phát hiện, bắt quả tang Nguyễn Ngọc H đang bán trái phép chất ma túy cho Vũ Đình L ở tổ dân phố Xuân Phương, phường Q, thành phố S. Thu giữ: tại túi quần bên trái của Vũ Đình L 02 gói giấy nhỏ chứa chất bột vụn cục màu trắng ngà (niêm phong ký hiệu M); trên tay trái H số tiền 700.000 đồng (niêm phong ký hiệu T1); trong túi quần đùi bên trái của H đang mặc 01 gói giấy nhỏ chứa chất bột vụn cục màu trắng ngà (niêm phong ký hiệu M1), 01 điện thoại Nokia màu đen, niêm phong (ký hiệu Đ1); 01 xe mô tô Future biển kiểm soát 36N1-X. H, L khai nhận các gói giấy nhỏ là Heroin. Tổ công tác đưa các đối tượng cùng tang vật về trụ sở làm việc và chuyển đến Cơ quan CSĐT Công an thành phố S điều tra theo thẩm quyền..

Tại Cơ quan CSĐT Công an thành phố S, Nguyễn Ngọc H khai nhận nguồn gốc số ma túy bán cho Vũ Đình L và thu giữ tại túi quần là mua của người có tên là “S Thu” ở phía sau Công an phường T, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa. Tiến hành khám xét khẩn cấp tại nơi ở của Nguyễn Ngọc H không thu giữ đồ vật gì.

Xác minh nhanh theo lời khai Nguyễn Ngọc H theo địa chỉ phía sau Công an phường T có đối tượng tên là Lê Văn S, có mẹ tên là Thu. Cơ quan CSĐT Công an thành phố S tiến hành khám xét khẩn cấp tại nơi ở của Lê Văn S, thu giữ: 01 (một) gói giấy bọc giấy bạc chứa chất bột màu trắng ngà tại phòng thờ (niêm phong ký hiệu K1); tại phòng ngủ 01 (một) mảnh giấy kích thước 4 x 3cm; 01 (một) kéo; 01 (một) điện thoại IPhone 7 Plus (niêm phong ký hiệu K3) và số tiền 3.050.000 đồng (niêm phong ký hiệu K2).

Tại Cơ quan Điều tra, Lê Văn S khai nhận nguồn gốc số ma túy bị thu giữ là mua của Phạm Văn H ở xã P, huyện G , tỉnh Nam Định có số điện thoại 0398X56 và số tài khoản 09634X35 MB Bank (BL 65-67, 165). Tiến hành khám xét khẩn cấp tại nơi ở của Phạm Văn H, thu giữ: tại phòng ngủ tầng 2 có 01 gói giấy chứa chất bột màu trắng ngà (niêm phong ký hiệu M11); 16 gói giấy đều chứa chất bột màu trắng ngà (niêm phong ký hiệu M12); thu giữ trong túi áo sơ mi bên phải treo trong phòng ngủ tầng 1 có 05 gói giấy đều chứa chất bột màu trắng ngà (niêm phong ký hiệu M15). Ngoài ra còn thu giữ 02 điện thoại (niêm phong ký hiệu M 13, 14); 01 dao lam, 02 mảnh giấy bạc, số tiền 1.200.000 đồng (niêm phong ký hiệu M); tạm giữ 01 xe môtô hãng Honda loại Blade biển số 18F1-X.

- Kết quả giám định, tại bản kết luận giám định số 1244/KL-KTHS ngày 29 tháng 3 năm 2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa, kết luận:

+ Chất bột màu trắng ngà dạng vụn cục của phong bì ký hiệu M niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,053gam, loại Heroine;

+ Chất bột dạng vụn cục màu trắng ngà của phong bì ký hiệu M1 niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,051gam, loại Heroine;

+ Chất bột màu trắng ngà của phong bì ký hiệu K1 niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 1,909gam, loại Heroine;

- Kết luận giám định số 1245/KL-KTHS ngày 29 tháng 3 năm 2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa, kết luận:

+ Chất bột màu trắng ngà dạng vụn cục của phong bì ký hiệu M11 niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,038gam, loại Heroine;

+ Chất bột màu trắng ngà dạng vụn cục của phong bì ký hiệu M12 niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 1,728gam, loại Heroine;

+ Chất bột màu trắng ngà dạng vụn cục của phong bì ký hiệu M15 niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,576gam, loại Heroine. Tổng cộng khối lượng là 2,342 gam loại Heroin;

Quá trình điều tra, các đối tượng khai nhận: Đối với Nguyễn Ngọc H, Vũ Đình L khai nhận 02 lần mua bán trái phép chất ma túy như sau:

Khoảng 13 giờ ngày 24/3/2023 L gọi điện cho H hỏi mua 01 gói ma túy với giá 300.000 đồng. H đồng ý và hẹn tại khu vực cầu Bình Hòa. Sau đó, H liên lạc với người có tên là “S Thu” ra khu vực ngã tư giao nhau giữa đường Trần Hưng Đạo và đường Lê Thánh Tông thuộc tổ dân phố Lập Công, phường Bắc S, thành phố S để mua 01 gói ma túy với giá 200.000 đồng rồi mang đến điểm hẹn. Tại đây H đã bán cho L 01 gói ma túy, L đưa 200.000 đồng, nợ lại 100.000 đồng và H đồng ý, sau khi mua được L đã sử dụng hết. Tiếp đến, khoảng 19 giờ cùng ngày L tiếp tục gọi điện cho H hỏi mua 02 gói ma túy, H đồng ý bán với giá 300.000 đồng/01 gói và hẹn ra nơi đã bán ma túy cho L lúc đầu giờ buổi chiều (khu vực cầu Bình Hòa) để giao dịch.

Sau đó H liên lạc với người có tên là “S Thu” ra chỗ cũ (khu vực ngã tư) để mua 03 gói ma túy với giá 200.000 đồng/gói, có được ma túy, H đến nơi hẹn để bán cho Lê, khi đang bán 02 gói ma túy và lấy 700.000 đồng (trong đó L trả nợ 100.000 đồng mua ma túy trước đó) thì bị bắt quả tang.

Đối với Phạm Văn H và Lê Văn S khai nhận: Ngày 22/3/2023, Phạm Văn H đến khu vực cầu Giao Tiến thuộc địa phận xã Giao Tiến, huyện G , tỉnh Nam Định mua 01 gói ma túy với giá 3.000.000 đồng của một người lạ mặt mang về chia nhỏ để bán kiếm lời. Đến chiều cùng ngày, Lê Văn S gọi điện hỏi mua 1.200.000 đồng ma túy, H đồng ý, hẹn gặp tại khu vực giáp ranh giữa huyện Kim S, tỉnh Ninh Bình với huyện Nga S, tỉnh Thanh Hóa vào buổi sáng ngày 23/3/2023 để giao dịch. Gặp nhau tại điểm hẹn, H đưa cho S 01 gói ma túy và nhận 1.200.000 đồng, sau đó cả hai đi về. Lê Văn S đem số ma túy mua được về nhà để sử dụng dần, đến 22 giờ 45 ngày 24/3/2023 Công an thành phố S khám xét nơi ở của S thu giữ 1,909gam loại Heroine mà S đang cất dấu. Khám xét nơi ở của H thu giữ được 2,342 gam loại Heroin cùng vật chứng khác.

Vật chứng của vụ án: - 01 phong bì do phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành, được niêm phong có chứa chất ma túy còn lại sau giám định thu giữ của Vũ Đình L, Nguyễn Ngọc H và Lê Văn S; 01 phong bì do phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành, được niêm phong có chứa chất ma túy còn lại sau giám định thu giữ của Phạm Văn H; 01 điện thoại Nokia gắn sim số 0398X56 và 01 điện thoại nhãn hiệu Realme C2 gắn sim số 092X631 và số 09634X35 của Phạm Văn H; 01 điện thoại Nokia gắn sim số 0367.X.787 của Nguyễn Ngọc H; 01 điện thoại IPhone7 Plus gắn sim số 03484X86 của Lê Văn S; 01 xe môtô biển kiểm soát 18F1-X của Phạm Văn H, 03 mảnh giấy, 01 dao lam, 01 kéo đang được quản lý theo hồ sơ vụ án.

- Số tiền 700.000 đồng của Nguyễn Ngọc H; số tiền 3.050.000 đồng của Lê Văn S; số tiền 1.200.000 đồng của Phạm Văn H, hiện đang được kí gửi tại Kho bạc nhà nước thành phố S.

Đối với chiếc xe môtô biển kiểm soát 36N1-X của Nguyễn Ngọc H. Quá trình điều tra xác định chủ sở hữu là chị Trần Thị Ngọc M (vợ H). Chị M không biết việc H sử dụng xe đi bán trái phép chất ma túy. Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu.

Cáo trạng số: 55/CTr-VKS-HS ngày 16 tháng 8 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố S, tỉnh Thanh Hóa truy tố đối với Nguyễn Ngọc H, theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự; Phạm Văn H, theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự, về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”; Lê Văn S, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự, về tội“Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo. Quá trình điều tra xác định, Nguyễn Ngọc H, Phạm Văn H, Lê Văn S đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 BLHS. Riêng Nguyễn Ngọc H, có thêm tình tiết Tự thú được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định điểm r khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự; Lê Văn S, có ông Nội và Bố đẻ được UBND tỉnh Thanh Hóa tặng Bằng khen vì đã có thành tích tham gia trong cuộc kháng chiến chống pháp xâm lược nên được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt Nguyễn Ngọc H, mức án từ 7 năm 6 tháng đến 8 năm tù; Phạm Văn H, từ 3 năm 6 tháng đến 4 năm tù, về tội“Mua bán trái phép chất ma túy”; Lê Văn S, từ 18 đến 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định; 01 cái kéo đã qua sử dụng; 01 dao lam và 03 mảnh giấy;

- Tịch thu xung công: 01 điện thoại di động Nokia và 1.200.000đồng của bị cáo Phạm Văn H; 01 điện thoại Nokia, 700.000 đồng và truy thu thêm 200.000đồng của Nguyễn Ngọc H; 01 điện thoại IPhone7 Plus Lê Văn S;

- Trả lại: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Realme C2 cho bị cáo Phạm Văn H; trả lại số tiền 3.050.000đồng cho bị cáo Lê Văn S và trả lại 01 xe môtô biển kiểm soát 18F1-X cho anh Phạm Văn P, vì khi bị cáo H, sử dụng chiếc xe máy của anh Phạm Văn P vào việc mua bán ma túy, anh Phong không biết nên đề nghị HĐXX tuyên trả lại cho anh Phạm Văn P, là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Các vật chứng được mô tả tại biên bản giao nhận vật chứng số 61/BBVC - CCTHA ngày 18/8/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố S, tỉnh Thanh Hóa.

Về án phí: Buộc Phạm Văn H và Lê Văn S mỗi bị cáo phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm; bị cáo Nguyễn Ngọc H, thuộc diện hộ nghèo nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát công bố Bản luận tội. Trong phần tranh luận các bị cáo không có ý kiến tranh luận gì.

Quan điểm bào chữa của Trợ giúp viên pháp lý cho bị cáo Nguyễn Ngọc H: Xét theo quy định pháp luật bị can Nguyễn Ngọc H không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự mà được hưởng tình tiết giảm nhẹ là “Thành khẩn khai báo”. Ngoài lần bán ma túy bị bắt quả tang H còn khai nhận trong thời gian cùng ngày H còn có thêm hành vi bán ma túy cho người khác nên được tình tiết “Tự thú” và gia đình thuộc diện có sổ hộ nghèo.

Từ những căn cứ nêu trên: Đề nghị HĐXX áp dụng điểm b khoản 2 điều 251; điểm s điểm r khoản 1 khoản điều 51 BLHS; Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, quy định về án phí lệ phí Tòa án để miễn án phí cho thân chủ của tôi Nguyễn Ngọc H và xử phạt H ở mức án thấp nhất để H có cơ hội sửa chữa lỗi lầm sớm trở thành người công dân tốt sống có ích cho xã hội.

Nguyễn Ngọc H: Sau khi nghe Chủ tọa phiên tòa công bố quan điểm bào chữa của Trợ giúp viên pháp lý, đồng ý quan điểm và không có ý kiến gì.

Trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án, trong lời nói sau cùng các bị cáo tỏ ra ăn năn hối cải. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử mức án thấp nhất để các bị cáo sớm có điều kiện trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1].Về tố tụng: Trong giai đoạn tiến hành tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; Điều tra viên; Kiểm sát viên đã thực hiện điều tra, truy tố đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

[2]. Về nội dung vụ án: Ngày 24/3/2023 tại khu vực cầu Bình Hòa, phường Q, thành phố S, bị cáo Nguyễn Ngọc H, có hành vi bán trái phép chất ma túy cho bị cáo Lê Văn S, được 900.000đồng; ngày 23/3/2023 tại khu vực giáp ranh giữa huyện Kim S, tỉnh Ninh Bình và huyện Nga S, tỉnh Thanh Hóa, bị cáo Phạm Văn H có hành vi bán trái phép chất ma túy cho bị cáo Lê Văn S với giá 1.200.000đồng. Qua kết luận giám định, khổi lượng ma túy của H là: 0,053gam; H: 4,251 gam; S: 1,909gam, đều thuộc loại Heroine.

Cáo trạng số: 55/CTr-VKS-HS ngày 16 tháng 8 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố S, tỉnh Thanh Hóa truy tố đối với các bị cáo Nguyễn Ngọc H, theo quy định tại điểm b khoản 2 điều 251 Bộ luật hình sự; Phạm Văn H, theo quy định tại khoản 1 điều 251 Bộ luật hình sự, về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”; Lê Văn S, theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Tại phiên tòa các bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, phù hợp với lời khai của các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong vụ án tại cơ quan điều tra.

[3]. Xét tính chất vụ án: Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Việc mua bán, tàng trữ chất ma túy là hoàn toàn không có giấy phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, là cố ý trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước. Ma túy là mối đe dọa đến sự phát triển lành mạnh của giống nòi, ảnh hưởng đến sức khỏe của con người, làm sói mòn và ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống xã hội. Quá trình thực hiện hành vi các bị cáo nhận thức được pháp luật, nhưng các bị cáo đều là con nghiện đã sử dụng ma túy từ nhiều năm nay. Do vậy, cần phải được xử lý nghiêm minh tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra để bị cáo thấy được sự nghiêm minh của pháp luật.

[4]. Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của từng bị cáo thì thấy rằng: Bị cáo Nguyễn Ngọc H, đã bị UBND phường Bắc S, thành phố S ra Quyết định số 04/QĐ-UBND ngày 06/01/2021và Quyết định số 144/QĐ-UBND ngày 02/8/2022 về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy và áp dụng biện pháp cai nghiện ma túy tại gia đình, cộng đồng. Đối với bị H, ngày 27/02/2016 bị Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương xử phạt 03 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, nay đã được xóa án tích;

Lê Văn S, tiền án, tiền sự: Không, nhưng các bị cáo không lấy đó là bài học kinh nghiệm để rèn luyện bản thân mà ngày càng lấn xâu vào con đường phạm tội, các bị cáo đều là con nghiện ma túy đã sử dụng từ nhiều năm nay, không từ bỏ được ma túy điều đó chứng tỏ ý thức chấp hành pháp luật của các bị cáo là rất kém. Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định: Các bị cáo khai báo thành khẩn;

Bị cáo H, sau khi bị bắt còn khai nhận ngoài lần bán ma túy bị bắt quả tang trước đó còn bán ma túy cho người khác và gia đình có sổ hộ nghèo; Bị cáo S có ông nội là Lê Văn Việt và bố là Lê Văn Trung được UBND tỉnh Thanh Hóa tặng Bằng khen vì đã có thành tích tham gia trong cuộc kháng chiến chống pháp xâm lược. Do đó các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ như sau: Nguyễn Ngọc H điểm s điểm r khoản 1 điều 51 BLHS; Lê Văn S, điểm s khoản 1 khoản 2 điều 51 BLHS và Phạm Văn H, điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự, nên khi lượng hình cũng cần xem xét giảm cho các bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà yên tâm cải tạo. Nhưng việc cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết mới đủ tác dụng giáo dục răn đe và phòng ngừa chung.

[6]. Về xử lý vật chứng và án phí: Cần xem xét xử lý theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ: - Điểm b khoản 2 điều 251; điểm s điểm r khoản 1 điều 51; 38 Bộ luật hình sự đối với Nguyễn Ngọc H; khoản 1 điều 251; điểm s khoản 1 điều 51; 38 Bộ luật hình sự đối với Phạm Văn H; Điểm c khoản 1 điều 249 điểm s khoản 1 khoản 2 điều 51; 38 Bộ luật hình sự đối với Lê Văn S;

- Điều 47 BLHS; Điều 61; 331; 333; 106; 136 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Điểm đ khoản 1 Điều 12; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Nguyễn Ngọc H và Phạm Văn H, phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”; Lê Văn S, phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: 1. Nguyễn Ngọc H, 8 (Tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 24/3/2023.

2. Phạm Văn H, 42 (Bốn mươi hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 25/3/2023.

3. Lê Văn S, 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 24/3/2023.

Về xử lý vật chứng: - Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định; 01 kéo đã qua sử dụng; 01 dao lam và 03 mảnh giấy.

- Tịch thu xung công: 01 điện thoại di động Nokia gắn sim số 0398X56 và 1.200.000đồng của bị cáo Phạm Văn H; 01 điện thoại Nokia và 700.000 đồng và truy thu thêm 200.000đồng của Nguyễn Ngọc H; 01 điện thoại IPhone7 Plus Lê Văn S.

- Trả lại: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Realme C2 cho bị cáo Phạm Văn H; trả lại số tiền 3.050.000đồng cho bị cáo Lê Văn S; trả lại 01 xe môtô biển kiểm soát 18F1-X cho anh Phạm Văn P, là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Vật chứng được mô tả theo biên bản giao nhận vật chứng số 61/BBVC - CCTHA ngày 18/8/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố S, tỉnh Thanh Hóa.

Về án phí: Phạm Văn H và Lê Văn S, mỗi bị cáo phải chịu 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm; bị cáo Nguyễn Ngọc H được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Phạm Văn P vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, Quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các Điều 6; Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Tải về
Bản án số 51/2023/HS-ST Bản án số 51/2023/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất