Bản án số 47/2024/DS ngày 12/09/2024 của TAND tỉnh Quảng Bình về tranh chấp đất đai đối với đất nông nghiệp để trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 47/2024/DS

Tên Bản án: Bản án số 47/2024/DS ngày 12/09/2024 của TAND tỉnh Quảng Bình về tranh chấp đất đai đối với đất nông nghiệp để trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp đất đai đối với đất nông nghiệp để trồng cây lâu năm, đất lâm nghiệp để trồng rừng, đất ở
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Quảng Bình
Số hiệu: 47/2024/DS
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 12/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Lê Quang L tranh chấp đất với Lê Quang H
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH QUẢNG BÌNH
Bản án số: 47/2024/DS - PT
Ngày 12 tháng 9 m 2024
V/v Tranh chấp đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH
Với thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Nghĩa
Các Thẩm phán: Bà Hoàng Thị Thanh Nhàn
Ông Trần Trung Thành
Ghi biên bản phiên tòa: Bà Đỗ Thị Kiều Oanh – Thư ký, Tòa án nhân dân
tỉnh Quảng Bình.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình tham gia phiên tòa:
Bà Chế Thị Bích Thủy - Kiểm sát viên.
Ngày 12 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình
xét xử phúc thẩm vụ án dân sthụ số 29/2024/TLPT- DS ngày 16 tháng 7
năm 2024 về tranh chấp đất. Do Bản án dân sự thẩm s10/2024/DS ST
ngày 31 tháng 5 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Bố Trạch bị kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 240/2024/QĐ PT ngày 05
tháng 8 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Lê Quang L, sinh năm 1995
Địa chỉ: Tổ dân phố T, thị trấn Nông trường V, huyện B, tỉnh Quảng Bình;
có mặt.
- Bị đơn: Ông Lê Quang H, sinh năm 1988
Địa chỉ: Thôn G, xã H, huyện B, tỉnh Quảng Bình; có mặt.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
+ Ủy ban nhân dân xã H, huyện B; vắng mặt
+ Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện B; vắng mặt
+ Cụ ông Lê Quang D, sinh năm 1932; cụ bà Phạm Thị L1, sinh năm 1952
Địa chỉ: Tổ dân phố T, thị trấn Nông trường V, huyện B, tỉnh Quảng Bình;
có mặt.
Người kháng cáo: Ông Lê Quang L, sinh năm 1995
2
Địa chỉ: Tổ dân phố T, thị trấn Nông trường V, huyện B, tỉnh Quảng Bình;
có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo nội dung Bản án thẩm số 10/2024/DS ST ngày 31 tháng 5 năm
2024 của Tòa án nhân dân huyện Bố Trạch, thì nội dung vụ án được tóm tắt như
sau: Năm 2015, cụ ông Quang D, cụ Phạm Thị L1 (cụ D, cụ L1 bố m
ông L) được Ủy ban nhân dân (viết tắt UBND) huyện B cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất (viết tắt GCNQSDĐ) CB 157150 ngày 31/8/2015 tại thửa số
406, tờ bản đồ s08 H, huyện B, tỉnh Quảng nh. Ngày 02/8/2021 cụ D, cụ
L1 tặng cho ông Lê Quang L (viết tắt là nguyên đơn) toàn bộ thửa đất và nguyên
đơn đã được Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai huyện B đăng thay đổi
quyền quản lý, sử dụng thửa đất. Tháng 7/2022, ông Quang H (viết tắt bị
đơn) tự ý đđất làm đường lấn chiếm diện tích đất của nguyên đơn. Gia đình
nguyên đơn xây dựng hàng rào bao quanh thửa đất của mình thì bị đơn ngăn cản,
không cho xây dựng. Qua kiểm tra bản đồ địa chính H năm 2013 thể hiện có
đường đi trên diện tích đất của nguyên đơn nhưng nguyên đơn không được thông
báo hoặc quyết định thu hồi đất của cấp thẩm quyền làm ảnh hưởng đến
quyền lợi của mình, do đó nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn di dời đất, đá
trả lại 37,35m
2
đất đã lấn chiếm (rộng 1,5 mét, dài 24,9 mét).
Bị đơn trình bày, năm 2015 bị đơn nhận chuyển nhượng thửa đất của ông
Lê Quang C xã H, huyện B. Qua tìm hiểu bị đơn biết có đường đi vào của thửa
đất của bị đơn. Năm 2022, bị đơn cải tạo lại đường đi thì nguyên đơn yêu cầu
tạm dừng, phá bỏ; bị đơn thấy đây đường đi duy nhất vào thửa đất của bị đơn.
Quá trình kiểm tra thấy bị đơn thấy đường đi đang tranh chấp không nằm
trong diện tích đất của nguyên đơn.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 10/2024/DS – ST ngày 31 tháng 5 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Bố Trạch đã quyết định: Không chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của ông Lê Quang L về việc buộc ông Lê Quang H di dời đất, đá và trả
lại 37,35m
2
đất (rộng 1,5 mét, dài 24,9 mét).
Ngoài ra bản án còn tuyên nghĩa vụ chịu chi phí tố tụng, án phí vụ kiện và
quyền kháng cáo cho các đương sự.
Ngày 05 tháng 6 năm 2024 nguyên đơn làm đơn kháng cáo toàn bộ bản án
sơ thẩm đề nghị cấp phúc thẩm xem xét đảm bảo quyền lợi cho nguyên đơn.
3
Tại phiên tòa phúc thẩm nguyên đơn giữ nguyên đơn kháng cáo đơn
khởi kiện, bđơn không chấp nhận đơn kháng cáo đơn khởi kiện của nguyên
đơn. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về giải quyết vụ án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình tham gia phiên tòa phúc
thẩm phát biểu quan điểm: Tại giai đoạn xét xử phúc thẩm các đương sự
người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật về tố tụng dân
sự. Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận toàn bộ kháng o
của nguyên đơn, giữ nguyên bản án thẩm; buộc nguyên đơn phải chịu án p
dân sự phúc thẩm.
Sau khi xem xét nội dung kháng cáo, n cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã
được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm; kết quả tranh luận, ý kiến của Kiểm sát
viên, nguyên đơn, bị đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Ngày 31 tháng 5 năm 2024 Tòa án nhân dân huyện Bố Trạch xét xử và
ban hành Bản án dân sự thẩm s 10/2024/DS ST. Ngày 05 tháng 6 năm
2024 nguyên đơn kháng cáo. Đơn kháng cáo của nguyên đơn m trong hạn luật
định đã nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đúng quy định tại Điều 272
Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, nên chấp nhận đơn kháng cáo
của nguyên đơn để xét xử phúc thẩm.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm vắng mặt đại diện UBND H, đại diện Chi
nhánh Văn phòng đăng đất đai huyện B nhưng đã được Tòa án triệu tập hp
lệ đến lần thứ 2, căn cứ khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt những đương sự này.
[3] Ngày 31 tháng 5 năm 2024, Tòa án nhân dân huyện Bố Trạch xét xử
vụ án, ngày 05/6/2024 nguyên đơn làm đơn kháng cáo; Tòa án cấp thẩm
không lập biên bản giao nhận đơn kháng cáo, hoặc đóng dấu công văn đến tại
đơn kháng cáo để làm căn cứ xác định thời hạn kháng cáo của nguyên đơn là trái
với Điều 274 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Mặt khác, Bản án viết chưa
đúng hướng dẫn tại Biểu mẫu số 52 kèm theo Nghị quyết số 01/2017/NQ
HĐTP ngày 13/01/2017 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao n
cần rút kinh nghiệm.
[4] Xét kháng cáo của nguyên đơn về việc yêu cầu bị đơn di dời đất, đá và
trả lại 37,35m
2
đất (rộng 1,5 mét, dài 24,9 mét) đã lấn chiếm, thấy: Thửa đất s
406, tờ bản đồ số 8 H, huyện B nguồn gốc là của công Quang D, cụ
Phạm Thị L1 (cụ D, cụ L1 bố mẹ của nguyên đơn) được UBND huyện B
4
cấp GCNQSDĐ lần đầu số AH 947973 ngày 31/02/2008, tại thửa đất số 70, tờ
bản đồ số 9 xã H, huyện B; diện tích 350m
2
(bút lục số 86).
[5] Năm 2015 cụ ông Lê Quang D, cụ bà Phạm Thị L1 được UBND huyện
B cấp đổi thành GCNQSDĐ số CB 157150 ngày 31/8/2015 tại thửa đất số 406,
tờ bản đồ số 8 H, huyện B; diện tích 401m
2
. Ngày 02/8/2021 cụ D, cụ L1 lập
hợp đồng tặng cho nguyên đơn toàn bộ thửa đất và ngày 28/01/2022 nguyên đơn
được Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai huyện B đăng quyền quản lý, sử
dụng thửa đất (bút lục số 14, 86, 95, 96 và 97).
[6] Năm 2015, bị đơn nhận chuyển nhượng thửa đất số 564, tờ bản đồ số 8
H, huyện B tông Quang C; diện tích 333,7m
2
và bị đơn đã được UBND
huyện B cấp GCNQSDĐ số CP 630689 ngày 09/11/2018 tại thửa đất số 390, tờ
bản đồ số 8 xã H, huyện B; diện tích 338,1m
2
(bút lục số 62).
[7] Theo Tờ bản đsố 8 H được phê duyệt năm 2013 Công văn s
680/CN VPĐK ngày 19/6/2024 của Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai
huyện B thì giữa thửa đất số 406 (phía Tây thửa đất của nguyên đơn) và thửa đất
số 389 (phía Đông thửa đất của ông Đặng Văn T) đường giao thông đi từ
đường giao thông liên tới thửa đất của bị đơn. Đường đi này được thể hiện
trên sơ đồ thửa đất (phía Đông) của ông T đã được UBND huyện B cấp
GCNQSDĐ số BQ 645790 ngày 15/12/2013 tại thửa đất số 389, tờ bản đồ số 8
xã H, huyện B GCNQSDĐ số CP 630689 ngày 09/11/2018 của Sở Tài
nguyên Môi trường tỉnh Q cấp cho bị đơn tại thửa đất số 390, Tờ bản đồ số 8
xã H, huyện B (bút lục số 61, 62, 69, 70, 72, 73 và 101).
[8] Theo Tờ bản đồ số 8 xã H được pduyệt năm 2013 thì thửa đất số
406 của nguyên đơn diện tích 364,8m
2
đất; năm 2015 cụ D, cụ L1 đơn đề
nghị cấp đổi lại GCNQSDĐ với diện tích 350m
2
đất tại thửa đất số 406, tờ bản
đồ số 8 H (diện tích xin cấp đổi bằng diện tích được cấp GCNQSDĐ m
2008). Quá trình thẩm định để cấp đổi GCNQSDĐ cụ D, cụ L1 dẫn đạc diện tích
đất thực tế sử dụng bao gồm cả đường đi giữa thửa đất 406 và thửa đất số 389, tờ
bản đồ số 8 H rồi đăng ký biến động tăng 51m
2
đất so với diện tích đất được
cấp GCNQSDĐ lần đầu năm 2008. Các quan quản đất đai không cập nhật
Tbản đồ số 8 H, n đã chấp nhận việc đăng biến động tăng 51m
2
đất
cho cụ D, cụ L1 51m
2
đất, trong đó có diện tích đất đường đi vào thửa đất của bị
đơn và cấp diện tích này trong GCNQSDĐ cho cụ D, cụ L1 trái quy định, làm
ảnh hưởng đến quyền lợi của bị đơn và các hộ sử dụng đất khác (86 và 98).
[9] Mặt khác, theo Tờ bản đồ số 8 H kết quả thẩm định tại chỗ thấy,
đường đi giữa thửa đất số 406 (phía Tây thửa đất của nguyên đơn) và thửa đất số
389 (phía Đông thửa đất của ông Đặng Văn T) vào thửa đất của bđơn thửa
5
đất số 374, Tờ bản đồ số 8 xã H là đường đi duy nhất, không thể mở được đường
đi khác; tại phiên tòa nguyên đơn, bị đơn thừa nhận ông T chủ sử dụng thửa
đất 389 đã xây dựng tường rào trước năm 2000 để làm ranh giới ngăn cách các
thửa đất khác. Do đó việc nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả lại 37,35m
2
đất (rộng
1,5 mét, dài 24,9 mét) là không có căn cứ (bút lục số 66, 70).
[10] Như phân tích tại các mục [7], [8] [9] thì diện tích đất đường đi
vào thửa đất của bị đơn đã bị UBND huyện B cấp trong GCNQSDĐ số CB
157150 ngày 31/8/2015 tại thửa đất số 406, Tờ bản đồ số 8 H, huyện B cho
nguyên đơn, Tòa án cấp sơ thẩm không kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền thu
hồi diện tích đất này và yêu cầu điều chỉnh diện tích trong GCNQSDĐ cấp
nguyên đơn là thiếu sót, cần rút kinh nghiệm.
[11] Từ các phân tích trên thấy Tòa án cấp thẩm không chấp nhận việc
khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ. Do đó Tòa án cấp phúc không chấp nhận
kháng cáo của nguyên đơn và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[12] Nguyên đơn kháng cáo không được chấp nhận nên phải chịu 300.000
đồng án phí dân sự phúc thẩm và 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
p dng khoản 1 Điều 272, Điều 273, khoản 1 Điều 308 của Bộ lut T
tng dân s năm 2015; khoản 1 Điều 29 Ngh quyết s 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 ca U ban Thường v Quc Hội quy đnh v mc thu, min,
gim, thu, np, qun lý, s dng án phí và l phí Toà án, x:
1. Không chấp nhận đơn kháng o của ông Quang L về việc yêu cầu
sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 10/2024/DS ST ngày 31 tháng 5 năm 2024 của
Tòa án nhân dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.
2. Không chấp nhận khởi kiện của ông Quang L về việc buộc ông
Quang H phải di dời đất, đá trả lại 37,35m
2
đất (rộng 1,5 mét, dài 24,9 mét)
đã lấn chiếm tại thửa đất số 406, Tờ bản đồ s8 H, huyện B, tỉnh Quảng
Bình.
3. Kiến nghị Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Q; Ủy ban nhân dân huyện
B Ủy ban nhân dân xã H, huyện B, tỉnh Quảng Bình thu hồi diện tích đất
đường đi vào thửa đất 374 390, Tờ bản đồ số 8 xã H, huyện B đã giao cho cụ
ông Quang D, cụ Phạm Thị L1 năm 2015 nay ông Quang L tại
thửa đất số 406, Tờ bản đồ số 8 xã H, huyện B, tỉnh Quảng Bình. Đồng thời thực
hiện điều chỉnh giảm diện tích đất (diện tích đất đường đi) trong Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số CB 157150 ngày 31/8/2015 của Ủy ban nhân dân
huyện B đã cấp cho cụ ông Lê Quang D, cụ bà Phạm Thị L1 (năm 2021 cụ D, cụ
6
L1 đã tặng cho ông Quang L ông L đã được điều chỉnh người quản lý,
sử dụng thửa đất).
4. Ông Lê Quang L phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm và 300.000
đồng án phí dân sự sơ thẩm, được trừ 600.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp
tại Biên lai số 0002641 ngày 24/6/2024 và Biên lai số 0002693 ngày 21/02/2023
của Chi Cục Thi hành án dân sự huyện Bố Trạch; ông L đã nộp đủ án phí vụ
kiện.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án 12/9/2024.
Nơi nhận:
- TANDCC tại Đà Nẵng;;
- VKSND tỉnh Quảng Bình;
- VKSNDCC tại Đà Nẵng;
- Sở Tài nguyên và Môi trường QB;
- TAND huyện Bố Trạch;
- CCTHADS huyện Bố Trạch;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án;
.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Nguyễn Văn Nghĩa
7
Tải về
Bản án số 47/2024/DS Bản án số 47/2024/DS

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 47/2024/DS Bản án số 47/2024/DS

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất