Bản án số 451/2025/DS-PT ngày 29/09/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp hợp đồng đặt cọc
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 451/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 451/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 451/2025/DS-PT
| Tên Bản án: | Bản án số 451/2025/DS-PT ngày 29/09/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp hợp đồng đặt cọc |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng đặt cọc |
| Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Cà Mau |
| Số hiệu: | 451/2025/DS-PT |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 29/09/2025 |
| Lĩnh vực: | Dân sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ/việc: | Ông Nguyễn Tấn L cho rằng, do vợ chồng ông Ngô Hồng T, bà Nguyễn Thị Ú không thực hiện nghĩa vụ và vi phạm nghĩa vụ theo thỏa thuận giữa các bên đã ký kết, nên ông yêu cầu vợ chồng ông Ngô Hồng T, bà Nguyễn Thị Ú trả lại số tiền đặt cọc là 2.700.000.000 đồng và bồi thường cọc là 2.700.000.000 đồng, tổng cộng là 5.400.000.000 đồng. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
Bản án số:451/2025/DS-PT
Ngày: 29-9-2025
V/v Tranh chấp hợp đồng đặt cọc
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Thế Phương
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Thành Lập
Ông Nguyễn A Đam
- Thư ký phiên tòa: Bà Ngô Thúy Nguyên, là Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Cà Mau.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên tòa: Ông
Phạm Văn Hùng - Kiểm sát viên.
Ngày 29 tháng 9 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 250/2025/TLPT-DS ngày 25 tháng 7
năm 2025 về việc: “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 193/2025/DS-ST ngày 12/6/2025 của Tòa án
nhân dân thành phố Cà Mau bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 299/2025/QĐ-PT ngày
04 tháng 8 năm 2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Tấn L, sinh năm: 1987 (có mặt); Địa chỉ cư trú:
Số B đường N, khóm H, phường H, thành phố C (nay là phường L, tỉnh Cà Mau).
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Ông Tăng Tấn L1, sinh năm
1990 (có mặt); Địa chỉ cư trú: Số A đường Q, khóm E, phường E, thành phố C,
tỉnh Cà Mau (nay là phường T, tỉnh Cà Mau).
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Bà Du Thị B –
Luật sư của Văn phòng L5, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh C (xin vắng mặt); Địa chỉ: Số
G đường Đ, khóm D, phường I, thành phố C, tỉnh Cà Mau (nay là phường A, tỉnh
Cà Mau).
2. Bị đơn: Ông Ngô Hồng T, sinh năm: 1966 (vắng mặt) và bà Nguyễn Thị
Ú, sinh năm: 1968; Cùng địa chỉ cư trú: Đường L, khóm G, phường H, thành phố
C, tỉnh Cà Mau (nay là phường L, tỉnh Cà Mau).
2
Người đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị Ú: Ông Trần Chi L2, sinh
năm 1975 (có mặt tại phiên tòa, vắng mặt khi tuyên án); Địa chỉ cư trú: Ấp A, xã
H, huyện N, tỉnh Cà Mau (nay là xã N, tỉnh Cà Mau).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Ông Dương Tấn Đ, sinh năm: 1975 (vắng mặt) và bà Nguyễn Thị L3, sinh
năm: 1978 (vắng mặt); Cùng địa chỉ cư trú: Số C, đường L, khóm G, phường H,
thành phố C, tỉnh Cà Mau (nay là phường L, tỉnh Cà Mau).
- Công ty TNHH T2; Địa chỉ hiện nay: Số C đường L, khóm G, phường H,
thành phố C, tỉnh Cà Mau (nay là phường L, tỉnh Cà Mau). Người đại diện theo
pháp luật: Bà Trương Thị Bích T1 – Giám Đốc (có mặt).
- Ngân hàng TMCP Đ2 - Chi nhánh Đ3 (nay là Chi nhánh C (xin vắng mặt);
Địa chỉ: Số E đường A phường G, thành phố C, tỉnh Cà Mau (nay là phường T,
tỉnh Cà Mau).
- Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau (nay là Phòng
thi hành án dân sự Khu vực 1 – Cà Mau; vắng mặt); Địa chỉ: Số C đường H, khóm
H, phường E, thành phố C, tỉnh Cà Mau (nay là phường T, tỉnh Cà Mau).
4. Người kháng cáo: Ông Ngô Hồng T, bà Nguyễn Thị Ú (là bị đơn).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo lời trình bày của các bên đương sự và kết quả xét xử sơ thẩm, vụ án
được tóm tắt như sau:
Ngày 04/7/2023, ông Nguyễn Tấn L cùng với vợ chồng ông Ngô Hồng T, bà
Nguyễn Thị Ú thống nhất ký kết hợp đồng thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử
dụng đất và nhận tiền đặt cọc, phần đất thuộc thửa 251, tờ bản đồ 59 với diện tích
305m
2
và tài sản gắn liền với đất là căn nhà cấp 4 (diện tích rộng 6,5m x dài 47m),
nhà đất tọa lạc tại đường L, khóm G, phường H, thành phố C, giá trị chuyển
nhượng theo thỏa thuận là 5.500.000.000 đồng. Khi ký kết hợp đồng, ông Nguyễn
Tấn L đặt cọc với số tiền là 2.700.000.000 đồng nhằm để tiến tới ký kết hợp đồng
chuyển nhượng nhà, đất. Ông Ngô Hồng T và bà Nguyễn Thị Ú hẹn 100 ngày kể
từ ngày 04/7/2023 sẽ cùng với ông Nguyễn Tấn L đến Ngân hàng, ông Nguyễn
Tấn L trả số tiền 2,8 tỷ còn lại để vợ chồng ông Ngô Hồng T trả nợ Ngân hàng, trả
xong nợ Ngân hàng xóa thế chấp và lập Hợp đồng chuyển nhượng, sang tên giao
nhà, đất cho ông Nguyễn Tấn L. Đến thời gian thỏa thuận, ông Ngô Hồng T, bà
Nguyễn Thị Ú không đến Ngân hàng để trả tiền như thỏa thuận và cũng không đến
Văn phòng C1 để thực hiện việc ký kết hợp đồng chuyển nhượng. Ngày 22/8/2023
âm lịch (nhằm ngày 06/10/2023 dương lịch) ông Ngô Hồng T, bà Nguyễn Thị Ú
lập giấy hẹn lại đến ngày 22/9/2023 âm lịch (nhằm ngày 05/11/2023 dương lịch) sẽ
thực hiện các thủ tục như đã thỏa thuận với ông Nguyễn Tấn L, nhưng hết thời
3
gian thỏa thuận thì vợ chồng ông Ngô Hồng T, bà Nguyễn Thị Ú vẫn không thực
hiện các thỏa thuận trên và hai bên phát sinh tranh chấp.
Ông Nguyễn Tấn L cho rằng, do vợ chồng ông Ngô Hồng T, bà Nguyễn Thị
Ú không thực hiện nghĩa vụ và vi phạm nghĩa vụ theo thỏa thuận giữa các bên đã
ký kết, nên ông yêu cầu vợ chồng ông Ngô Hồng T, bà Nguyễn Thị Ú trả lại số
tiền đặt cọc là 2.700.000.000 đồng và bồi thường cọc là 2.700.000.000 đồng, tổng
cộng là 5.400.000.000 đồng.
Ông Ngô Hồng T, bà Nguyễn Thị Ú thì cho rằng, vào đầu năm 2021 (không
nhớ rõ ngày tháng), vợ chồng ông bà có vay của ông Nguyễn Tấn L số tiền
380.000.000 đồng, lãi suất 8%/tháng. Sau khi vay, vợ chồng ông bà chỉ trả lãi được
02 tháng thì không có tiền trả lãi tiếp. Từ đó ông Nguyễn Tấn L tính lãi cộng gộp
với tiền vốn cùng với số tiền lãi, vốn mà vợ chồng ông, bà nợ vợ chồng ông Dương
Tấn Đ, bà Nguyễn Thị L4 (bà Nguyễn Thị L4 là chị của ông Nguyễn Tấn L) bằng
số tiền 2.700.000.000 đồng nên ông Nguyễn Tấn L buộc vợ chồng ông, bà ký Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và đặt tiền cọc là 2.700.000.000 đồng vào
ngày 04/7/2023 nên việc lập “Hợp đồng thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng
đất và nhận tiền cọc” là để đảm bảo cho khoản tiền vay và tiền lãi còn nợ là
2.700.000.000 đồng chứ trên thực tế không có việc đặt cọc để chuyển nhượng nhà
đất. Còn việc nội dung cam kết vào ngày 22/8/2023 âm lịch với mục đích nhằm
kéo dài thời hạn trả nợ. Từ đó, ông Ngô Hồng T, bà Nguyễn Thị Ú đồng ý hủy hợp
đồng thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và nhận tiền đặt cọc lập ngày
04/7/2023, vợ chồng ông, bà sẽ trả lại cho ông Nguyễn Tấn L số tiền vay
380.000.000 đồng và đồng ý trả lãi phát sinh với mức lãi suất theo quy định của
pháp luật.
Ngân hàng TMCP Đ2 xác định, ông Ngô Hồng T và bà Nguyễn Thị Ú đã
thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DD203573 do Ủy ban nhân dân
thành phố C cấp ngày 07/4/2004 (cập nhật biến động thay đổi ngày 08/5/2015)
theo Hợp đồng thế chấp tài sản số 443 ngày 24/12/2020 để đảm bảo số dự nợ cho
Công ty TNHH T2; hiện nay Công ty TNHH T2 thực hiện đúng nghĩa vụ thanh
toán nợ cho Ngân hàng đúng hạn, không phát sinh nợ quá hạn. Vì vậy, Ngân hàng
không có ý kiến về hợp đồng đặt cọc giữa ông Nguyễn Tấn L với Ngô Hồng T,
Nguyễn Thị Ú. Trường hợp Công ty TNHH T2 không thực hiện nghĩa vụ thì Ngân
hàng sẽ khởi kiện bằng vụ án khác.
Ông Dương Tấn Đ và bà Nguyễn Thị L3 cho rằng, hợp đồng thế chấp giữa
vợ chồng ông với vợ chồng ông Ngô Hồng T, bà Nguyễn Thị Ú đã được hai bên tất
toán xong và cũng không có liên quan gì đến việc tranh chấp giữa ông Nguyễn Tấn
L với vợ chồng ông Ngô Hồng T bà Nguyễn Thị Ú.
4
Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 06/2024/DS-ST ngày 12/01/2024 của Tòa án
nhân dân thành phố Cà Mau đã quyết định: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông
Nguyễn Tấn L. Hủy “Hợp đồng thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và
nhận tiền đặt cọc” ngày 04/7/2023 giữa ông Ngô Hồng T, bà Nguyễn Thị Ú với
ông Nguyễn Tấn L. Buộc ông Ngô Hồng T, bà Nguyễn Thị Ú trả cho ông Nguyễn
Tấn L số tiền 5.400.000.000 đồng.
Tại bản án dân sự phúc thẩm số: 232/DS-PT ngày 23/5/2024 của Tòa án
nhân dân tỉnh Cà Mau đã quyết định: Hủy bản án dân sự sơ thẩm số: 06/2024/DS-
ST ngày 12/01/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau. Chuyển hồ sơ vụ án
cho Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau để giải quyết lại vụ án theo
thủ tục chung.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 193/2025/DS-ST ngày 12/6/2025 của Tòa án
nhân dân thành phố Cà Mau đã quyết định: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông
Nguyễn Tấn L. Hủy “Hợp đồng thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và
nhận tiền đặt cọc” ngày 04/7/2023 giữa ông Ngô Hồng T, bà Nguyễn Thị Ú với
ông Nguyễn Tấn L. Buộc ông Ngô Hồng T, bà Nguyễn Thị Ú trả cho ông Nguyễn
Tấn L số tiền 5.400.000.000 đồng.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về nghĩa vụ thi hành án, án phí và quyền
kháng cáo theo luật định.
Ngày 26/6//2025, ông Ngô Hồng T, bà Nguyễn Thị Ú kháng cáo toàn bộ bản
án sơ thẩm, yêu cầu cấp phúc thẩm xem xét hủy toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số:
193/2025/DS-ST ngày 12/6/2025 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau.
Tại phiên toà phúc thẩm, người kháng cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên tòa phát biểu
quan điểm: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ
án; của Hội đồng xét xử và những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng
tại phiên tòa đúng quy định pháp luật. Về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử căn
cứ khoản 2 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự sửa một phần bản án dân sự sơ
thẩm số: 193/2025/DS-ST ngày 12/6/2025 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau
theo hướng tuyên bố hợp đồng vô hiệu, buộc bị đơn trả cho nguyên đơn số tiền
2.700.000.000 đồng, không chấp nhận phạt cọc.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1]. Xét kháng cáo của ông Ngô Hồng T, bà Nguyễn Thị Ú thực hiện trong
hạn luật định và hợp lệ nên được xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
[2]. Xét về quan hệ pháp luật cho thấy: Tại “Hợp đồng thỏa thuận chuyển
nhượng quyền sử dụng đất và nhận tiền đặt cọc” ngày 04/7/2023 giữa ông Ngô
Hồng T, bà Nguyễn Thị Ú với ông Nguyễn Tấn L thì các bên chỉ mới xác lập việc
5
đặt cọc nhằm đảm bảo cho việc tiến tới ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất chứ không phải đảm bảo cho việc thực hiện hợp đồng chuyển nhượng và
hai bên chưa ký kết “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” thì xảy ra tranh
chấp. Do không thể tiến tới việc ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất nên ông Nguyễn Tấn L khởi kiện yêu cầu hợp đồng đặt cọc. Tòa án cấp sơ
thẩm xác định quan hệ pháp luật về “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc” và áp dụng
Điều 328 của Bộ luật dân sự để giải quyết là có căn cứ.
[3] Xét về việc tranh chấp và kháng cáo của bị đơn cho thấy: Ông Ngô Hồng
T, bà Nguyễn Thị Ú thừa nhận là đã xác lập “Hợp đồng thỏa thuận chuyển nhượng
quyền sử dụng đất và nhận tiền đặt cọc” ngày 04/7/2023 với ông Nguyễn Tấn L.
Theo nội dung hợp đồng thì ông Ngô Hồng T, bà Nguyễn Thị Ú thống nhất sẽ
chuyển nhượng cho ông Nguyễn Tấn L phần đất thuộc thửa 251 tờ bản đồ 59 diện
tích 305m
2
và tài sản gắn liền với đất là căn nhà cấp 4, diện tích ngang 6,5m x dài
47m, nhà đất tọa lạc tại đường L, khóm G, phường H, thành phố C với giá chuyển
nhượng là 5.500.000.000 đồng. Để đảm bảo cho việc tiến tới ký kết hợp đồng
chuyển nhượng, ông Nguyễn Tấn L đã đặt cọc cho ông Ngô Hồng T, bà Nguyễn
Thị Ú số tiền bằng 2.700.000.000 đồng. Tại thời điểm đặt cọc, ông Ngô Hồng T,
bà Nguyễn Thị Ú cho rằng đang thế chấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
ngân hàng để vay tiền nên từ đó ông Ngô Hồng T, bà Nguyễn Thị Ú thỏa thuận
cùng ông Nguyễn Tấn L là trong hạn 100 ngày kể từ ngày 04/7/2023, ông Ngô
Hồng T, bà Nguyễn Thị Ú sẽ cùng với ông Nguyễn Tấn L đến Ngân hàng để ông
Nguyễn Tấn L trả cho ngân hàng số tiền 2.800.000.000 đồng do vợ chồng ông Ngô
Hồng T nợ ngân hàng để Ngân hàng xóa thế chấp và vợ chồng ông Ngô Hồng T sẽ
lập hợp đồng chuyển nhượng đất cho ông Nguyễn Tấn L đứng tên và giao đất cho
ông Nguyễn Tấn L. Nhưng sau thời gian 100 ngày, ông Ngô Hồng T, bà Nguyễn
Thị Ú không thực hiện được nội dung thỏa thuận, không đến Ngân hàng để trả tiền
vay như thỏa thuận nên ngày 22/8/2023 âm lịch (nhằm ngày 06/10/2023 dương
lịch) vợ chồng ông Ngô Hồng T đã tiếp tục lập “Tờ cam kết” gia hạn lại thời gian
thực hiện theo thỏa thuận là ngày 22/9/2023 âm lịch, nhưng hết thời gian gia hạn,
vợ chồng ông Ngô Hồng T, bà Nguyễn Thị Ú vẫn không thực hiện việc cùng ông
Nguyễn Tấn L đến ngân hàng trả nợ vay để Ngân hàng xóa đăng ký thế chấp nên
không thực hiện được việc ký kết hợp đồng chuyển nhượng. Hợp đồng thỏa thuận
chuyển nhượng quyền sử dụng đất và nhận tiền đặt cọc lập ngày 04/7/2023 đã
được ông Ngô Hồng T, bà Nguyễn Thị Ú kiểm tra, xác định đúng nội dung và tự
nguyện ký xác lập. Từ đó, Tòa án cấp sơ thẩm xác định số tiền 2.700.000.000 đồng
được ông Ngô Hồng T, bà Nguyễn Thị Ú nhận từ ông Nguyễn Tấn L là số tiền đặt
cọc nhằm để đảm bảo cho việc tiến đến ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất nên việc tranh chấp giữa các bên là tranh chấp hợp đồng đặt cọc là đúng
theo qui định tại Điều 328 của Bộ luật dân sự.
6
Ông Ngô Hồng T, bà Nguyễn Thị Ú cho rằng việc xác lập “Hợp đồng thỏa
thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và nhận tiền đặt cọc” ngày 04/7/2023 là
do sự ép buộc của ông Nguyễn Tấn L vì trên thực tế không hề xảy ra việc đặt cọc,
không hề có việc vợ chồng ông bà nhận số tiền 2.700.000.000 đồng mà là do vợ
chồng ông bà nợ ông Nguyễn Tấn L số tiền vốn vay là 380.000.000 đồng và khoản
lãi chưa trả. Ông Nguyễn Tấn L đã cộng luôn cả số tiền nợ vay mà vợ chồng ông
bà nợ vợ chồng ông Dương Tấn Đ, bà Nguyễn Thị L3 nên tổng số tiền nợ bằng
2.700.000.000 đồng. Từ đó, ông Nguyễn Tấn L mới buộc vợ chồng ông ký “Hợp
đồng thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và nhận tiền đặt cọc” ngày
04/7/2023. Tuy nhiên, việc vay nợ và nợ tiền vay thì ông Ngô Hồng T, bà Nguyễn
Thị Ú không cung cấp được tài liệu, chứng cứ nào để chứng minh. Kể cả thời gian
vay tiền, số nợ vốn vay, số tiền lãi suất chưa trả thì cũng không có chứng cứ xác
định cụ thể. Còn việc nợ tiền vợ chồng ông Dương Tấn Đ, bà Nguyễn Thị L4 thì
không có chứng cứ chứng minh việc ông Nguyễn Tấn L cộng dồn khoản tiền vốn
và lãi mà vợ chồng ông Ngô Hồng T nợ vào khoản tiền đặt cọc. Tại bản tự khai
ngày 20/7/2024, ông Dương Tấn Đ, bà Nguyễn Thị L4 xác định là “Vào ngày
28/7/2022, vợ chồng ông Ngô Hồng T thế chấp cho vợ chồng ông quyền sử dụng
phần đất tại thửa 251, tờ bản đồ số 59, diện tích 305,5m
2
để vay số tiền
1.800.000.000 đồng, lãi suất 2%/tháng. Đến ngày 10/4/2023, vợ chồng ông Ngô
Hồng T yêu cầu đưa thêm 200.000.000 đồng và thỏa thuận chuyển nhượng phần
đất trên với giá 4.000.000.000 đồng. Nhưng sau đó, vợ chồng ông Ngô Hồng T yêu
cầu chuyển nhượng với giá 6.000.000.000 đồng nên vợ chồng ông không đồng ý
chuyển nhượng. Khoảng tháng 7/2023, vợ chồng ông Ngô Hồng T thông báo là đã
chuyển nhượng phần đất cho ông Nguyễn Tấn L với giá 5,5 tỷ đồng và cam kết sau
khi nhận tiền cọc sẽ trả cho vợ chồng ông 2 tỷ đồng. Ngày 04/7/2023, sau khi ký
kết hợp đồng và nhận tiền đặt cọc, đến chiều cùng ngày thì vợ chồng ông Ngô
Hồng T mang tiền đến trả lại 2 tỷ đồng cho vợ chồng ông và vợ chồng ông đã giao
trả lại bản gốc Hợp đồng thế chấp, các bên tất toán xong hợp đồng thế chấp tài
sản để vay tiền. Việc trả tiền theo hợp đồng thế chấp không có liên quan gì đến
việc đặt cọc của ông Nguyễn Tấn L”. Lời thừa nhận này chỉ thể hiện việc vợ chồng
ông Dương Tấc Đ1, bà Nguyễn Thị L4 cho vợ chồng ông Ngô Hồng T vay tiền và
thế chấp tài sản, sau khi vợ chồng ông Ngô Hồng T nhận cọc và trả tiền vay thì các
bên đã tất toán xong hợp đồng thế chấp tài sản và vay tiền mà không có căn cứ xác
định việc ông Nguyễn Tấn L cộng gộp chung số tiền vay của vợ chồng ông Dương
Tấn Đ vào chung khoản tiền đặt cọc là 2.700.000.000 đồng nên Tòa án cấp sơ
thẩm không công nhận ý kiến của ông Ngô Hồng T, bà Nguyễn Thị Ú là phù hợp.
Mặc khác, tại “Hợp đồng thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và
nhận tiền đặt cọc” ngày 04/7/2023 xác định rõ giá trị thỏa thuận chuyển nhượng
phần đất là 5.500.000.000 đồng, ông Nguyễn Tấn L đặt cọc trước 2.700.000.000
7
đồng và số tiền này ông Ngô Hồng T, bà Nguyễn Thị Ú đã nhận đủ. Số tiền còn lại
2.800.000.000 đồng các bên thỏa thuận trong hạn 100 ngày kể từ ngày 04/7/2023
các bên sẽ đến Ngân hàng để ông Nguyễn Tấn L trả 2.800.000.000 đồng vốn vay
mà vợ chồng ông Ngô Hồng T nợ ngân hàng, sau khi ngân hàng xóa thế chấp thì
vợ chồng ông Ngô Hồng T sẽ ký hợp đồng chuyển nhượng đất, chuyển tên quyền
sử dụng đất cho ông Nguyễn Tấn L. Hợp đồng này đã được ông Ngô Hồng T, bà
Nguyễn Thị Ú đọc, kiểm tra và thống nhất ký xác lập. Tại thời điểm đặt cọc, các
bên biết rõ phần đất đang được thế chấp cho Ngân hàng để vay tiền. Tuy nhiên, các
bên cũng đã thỏa thuận việc thực hiện nghĩa vụ xong với Ngân hàng, Ngân hàng
xóa thế chấp xong mới tiền tới việc ký kết hợp đồng chuyển nhượng. Các bên chỉ
mới thực hiện giao dịch đặt cọc để đảm bảo cho việc thực hiện các nghĩa vụ trên
cho Ngân hàng trước khi chuyển nhượng quyền sử dụng đất nên việc các bên thực
hiện giao dịch đặt cọc vào ngày 04/7/2023 là không trái pháp luật.
Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Nguyễn Tấn L cũng xác định là đã giao đủ số
tiền 2.700.000.000 đồng cho vợ chồng ông Ngô Hồng T nên nội dung hợp đồng
mới xác định cụ thể là vợ chồng ông Ngô Hồng T nhận đủ tiền. Ngoài ra, trong
thời gian 100 ngày theo thỏa thuận và kể cả khi hết thời gian gia hạn, ông đều đến
Ngân hàng để thực hiện theo thỏa thuận nhưng vợ chồng ông Ngô Hồng T vẫn
không đến Ngân hàng để ông trả phần tiền còn lại vào khoản nợ vay mà vợ chồng
ông Ngô Hồng T nợ ngân hàng nên không xảy ra việc Ngân hàng xóa thế chấp tài
sản và cũng không thể thực hiện được việc ký kết hợp đồng chuyển nhượng. Việc
không đến ngân hàng để trả nợ vay không phải lỗi do ông và ông cũng xác định là
ông hoàn toàn không có cho vợ chồng ông Ngô Hồng T vay tiền.
Từ những nội dung trên, không có cơ sở để xác định là việc ông Ngô Hồng
T, bà Nguyễn Thị Ú ký kết “Hợp đồng thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng
đất và nhận tiền đặt cọc” ngày 04/7/2023 là do ép buộc của ông Nguyễn Tấn L và
cũng không có căn cứ để xác định việc đặt cọc 2.700.000.000 đồng là xuất phát từ
nợ tiền vay như ông Ngô Hồng T, bà Nguyễn Thị Ú đã nêu mà xác định số tiền
2.700.000.000 đồng do ông Nguyễn Tấn L giao cho vợ chồng ông Ngô Hồng T là
đã xác lập hợp đồng đặt cọc để nhằm tiến tới ký kết hợp đồng chuyển nhượng đất
là có căn cứ.
[4] Xét về lỗi trong việc vi phạm nghĩa vụ hợp đồng đặt cọc cho thấy, việc
ông Ngô Hồng T, bà Nguyễn Thị Ú không thực hiện được việc thỏa thuận theo
“Hợp đồng thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và nhận tiền đặt cọc”
ngày 04/7/2023 là do trước khi thực hiện việc ký kết hợp đồng thì ông Ngô Hồng
T, bà Nguyễn Thị Ú đã thống nhất chuyển nhượng phần đất 305m
2
tại thửa 251, tờ
bản đồ số 59 cùng với toàn bộ tài sản gắn liền với đất là căn nhà cấp 4 cho Công ty
TNHH T2 với số tiền là 4.500.000.000 đồng và cũng liền ngay sau đó, ông Ngô
Hồng T, bà Nguyễn Thị Ú đã thống nhất ký hợp đồng thế chấp phần đất trên cho
8
Ngân hàng TMCP Đ2 để đảm bảo cho Công Ty TNHH T2 vay tiền. Quá trình thực
hiện thỏa thuận chuyển nhượng đất với Công ty TNHH T2 chưa thực hiện xong thì
ông Ngô Hồng T, bà Nguyễn Thị Ú lại tiếp tục thỏa thuận thế chấp phần đất để vay
tiền của vợ chồng ông Dương Tấn Đ, bà Nguyễn Thị L4 rồi cũng tiếp tục xác lập
hợp đồng và nhận tiền cọc nhằm chuyển nhượng phần đất trên cho ông Nguyễn
Tấn L.
Việc tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông
Ngô Hồng T, bà Nguyễn Thị Ú với Công ty TNHH T2 đã được Tòa án giải quyết
tại Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số: 74/2024/QĐST-DS
ngày 15/3/2024 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau, theo sự thuận thì vợ
chồng ông Ngô Hồng T và Công ty TNHH T2 thống nhất hủy hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 10/12/2020, ông Ngô Hồng T, bà Nguyễn Thị
Ú trả lại cho Công ty TNHH T2 số tiền nhận chuyển nhượng đất và tiền lãi bằng
5.500.000.000 đồng. Đến ngày 25/9/2024, ông Ngô Hồng T, bà Nguyễn Thị Ú
thống nhất và thỏa thuận giao toàn bộ phần đất tại thửa 251, tờ bản đồ số 59, Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số Đ 203573 cấp ngày 07/4/2004 được chỉnh lý
sang tên cho ông Ngô Hồng T, bà Nguyễn Thị Ú vào ngày 08/5/2015 cho Công ty
TNHH T2 để thi hành nghĩa vụ Thi hành án theo Quyết định công nhận sự thỏa
thuận của các đương sự số: 74/2024/QĐST-DS ngày 15/3/2024 của Tòa án nhân
dân thành phố Cà Mau.
Cũng chính từ diễn biến trên, do không giải quyết được thỏa thuận chuyển
nhượng quyền sử dụng đất với Công ty TNHH T2 và cũng chưa thực hiện xong
nghĩa vụ đối với Ngân hàng. Số tiền nhận cọc 2.700.000.000 đồng đã được vợ
chồng ông Ngô Hồng T sử dụng vào mục đích khác trong đó có trả nợ vay cho vợ
chồng ông Dương Tấn Đ nên ông Ngô Hồng T, bà Nguyễn Thị Ú không thể thực
hiện được nội dung thỏa thuận với ông Nguyễn Tấn L tại “Hợp đồng thỏa thuận
chuyển nhượng quyền sử dụng đất và nhận tiền đặt cọc” ngày 04/7/2023. Đồng
thời, việc không trả nợ cho Ngân hàng để xóa thế chấp trong hạn 100 ngày kể cả
cho đến hết thời gian gia hạn và việc không tiếp tục ký kết hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất theo thỏa thuận thì ông Nguyễn Tấn L không có lỗi mà
hoàn toàn do lỗi từ ông Ngô Hồng T, bà Nguyễn Thị Ú. Hiện tại thì đối tượng để
giao kết hợp đồng chuyển nhượng không còn do vợ chồng ông Ngô Hồng T đã
giao toàn bộ tài sản trên để đối trừ vào nghĩa vụ thi hành án cho Công Ty TNHH
T2 bằng số tiền 2.000.000.000 đồng. Từ đó, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên hủy hợp
đồng “Hợp đồng thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và nhận tiền đặt
cọc” ngày 04/7/2023, buộc ông Ngô Hồng T, bà Nguyễn Thị Ú trả lại cho ông
Nguyễn Tấn L số tiền đặt cọc 2.700.000.000 đồng và buộc trả một khoản tiền
tương đương số tiền đặt cọc là 2.700.000.000 đồng là có căn cứ, đúng qui định tại
điểm a khoản 1 Mục I của Nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/4/2003 của
9
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; khoản 2 Điều 328 của Bộ luật dân
sự.
[5] Từ những phân tích trên, không chấp nhận toàn bộ nội dung kháng cáo
của ông Ngô Hồng T và bà Nguyễn Thị Ú. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số:
193/2025/DS-ST ngày 12/6/2025 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau.
[6] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau là chưa phù
hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.
[7] Ông Ngô Hồng T, bà Nguyễn Thị Ú phải chịu án phí dân sự phúc thẩm
theo qui định chung.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ Khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của bị đơn ông Ngô Hồng T và bà
Nguyễn Thị Ú. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 193/2025/DS-ST ngày
12/6/2025 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau (nay là Tòa án nhân dân Khu
vực 1 – Cà Mau).
2. Căn cứ vào các Điều 26, 39, 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 328,
468 của Bộ luật dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án;
- Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Tấn L. Hủy “Hợp
đồng thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và nhận tiền đặt cọc” ngày
04/7/2023 giữa ông Ngô Hồng T, bà Nguyễn Thị Ú với ông Nguyễn Tấn L. Buộc
vợ chồng ông Ngô Hồng T và bà Nguyễn Thị Ú phải trả cho ông Nguyễn Tấn L số
tiền đặt cọc là 2.700.000.000 đồng và một khoản tiền tương đương số tiền đặt cọc
là 2.700.000.000 đồng, tổng cộng bằng 5.400.000.000 đồng (Năm tỷ bốn trăm triệu
đồng).
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người
phải thi hành án chậm thi hành khoản tiền trên, thì hàng tháng người phải thi hành
án còn phải chịu thêm khoản lãi suất chậm thi hành theo mức lãi suất chậm thực
hiện nghĩa vụ được quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.
- Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch: Buộc vợ chồng ông Ngô Hồng T và
bà Nguyễn Thị Ú phải chịu với số tiền là 113.400.000 đồng. Ông Nguyễn Tấn L
không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm và được hoàn lại tiền tạm ứng án phí đã nộp
là 300.000 đồng tại biên lai số 0007630 ngày 17/11/2023 của Chi cục thi hành án
thành phố Cà Mau (nay là Phòng Thi hành án dân sự Khu vực 1 – Cà Mau).
3. Án phí dân sự phúc thẩm, ông Ngô Hồng T và bà Nguyễn Thị Ú mổi
người phải chịu 300.000 đồng, được đối trừ tiền tạm ứng án phí do ông Ngô Hồng
10
T dự nộp là 300.000 đồng tại biên lai thu tiền số 0007523 và bà Nguyễn Thị Ú dự
nộp 300.000 đồng tại biên lai thu tiền số 0007524 ngày 27/6/2025 của Chi cục Thi
hành án dân sự thành phố Cà Mau (nay là Phòng Thi hành án dân sự Khu vực 1 –
Cà Mau).
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điêù 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành
án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi
hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau;
- Tòa án nhân dân Khu vực 1 – Cà Mau;
- Phòng THADS Khu vực 1 – Cà Mau;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ;
- Lưu án văn;
- Lưu VT, (TM:TANDTCM).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thế Phương
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 24/11/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 19/11/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 28/10/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 26/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 26/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 26/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 26/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 25/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 25/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 25/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 24/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 23/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm