Bản án số 440/2025/DS-PT ngày 26/09/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp hợp đồng đặt cọc
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 440/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 440/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 440/2025/DS-PT
| Tên Bản án: | Bản án số 440/2025/DS-PT ngày 26/09/2025 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp hợp đồng đặt cọc |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng đặt cọc |
| Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Cà Mau |
| Số hiệu: | 440/2025/DS-PT |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 26/09/2025 |
| Lĩnh vực: | Dân sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ/việc: | ông Út L khởi kiện yêu cầu ông T1 trả cho ông Út L số tiền đặt cọc 500.000.000 đồng và tiền phạt cọc 500.000.000 đồng. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
Bản án số: 440/2025/DS-PT
Ngày 26 – 9 – 2025
V/v tranh chấp hợp đồng đặt cọc
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Thành Lập
Các Thẩm phán: Ông Lê Phan Công Trí
Bà Giang Thị Cẩm Thuý
- Thư ký phiên tòa: Bà Hứa Như Nguyện - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Cà
Mau.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên toà: Ông
Nguyễn Văn Điện – Kiểm sát viên.
Ngày 26 tháng 9 năm 2025 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 318/2025/TLPT-DS ngày 27 tháng 8
năm 2025 về việc: Tranh chấp hợp đồng đặt cọc.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 164/2025/DS-ST ngày 19 tháng 6 năm 2025
của Tòa án nhân dân huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau (nay là Toà án nhân dân khu
vực 3 - Cà Mau) bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 373/2025/QĐ-PT ngày 29
tháng 8 năm 2025 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Hồ Văn Út L, sinh năm 1989;
Căn cước công dân số: 096089003595; Cấp ngày: ngày 03/12/2022; Nơi cấp:
Cục Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội
Nơi cư trú: Ấp C, xã N, huyện P, tỉnh Cà Mau. Nay là: Ấp C, xã C, tỉnh Cà
Mau.
Người đại diện hợp pháp theo uỷ quyền của ông Hồ Văn Út L:
1. Ông Nguyễn Vũ P, sinh năm 1992 (Có mặt);
2. Bà Trương Thùy T, sinh năm 1996 (Có mặt);
Cùng địa chỉ cư trú: Ấp C, xã C, tỉnh Cà Mau.
- Bị đơn: Ông Phạm Văn T1, sinh năm 1987;
Căn cước công dân số: 096087016690; Cấp ngày: ngày 08/05/2022; Nơi cấp:
Cục Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội.
Nơi cư trú: Ấp C, xã N, huyện P, tỉnh Cà Mau. Nay là: Ấp C, xã C, tỉnh Cà
Mau
Người đại diện hợp pháp theo uỷ quyền của ông Phạm Văn T1: Ông Trần
Hoàng P1, sinh năm 1953; nơi cư trú: Khóm A, phường A, tỉnh Cà Mau (Có mặt).
2
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Tiền Văn T2 (Vắng mặt)
2. Bà Tiền Thị Chúc L1, sinh năm 1987 (Vắng mặt).
Cùng nơi cư trú: D đường N, xã V, huyện B, thành phố Hồ Chí Minh. Nay là:
xã V, thành phố Hồ Chí Minh.
- Người kháng cáo: Ông Phạm Văn T1, là bị đơn
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo đơn khởi kiện của ông Hồ Văn Út L và trong quá trình giải quyết vụ
án người đại diện theo uỷ quyền của ông Út L trình bày:
Vào ngày 17/9/2024, giữa ông Út L và ông T1 xác lập hợp đồng đặt cọc thoả
thuận ông Út L nhận chuyển nhượng của ông Toàn phần đất diện tích 12.558,3m
2
toạ lạc tại ấp C, xã N, huyện P, tỉnh Cà Mau, giá chuyển nhượng 1.900.000.000
đồng, đặt cọc số tiền 500.000.000 đồng, thoả thuận thời hạn đặt cọc là 30 ngày kể
từ ngày đặt cọc ngày 17/9/2024 hai bên sẽ ký hợp đồng chuyển nhượng.
Việc hai bên giao nhận tiền cọc không lập biên nhận, do trước đó ông T1 và
bà Chúc L1 có xác lập hợp đồng cầm cố phần đất trên, giá cố 400.000.000 đồng,
thời hạn từ năm 2022 đến năm 2026. Do ông T1 muốn chuyển nhượng đất cho ông
Út L nên đã chấm dứt hợp đồng cầm cố với bà L1 trước thời hạn. Ngày 17/9/2024
tại nhà ông T1, ông Út L đã chuyển khoản cho bà L1 260.000.000 đồng (do trong
tài khoản của ông Ú lớn chỉ còn 260.000.000 đồng) để trừ số tiền cầm cố giữa ông
T1 với bà L1 và ông Út L đã giao tiền mặt 240.000.000 đồng cho ông T1 là đủ số
tiền đặt cọc 500.000.000 đồng, có ông Lê Văn C và ông Hồ Văn L2, ông Nguyễn
Văn C1 chứng kiến.
Sau khi xác lập hợp đồng đặt cọc (trong thời hạn 30 ngày) thì ông Út L có
đến Ủy ban nhân dân xã N, huyện P, tỉnh Cà Mau để thực hiện thủ tục chuyển
nhượng thì biết phần đất nêu trên đã có văn bản ngăn chặn của cơ quan Thi hành
án dân sự huyện Phú Tân để đảm bảo thi hành án đối với khoản nợ mà ông T1 có
nghĩa vụ thanh toán. Từ lý do trên, nên hợp đồng chuyển nhượng không thể tiếp
tục thực hiện. Theo hợp đồng đặt cọc ngày 17/9/2024 có quy định: Nếu bên A (ông
Út L) từ chối thực hiện việc chuyển nhượng thì mất cọc; nếu bên B (ông T1) không
thực hiện được thủ tục sang tên chuyển nhượng thì trả lại cọc và bị phạt cọc 500
triệu đồng. Do đó, ông Út L khởi kiện yêu cầu ông T1 trả cho ông Út L số tiền đặt
cọc 500.000.000 đồng và tiền phạt cọc 500.000.000 đồng.
- Theo ông Phạm Văn T1 trình bày:
Ngày 17/9/2024, ông có ký hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng phần đất cho
ông Út L theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số DG 596869 do Chi nhánh
Văn phòng đăng ký đất đai cấp ngày 08/9/2022, phần đất diện tích 12.558,3m
2
toạ
lạc tại ấp C, xã N, huyện P, tỉnh Cà Mau, giá chuyển nhượng 1.900.000.000 đồng.
Tại Điều 2 của hợp đồng đặt cọc quy định: Thời hạn đặt cọc là 30 ngày kể từ ngày
ký hợp đồng đặt cọc, hai bên sẽ ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
nêu trên. Tuy nhiên, đối với khoản tiền đặt cọc ông Út L không giao cho ông theo
điều khoản ghi trong hợp đồng. Nay ông Út L yêu cầu trả tiền đặt cọc và phạt cọc
500.000.000 đồng là không hợp lý.
3
- Theo bà Tiền Thị Chúc L1 trình bày:
Trước đây, bà và ông T1 xác lập hợp đồng cầm cố phần đất tại ấp C, xã N,
huyện P, tỉnh Cà Mau, phần đất diện tích 12.558,3m
2
, thời hạn cố từ năm 2022 đến
năm 2026, giá cố 400.000.000 đồng. Sau khi xác lập hợp đồng cầm cố thì ông T1
đã giao giấy chứng nhận quyền sử dụng cho bà quản lý. Nguồn tiền từ việc cố đất
là của bà, nhưng do tính chất công việc đi lại khó khăn nên để cho em trai bà là
ông Tiền Văn T2 ký tên hợp đồng cầm cố với ông T1. Đến năm 2024, do ông T1
muốn chuyển nhượng đất cho người khác nên có ý định chuộc lại phần đất. Do ông
T1 kết thúc hợp đồng trước thời hạn nên ông T1 phải trả tiền cố đất 400.000.000
đồng và bồi thường tiền con giống 60.000.000 đồng. Đến ngày 17/9/2024, tại nhà
ông T1 gồm có bà, ông T1, ông Út L và một số người khác không biết rõ họ tên,
do ông T1 và ông Út L đã thoả thuận như thế nào thì bà không biết. Sau đó, ông Út
L đã chuyển khoản cho bà số tiền 260.000.000 đồng (Số tài khoản 0345.720.678
Ngân hàng S1 tên chủ tài khoản Tiền Thị Chúc L1) trả tiền cố đất thay cho ông T1
và cùng thời điểm đó ông T1 đưa thêm cho bà 200.000.000 đồng (số tiền này là từ
ông Út L đưa cho ông T1 nói là tiền đặt cọc chuyển nhượng đất), tổng cộng
460.000.000 đồng là đủ số tiền cố đất và tiền bồi thường kết thúc hợp đồng trước
thời hạn. Bà yêu cầu Toà án xét xử vắng mặt đến khi giải quyết xong vụ án.
- Theo ông Tiền Văn T2 trình bày:
Trước đây bà L1 có nhờ ông ký hợp đồng cầm cố với ông Toàn phần đất tại
ấp C, xã N, huyện P, tỉnh Cà Mau, diện tích 12.558,3m
2
, giá cố 400.000.000 đồng,
nguồn tiền cố đất là của bà L1. Ông chỉ ký tên dùm chứ mọi việc liên quan đến vấn
đề cầm cố thì do bà L1 và ông T1 thoả thuận. Hiện nay, giữa bà L1 và ông T1 cũng
đã kết thúc việc cầm cố và trả đất cho ông T1 quản lý. Do bận công việc nên ông
yêu cầu xét xử vắng mặt đến khi giải quyết xong vụ án.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số: 164/2025/DS-ST ngày 19 tháng 6 năm 2025
của Tòa án nhân dân huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau (nay là Toà án nhân dân khu
vực 3 - Cà Mau) quyết định:
- Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Hồ Văn Út L. Buộc ông Phạm
Văn T1 trả cho ông Hồ Văn Ú Lớn số tiền đặt cọc 500.000.000 đồng và số tiền
phạt cọc 500.000.000 đồng, tổng cộng 1.000.000.000 đồng.
- Buộc ông Hồ Văn Ú Lớn trả lại cho ông Phạm Văn T1 giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số DG 596869, thửa số 168, tờ bản đồ số 3, diện tích
12.558,3m
2
được Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh C cấp ngày 19/8/2022 đứng
tên Phạm Văn T1.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về lãi suất chậm trả, án phí và quyền kháng
cáo của đương sự.
Ngày 07/7/2025, ông Phạm Văn T1 có đơn kháng cáo, yêu cầu sửa bản án sơ
thẩm, không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Hồ Văn Út L.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện của ông Phạm Văn T1 giữ nguyên
kháng cáo.
Phần tranh luận tại phiên toà:
4
Ông P1 phát biểu: Hợp đồng đặt cọc giữa ông Út L với ông T1 chưa phát
sinh hiệu lực, do ông Út L chưa giao số tiền đặt cọc cho ông T1, không có biên
nhận thể hiện việc ông Út L giao tiền cho ông T1. Toà án cấp sơ thẩm chưa làm rõ
có việc ông Út L giao tiền cho ông T1 hay không. Việc ông Út L chuyển tiền cho
bà L1 là do ông Út L tự ý, không có sự thống nhất của ông T1. Hợp đồng chuyển
nhượng không được thực hiện là do lỗi của ông Út L tự ý chấm dứt không thực
hiện hợp đồng đặt cọc. Dó đó, yêu cầu Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của
ông T1, sửa bản án sơ thẩm, không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông
Út L; nếu không sửa bản án sơ thẩm, thì yêu cầu huỷ toàn bộ bản án sơ thẩm, giao
về cho Toà án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án.
Ông P phát biểu: Việc ông Út L và ông T1 ký kết hợp đồng đặt cọc ngày
17/9/2024 là có thực tế. Ông Út L đã giao đủ số tiền cọc 500.000.000 đồng cho
ông T1, gồm: Chuyển khoản cho bà L1 260.000.000 đồng để trả tiền cố đất cho
ông T1 và giao tiền mặt cho ông T1 240.000.000 đồng. Nếu ông Út L chưa giao
tiền đặt cọc cho ông T1 thì chẳng lý do gì ông T1 giao giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất của ông T1 cho ông Út L giữ. Trước khi ký hợp đồng đặt cọc, ông T1 đã
biết ông có nghĩa vụ trả nợ cho người khác, phần đất của ông không thể chuyển
nhương được. Việc không thực hiện được hợp đồng chuyển nhượng là do lỗi của
ông T1. Bản án sơ thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Út L là có
căn cứ. Do đó, yêu cầu Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của ông T1,
giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Bà T không có ý kiến phát biểu tranh luận.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên toà phát biểu:
Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án, của Hội
đồng xét xử và những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng tại phiên tòa
đúng quy định pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 của
Bộ luật Tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của ông Phạm Văn T1, giữ
nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Xét kháng cáo của ông Phạm Văn T1, Hội đồng xét xử xét thấy:
[1] Ngày 17/9/2024, ông Hồ Văn Út L và ông T1 ký kết với nhau hợp đồng
đặt cọc để chuyển nhượng quyền sử dụng đất: Ông Út L đặt cọc cho ông T1 số tiền
500.000.000 đồng để nhận chuyển nhượng của ông Toàn phần đất và tài sản gắn
liền với đất, thuộc thửa số 168, tờ bản đồ số 3, phần đất diện tích 12.558,3m
2
toạ
lạc tại ấp C, xã N, huyện P, thời hạn đặt cọc là 30 ngày kể từ ngày ký hợp đồng đặt
cọc, giá chuyển nhượng thoả thuận là 1.900.000.000 đồng. Do ông T1 không thực
hiện được thủ tục chuyển nhượng cho ông Út L theo thoả thuận, do phần đất của
ông T1 bị cơ quan Thi hành án dân sự huyện P kê biên để thực hiện nghĩa vụ trả nợ
cho người được thi hành án đối với khoản nợ của ông T1 có nghĩa vụ thanh toán.
Ông Út L xác định hợp đồng chuyển nhượng không thực hiện được là do lỗi của
ông T1, nên khởi kiện yêu cầu ông T1 trả tiền đặt cọc 500.000.000 đồng và phạt
cọc 500.000.000 đồng. Ông T1 xác định không vi phạm hợp đồng do ông Út L
chưa giao tiền đặt cọc, nên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Út L.
5
[2] Xét yêu cầu của ông Út L về việc buộc ông T1 trả số tiền đặt cọc
500.000.000 đồng, xét thấy: Việc ký kết hợp đồng đặt cọc ngày 17/9/2024 giữa
ông Út L và ông T1 là có thực tế xảy ra, được các bên đương sự thừa nhận, ông Út
L đặt cọc cho ông T1 số tiền 500.000.000 đồng để nhận chuyển nhượng quyền sử
dụng đất của ông T1. Ông Út L xác định đã giao cho ông T1 số tiền cọc
500.000.000 đồng; còn ông T1 cho rằng ông Út L chưa giao tiền cọc cho ông.
Nhận thấy, mặc dù khi giao nhận tiền đặt cọc hai bên không có làm biên nhận
nhưng theo lời trình bày của ông Út L và người làm chứng trong vụ án chứng kiến
sự việc thể hiện:
[2.1] Bà Tiền Thị Chúc L1 xác định trước đây bà có cầm cố phần đất của
ông T1 bằng 400.000.000 đồng, thời hạn cầm cố từ năm 2022 đến năm 2026; do
ông T1 muốn chuyển nhượng phần đất cho ông Út L nên mới thoả thuận ông T1
chuộc lại đất trước thời hạn và bồi thường con giống cho bà L1 số tiền bằng
60.000.000 đồng. Ngày 17/9/2024, tại nhà của ông T1, ông Út L đã chuyển khoản
cho bà số tiền 260.000.000 đồng để trả tiền cố đất thay cho ông T1, ông T1 giao
tiền mặt cho bà 200.000.000 đồng, bà đã nhận đủ số tiền 460.000.000 đồng và trả
lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông T1. Lời trình bày của bà L1 phù
hợp với Sổ phụ chi tiết kiêm báo nợ/báo có của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Q
ngày 28/02/2025 thể hiện: “Ngày 17/9/2024 khách hàng Hồ Văn Ú Lớn chuyển
tiền – mã giao dịch 609493 cho người thụ hưởng Tiền Thị Chúc L1 số tiền
260.000.000 đồng, số tài khoản 0345720678 Ngân hàng S1”.
[2.2] Ông Hồ Văn L2 và ông Lê Văn C, ông Nguyễn Văn C1 xác định: Ngày
17/9/2024, tại nhà ông T1 các ông có chứng kiến ông Út L đã giao số tiền
240.000.000 đồng cho ông T1 và ông T1 đã lấy trong số tiền ông Út L giao đưa
cho bà L1 200.000.000 đồng. Tại phiên toà sơ thẩm, ông T1 cũng thừa nhận trước
đây khi cầm cố đất cho bà L1 và có giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho
bà L1 giữ, khi chuộc lại đất bà L1 đã giao trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho ông và ông có giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Út L, hiện
nay ông Út L đang giữ. Nếu không có việc ông Út L đã giao đủ số tiền đặt cọc
500.000.000 đồng cho ông T1 thì chẳng lý do gì ông T1 lại giao bản gốc giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất của ông T1 đứng tên cho ông Út L giữ. Như vậy, có
đủ cơ sở để xác định ông Út L đã giao cho ông T1 đủ số tiền đặt cọc 500.000.000
đồng; do đó, Toà án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của ông Út L, buộc ông T1 trả
lại cho ông Út L số tiền đặt cọc đã nhận 500.000.000 đồng, là có căn cứ.
[3] Đối với yêu cầu của ông Út L về việc phạt cọc đối với ông T1 số tiền
500.000.000 đồng: Theo hồ sơ thể hiện, Quyết định công nhận kết quả hoà giải
thành tại Toà án số 05/2024/QĐCNHGT-DS ngày 16/02/2024 của Toà án nhân
dân huyện Phú Tân: Ông Phạm Văn T1 trả cho ông Nguyễn Việt S số tiền
800.000.000 đồng, Quyết định công nhận kết quả hoà giải thành tại Toà án số
75/2024/QĐCNHGT-DS ngày 10/10/2024 của Toà án nhân dân huyện Phú Tân:
Ông Phạm Văn T1 trả cho ông Nguyễn Việt S số tiền 500.000.000 đồng. Tại thời
điểm ông Út L và ông T1 ký kết hợp đồng đặt cọc ngày 17/9/2024 thì ông T1 chỉ
có nghĩa vụ trả nợ theo Quyết định số 05/2024/QĐCNHGT-DS ngày 16/02/2024
(chưa có Quyết định 75/2024/QĐCNHGT-DS ngày 10/10/2024), đồng thời cũng
6
chưa có quyết định cưỡng chế kê biên của cơ quan thi hành án, mà đến ngày
09/10/2024 Chi cục thi hành án mới ban hành Quyết định số 01/QĐ-CCTHADS về
việc cưỡng chế kê biên quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất đối với ông
T1. Hơn nữa, ông T1 cũng xác định mục đích ông chuyển nhượng quyền sử dụng
đất là để trả nợ, chứ không phải nhằm trốn tránh nghĩa vụ thi hành án. Như vậy, có
cơ sở xác định việc ông T1 không thực hiện được hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất cho ông Út L là do có quyết định cưỡng chế kê biên của cơ quan Thi
hành án dân sự huyện Phú Tân, là vì lý do khách quan chứ không phải lỗi do ông
T1 cố tình không thực hiện.
Theo Án lệ số 25/2018AL ngày 17/10/2018, thì việc ông T1 không thực hiện
được hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Út L theo hợp đồng đặt
cọc đã thoả thuận là vì lý do khách quan, nên không phải chịu phạt cọc. Toà án cấp
sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của ông Út L về việc phạt cọc đối với ông T1 số tiền
500.000.000 đồng là chưa phù hợp; do đó, cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm,
không chấp nhận yêu cầu phạt cọc của ông Út L đối với ông T1.
[4] Từ nhận định trên, cấp phúc thẩm chấp nhận một phần kháng cáo của
ông Phạm Văn T1, sửa bản án sơ thẩm là phù hợp.
[5] Án phí dân sự
Án phí sơ thẩm các đương sự phải chịu được điều chỉnh lại theo quy định, cụ
thể: Ông T1 phải chịu án phí đối với phần yêu cầu của ông Út L được chấp nhận là
24.000.000 đồng; ông Út L phải chịu án phí đối với phần yêu cầu không được chấp
nhận là 24.000.000 đồng.
Án phí phúc thẩm: Ông T1 không phải chịu, đã dự nộp được nhận lại.
[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị nên không đặt
ra xem xét.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết
số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về án phí, lệ phí Tòa án.
Chấp nhận một phần kháng cáo của ông Phạm Văn T1.
Sửa bản án dân sự sơ thẩm số: 164/2025/DS-ST ngày 19 tháng 6 năm 2025
của Tòa án nhân dân huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau (Nay là Toà án nhân dân khu
vực 3 - Cà Mau).
Tuyên xử:
- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Hồ Văn Út L.
Buộc ông Phạm Văn T1 trả cho ông Hồ Văn Ú Lớn số tiền đặt cọc
500.000.000 đồng.
Kể từ ngày ông Út L có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành xong
khoản tiền nêu trên thì hàng tháng ông T1 còn phải chịu thêm khoản tiền lãi của số
tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật
Dân sự.
7
- Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Hồ Văn Út L với
ông Phạm Văn T1 đối với số tiền phạt cọc 500.000.000 đồng.
- Buộc ông Hồ Văn Ú Lớn trả lại cho ông Phạm Văn T1 giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số DG 596869, thửa số 168, tờ bản đồ số 3, diện tích
12.558,3m
2
được Sở Tài nguyên và môi trường tỉnh C cấp ngày 19/8/2022 đứng
tên Phạm Văn T1.
- Về án phí dân sự
Án phí sơ thẩm: Ông Phạm Văn T1 phải chịu 24.000.000 đồng. Ông Hồ
Văn Út L phải chịu 24.000.000. Ông Út L đã dự nôp 21.000.000 đồng theo biên lai
thu số 0003734 ngày 09/01/2025 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Tân,
tỉnh Cà Mau, đối trừ còn phải nộp tiếp 3.000.000 đồng.
Án phí phúc thẩm: Ông Phạm Văn T1 không phải chịu. Ngày 09/7/2025,
ông T1 đã dự nộp 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số
0011278 của Thi hành án dân sự tỉnh Cà Mau được nhận lại.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có
hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật
thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau;
- Tòa án nhân dân khu vực 3-Cà Mau;
- Phòng THADS khu vực 3-Cà Mau;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ;
- Lưu án văn;
- Lưu VT(TM:TANDTCM).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thành Lập
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 24/11/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 19/11/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 28/10/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 26/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 26/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 26/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 25/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 25/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 25/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 24/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 23/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm