Bản án số 42/2022/HNGĐ-ST ngày 27/05/2022 của TAND TX. Cửa Lò, tỉnh Nghệ An về hôn nhân và gia đình

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 42/2022/HNGĐ-ST

Tên Bản án: Bản án số 42/2022/HNGĐ-ST ngày 27/05/2022 của TAND TX. Cửa Lò, tỉnh Nghệ An về hôn nhân và gia đình
Quan hệ pháp luật: Yêu cầu liên quan đến việc mang thai hộ theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND TX. Cửa Lò (TAND tỉnh Nghệ An)
Số hiệu: 42/2022/HNGĐ-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 27/05/2022
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ: Không
Đính chính: Không
Thông tin về vụ/việc: Lô Thị Hiền- Trần Đức Lễ
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ CỬA LÒ, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 42/2022/HNGĐ-ST NGÀY 27/05/2022 VỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 27 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An mở phiên tòa sơ thẩm xét xử công khai theo thủ tục thông thường vụ án dân sự thụ lý số 19/2022/TLST- HNGĐ ngày 02/3/2022 về tranh chấp “hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2022/QĐXX- ST ngày 13/5/2022 giữa các đương sự:

+ Nguyên đơn: chị Lô Thị H2, sinh năm 1982.

Nơi ĐKHKTT: khối Lam Thanh, phường Nghi Hải, thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An.

Chỗ ở hiện nay: bản B, xã Lạng Khê, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt).

+ Bị đơn: anh Trần Đức L, sinh năm 1985.

Trú quán: khối L, phường Nghi Hải, thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt lần thứ hai không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Trong đơn khởi kiện, bản lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Lô Thị H2 trình bày:

1. Về quan hệ tình cảm: Chị và anh Trần Đức L kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND phường Nghi Hải, thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An vào ngày 02/8/2010. Sau khi kết hôn vợ chồng sống chung sống hạnh phúc đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do chồng thường cờ bạc và ngoại tình, không chung thủy, vợ chồng ly thân một thời gian. Sau đó anh Lđi xuất khẩu lao động 02 năm, khi về nước vẫn không thay đổi, vợ chồng sống không hạnh phúc. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên chị Lô Thị H2 làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Trần Đức L.

2. Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Trần Đức Quốc B, sinh ngày 31/8/2015 và Trần Đức Quốc K, sinh ngày 28/12/2017. Sau khi ly hôn, chị Lô Thị H2 có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Trần Đức Quốc K, sinh ngày 28/12/2017 và anh Trần Đức L trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cháu Trần Đức Quốc B, sinh ngày 31/8/2015, không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.

3. Về tài sản và các khoản nợ: Không có nên không yêu cầu tòa án giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng đúng quy định pháp luật, anh Trần Đức L đã nhận nhưng không tham gia phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải. Do vậy Tòa án không tiến hành hòa giải được (khoản 1 điều 207 BLTTDS).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng:

Nguyên đơn- chị Lô Thị H2 có đơn yêu cầu ly hôn với anh Trần Đức L, anh Trần Đức L có đăng ký hộ khẩu thường trú tại phường Nghi Hải, thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An. Căn cứ vào Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự thì Tòa án nhân dân thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An thụ lý và giải quyết đơn xin ly hôn của chị Lô Thị H2 là đúng quy định của pháp luật. Tại phiên tòa, chị Lô Thị H2 có đơn xin xét xử vắng mặt, anh Trần Đức L vắng mặt lần thứ hai không có lý do. Vì vậy hội đồng xét xử tiếp tục phiên tòa (Điều 227; 228 BLTTDS).

[2]. Về nội dung vụ án:

[2.1]. Về quan hệ hôn nhân:

Chị Lô Thị H2 và anh Trần Đức L chung sống với nhau có đăng ký kết hôn vào ngày 02/8/2010 tại UBND phường Nghi Hải, thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An. Do vậy giữa chị Lô Thị H2 và anh Trần Đức L đã phát sinh quan hệ hôn nhân hợp pháp.

Quá trình chung sống hạnh phúc đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh L có quan hệ với người khác, sống không chung thủy và hay cờ bạc. Sau khi mâu thuẫn xẩy ra chị Lô Thị H2 đã vào Sài Gòn làm ăn và vợ chồng sống ly thân một thời gian. Sau đó anh L đi xuất khẩu lao động 02 năm khi trở về nước vẫn không thay đổi. Đã qua nhiều lần Tòa án triệu tập hòa giải nhưng anh Trần Đức L không tham gia hòa giải nên Tòa án không tiến hành hòa giải được. Quá trình giải quyết vụ án tại các buổi làm việc chị Lô Thị H2 vẫn không thay đổi quan điểm và chị muốn được ly hôn với anh Trần Đức L. Như vậy, đời sống chung vợ chồng đã không còn, mục đích hôn nhân không đạt được; nên chị Lô Thị H2 xin được ly hôn anh Trần Đức L là có căn cứ nghĩ nên chấp nhận (Điều 51, 56 Luật HN và GĐ).

[2.2]. Về con chung: Chị Lô Thị H2 và anh Trần Đức L có hai con chung là Trần Đức Quốc B, sinh ngày 31/8/2015 và Trần Đức Quốc K, sinh ngày 28/12/2017. Chị Lô Thị H2 có nguyện vọng sau khi ly hôn chị được trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng cháu Trần Đức Quốc K, sinh ngày 28/12/2017 và không yêu cầu anh L cấp dưỡng nuôi con chung, để anh Trần Đức L trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng cháu Trần Đức Quốc B, sinh ngày 31/8/2015. Xét về nguyện vọng của chị H2 là chính đáng và phù hợp với thực tế cuộc sống của mọi người. Vợ chồng có hai con chung, để đảm bảo quyền lợi cho các cháu trong cuộc sống hàng ngày, cũng như trong học tập và phát triển sau này nên chấp nhận yêu cầu của chị Lô Thị H2 là phù hợp với thực tế hiện tại. Giao cho anh L trực tiếp nuôi dưỡng cháu Trần Đức Quốc B và giao chị H2 trực tiếp nuôi dưỡng cháu Trần Đức Quốc K. Chị Lô Thị H2 và anh Trần Đức L mỗi người trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng một cháu do vậy không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau là phù hợp.

Chị Lô Thị H2 và anh Trần Đức L có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở (Điều 81, 82 và 83 Luật HN và GĐ).

Tài sản chung và khoản nợ: chị Lô Thị H2 không yêu cầu chia tài sản chung và giữa vợ chồng cũng không có khoản nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Xét thấy việc không yêu cầu trên của chị H2 là hoàn toàn tự nguyện, không bị ép buộc, nghĩ nên chấp nhận và không xem xét.

2.3. Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án buộc chị Lô Thị H2 phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ vào Điều 51; 56; 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147, Điều 227 và Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: chị Lô Thị H2 được ly hôn anh Trần Đức L.

2. Về con chung: Giao cháu Trần Đức Quốc B, sinh ngày 31/8/2015 cho anh Trần Đức L trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng; giao cháu Trần Đức Quốc K, sinh ngày 28/12/2017 cho chị Lô Thị H2 trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Chị H2 và anh L không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau. Chị H2 và anh L có quyền và nghĩa vụ đi lại thăm nom con chung, không ai được quyền cản trở.

3. Về án phí: Chị Lô Thị H2 phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0001016 ngày 01/3/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An. Chị Lô Thị H2 đã nộp đủ án phí.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại điều 6, điều 7 và điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án sơ thẩm hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú.

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất