Bản án số 41/2024/HS-ST ngày 30/08/2024 của TAND huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 41/2024/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 41/2024/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 41/2024/HS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 41/2024/HS-ST ngày 30/08/2024 của TAND huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn |
---|---|
Tội danh: | |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Chi Lăng (TAND tỉnh Lạng Sơn) |
Số hiệu: | 41/2024/HS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 30/08/2024 |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Hồi 10 giờ 50 phút ngày 16/6/2024, tại khu vực ngã 6 thuộc địa phận khu G, thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn. Tổ công tác phòng chống ma túy Công an huyện C, tỉnh Lạng Sơn phối hợp cùng Công an thị trấn Đ đang làm nhiệm vụ phát hiện Lâm Quốc H có biểu hiện nghi vấn phạm tội về ma túy. Tổ công tác đã tiến hành kiểm tra, phát hiện 01 (một) gói giấy bạc màu vàng, bên trong có 01 (một) gói giấy bạc màu trắng có chứa 01 (một) cục bột màu trắng nghi là ma túy heroin được rơi ra từ lòng bàn tay trái của Lâm Quốc H xuống dưới lòng đường; phát hiện trong túi quần đằng trước bên trái đang mặc của Lâm Quốc H 01 (một) điện thoại màu xanh-đen, nhãn hiệu Intel, gắn sim, đã qua sử dụng và số tiền 250.000 đồng (hai trăm năm mươi nghìn đồng). Lâm Quốc H khai nhận cục bột màu trắng trên là chất ma túy H1 do Lâm Quốc H mua để sử dụng cá nhân. Tổ công tác tiến hành lập biên bản sự việc, khám nghiệm hiện trường, thu giữ và niêm phong tang vật theo quy định. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN C
TỈNH LẠNG SƠN
Bản án số: 41/2024/HS-ST
Ngày 30-8-2024
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập –Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C, TỈNH LẠNG SƠN
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa: Ông Hoàng Thế Khuynh.
Các Hội thẩm nhân dân:
Bà Vy Thị Thu Trang;
Bà Phùng Thị Thu ..
- Thư ký phiên tòa: Ông Nông Văn Đông - Thư ký Toà án nhân dân huyện
C, tỉnh Lạng Sơn.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh Lạng Sơn tham gia
phiên tòa: Bà Âu Thu Hà - Kiểm sát viên.
Ngày 30 tháng 8 năm 2024, Toà án nhân dân huyện C, tỉnh Lạng Sơn xét
xử sơ thẩm công khai bằng hình thức trực tuyến tại 02 điểm cầu: Điểm cầu trung
tâm tại phòng xét xử Toà án nhân dân huyện C, tỉnh Lạng Sơn gồm: Hội đồng xét
xử, Kiểm sát viên, thư ký Tòa án; điểm cầu thành phần tại nhà tạm giữ Công an
huyện C, tỉnh Lạng Sơn gồm có: Bị cáo, Kiểm sát viên, Thư ký, cán bộ chiến sỹ
thuộc cơ sở giam giữ; đối với vụ án Hình sự sơ thẩm thụ lý số: 41/2024/TLST-
HS ngày 16 tháng 8 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:
40/2024/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 8 năm 2024 đối với bị cáo:
L, sinh ngày 27 tháng 7 năm 1985, tại huyện C, tỉnh Lạng Sơn; nơi đăng ký
thường trú và chỗ ở: khu H, thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: lao
động tự do; trình độ văn hóa: 2/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: không;
quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lâm Nhật T, con bà Nông Thị L; vợ, con: chưa có;
tiền án: không; tiền sự: không; nhân thân: chưa bị xét xử, đã bị xử phạt hành chính,
theo Quyết định số 147/QĐUB ngày 24/9/2011 bị Ủy ban nhân dân tỉnh L đưa
vào cơ sở giáo dục thời hạn 24 tháng, ngày 28/4/2023 bị Công an thị trấn Đ, huyện
C, tỉnh Lạng Sơn xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức cảnh cáo về hành vi
sử dụng trái phép chất ma túy (đã được xóa tiền sự); bị cáo bị tạm giữ, tạm giam
tại Nhà tạm giữ Công an huyện C từ ngày 16 tháng 6 năm 2024 đến nay; có mặt.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Lâm Nhật T, sinh
năm 1960; trú tại: Khu H, thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
2
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung
vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 10 giờ 50 phút ngày 16/6/2024, tại khu vực ngã 6 thuộc địa phận khu
G, thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn. Tổ công tác phòng chống ma túy Công an
huyện C, tỉnh Lạng Sơn phối hợp cùng Công an thị trấn Đ đang làm nhiệm vụ
phát hiện Lâm Quốc H có biểu hiện nghi vấn phạm tội về ma túy. Tổ công tác đã
tiến hành kiểm tra, phát hiện 01 (một) gói giấy bạc màu vàng, bên trong có 01
(một) gói giấy bạc màu trắng có chứa 01 (một) cục bột màu trắng nghi là ma túy
heroin được rơi ra từ lòng bàn tay trái của Lâm Quốc H xuống dưới lòng đường;
phát hiện trong túi quần đằng trước bên trái đang mặc của Lâm Quốc H 01 (một)
điện thoại màu xanh-đen, nhãn hiệu Intel, gắn sim, đã qua sử dụng và số tiền
250.000 đồng (hai trăm năm mươi nghìn đồng). Lâm Quốc H khai nhận cục bột
màu trắng trên là chất ma túy H1 do Lâm Quốc H mua để sử dụng cá nhân. Tổ
công tác tiến hành lập biên bản sự việc, khám nghiệm hiện trường, thu giữ và
niêm phong tang vật theo quy định.
Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C tiến hành kiểm tra
điện thoại di động, khám xét khẩn cấp nơi ở của Lâm Quốc H không phát hiện,
thu giữ được gì.
Kết luận giám định số 703/KL-KTHS ngày 18/6/2024 của Phòng K Công
an tỉnh L kết luận: Cục chất bột màu trắng có trong 01 (một) gói giấy bạc gửi giám
định là chất ma túy Heroin, có khối lượng 0,121 gam (đã trừ bì).
Tại Cơ quan điều tra, Lâm Quốc H khai nhận: Khoảng 08 giờ ngày
16/6/2024, do có nhu cầu sử dụng ma túy heroin. Lâm Quốc H một mình điều
khiển xe mô tô biển số 12K7-3478 từ nhà tại khu H, thị trấn Đ đến khu vực ngã
tư Làng T thuộc khu H, thị trấn Đ rồi đón xe ô tô chở khách xuống khu vực thị
trấn K, huyện L, tỉnh Bắc Giang để tìm mua ma túy. Đến nơi, do không biết chỗ
mua ma túy, Lâm Quốc H gặp một người đàn ông (không quen biết), đặt vấn đề
nhờ mua giúp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền ma túy H1, người đàn ông
đồng ý và nhận tiền từ Lâm Quốc H rồi rời đi khoảng 15 phút thì quay lại đưa cho
Lâm Quốc H 01 (một) gói giấy bạc màu trắng, bên trong chứa 01 (một) cục M.
Sau khi mua được ma túy, Lâm Quốc H dùng mẩu giấy bạc màu vàng lấy từ bao
thuốc lá bọc gói giấy bạc màu trắng chứa ma túy lại rồi cầm bên tay trái. Sau đó,
Lâm Quốc H đi ra đường đón xe ô tô chở khách về thị trấn Đ, đến khu vực ngã tư
Làng T thuộc khu H, thị trấn Đ, Lâm Quốc H xuống xe và điều khiển xe mô tô đã
để trước ở đó để đi về nhà, khi đi đến khu vực đường sắt giao nhau với đường bộ
thuộc khu G, thị trấn Đ thì bị Công an huyện C kiểm tra, do sợ bị phát hiện Lâm
Quốc H đã thả gói giấy chứa ma túy đang cầm ở tay trái xuống đường. Công an
huyện C tiến hành lập biên bản, niêm phong tang vật.
Đối với vật chứng thu giữ trong quá trình điều tra gồm: 01 (một) phong bì
niêm phong chứa 0,115gam ma túy heroin còn lại sau giám định; 01 (một) mảnh
giấy bạc và vỏ bao gói cũ; 01 (một) xe mô tô biển số 12K7-3478 nhãn hiệu
Yamaha Jupiter, màu đen bạc; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Itel, vỏ màu
xanh đen, đã qua sử dụng, lắp số thuê bao 0862.113.107; số tiền 250.000 đồng
(hai trăm năm mươi nghìn đồng); 01 (một) mảnh giấy bạc một mặt màu vàng, một
mặt màu trắng kích thước 5cm x 4,5cm; 01 (một) đôi dép màu trắng có chữ MIRA
3
đã qua sử dụng; 05 (năm) sợi tóc trong túi niêm phong số NS4A202263 có chữ
ký của các thành phần tham gia. Vật chứng được chuyển đến Chi cục Thi hành án
dân sự huyện C để xử lý theo quy định.
Cáo trạng số: 45/CT-VKS ngày 15 tháng 8 năm 2024 của Viện kiểm sát
nhân dân huyện C, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố: Bị cáo Lâm Quốc H về tội: Tàng trữ
trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa bị cáo Lâm Quốc H đã khai rõ toàn bộ hành vi vi phạm như
đã khai tại Cơ quan điều tra.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là ông Lâm Nhật T khẳng
định việc Lâm Quốc H tự ý lấy xe mô tô của ông đi mua ma túy ông hoàn toàn
không biết. Chiếc xe mô tô biển số 12K7-3478 nhãn hiệu Yamaha Jupiter, màu
đen bạc là tài sản của ông, ông Lâm Nhật T yêu cầu được trả lại tài sản.
Tại phiên tòa Kiểm sát viên giữ nguyên nội dung Bản cáo trạng truy tố đối
với bị cáo Lâm Quốc H và phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án, đồng
thời đánh giá tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, đánh giá về nhân thân, tình
tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử:
Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo Lâm Quốc H phạm tội Tàng trữ
trái phép chất ma túy. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều
51; các Điều 38, 50 Bộ luật Hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo Lâm Quốc H từ 01
năm 06 tháng đến 02 năm tù, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; các khoản
2, 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Đề nghị tịch thu, tiêu hủy số ma túy còn
lại sau giám định, các vỏ bao gói và 05 sợi tóc; trả lại cho Lâm Quốc H 01 điện
thoại di động nhãn hiệu Itel, vỏ màu xanh đen, đã qua sử dụng, có gắn sim, 01 đôi
dép và 250.000 đồng. Trả cho ông Lâm Nhật T 01 (một) xe mô tô biển số 12K7-
3478 nhãn hiệu Yamaha Jupiter, màu đen bạc.
Về án phí: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; buộc
bị cáo Lâm Quốc H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Phần tranh luận: Bị cáo; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có
ý kiến tranh luận.
Lời nói sau cùng bị cáo Lâm Quốc H xin Hội đồng xét xử cho hưởng khoan
hồng, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được
tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên
trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục
quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Không có người nào có ý kiến hoặc khiếu
nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết
định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
4
[2] Lời khai của bị cáo Lâm Quốc H tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại
Cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản sự việc và các tài liệu, chứng cứ khác có
trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà. Vì vậy, có đủ cơ sở để kết luận:
Hồi 10 giờ 50 phút ngày 16/6/2024 tại khu G, thị trấn Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn.
Công an huyện C phát hiện bắt giữ Lâm Quốc H có hành vi tàng trữ trái phép 01
(một) gói ma túy heroin có tổng khối lượng 0,121 gam (đã trừ bì), mục đích để sử
dụng.
[3] Về nguồn gốc số ma túy xác định theo lời khai của bị cáo Lâm Quốc
H. Ngày 16/6/2024 Lâm Quốc H đến khu vực thị trấn K, huyện L, tỉnh Bắc Giang,
mua ma túy với một người đàn ông không quen biết, mục đích mua về sử dụng.
Ngoài lời khai của bị cáo, không có tài liệu chứng cứ nào khác chứng minh nguồn
gốc số ma túy nên không có cơ sở để kết luận về nguồn gốc số ma túy và người
bán ma túy cho bị cáo.
[4] Bị cáo Lâm Quốc H là người có năng lực trách nhiệm hình sự. Do vậy
có đủ khả năng để nhận thức việc tàng trữ trái phép chất ma tuý là vi phạm pháp
luật, nhưng vì mục đích có ma tuý để sử dụng, bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi
tàng trữ trái phép chất ma tuý. Bị cáo Lâm Quốc H tàng trữ trái phép 0,121 gam
chất ma túy Heroin. Vậy đã có đủ các căn cứ để kết luận bị cáo Lâm Quốc H phạm
tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm
c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng số: 45/CT-VKSCL ngày 15 tháng
8 năm 2024 của Viện kiểm sát nhân nhân dân huyện C, tỉnh Lạng Sơn truy tố bị
cáo là đúng người, đúng tội và đúng quy định pháp luật.
[5] Hành vi phạm tội của bị cáo Lâm Quốc H là nguy hiểm cho xã hội, xâm
phạm đến những quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma tuý. Gây ảnh
hưởng xấu đến an ninh trật tự và an toàn xã hội tại địa phương. Chất ma tuý
Heroine mà bị cáo tàng trữ là một trong các chất gây nghiện được quy định trong
danh mục các chất ma tuý do Chính phủ ban hành. Các hành vi tàng trữ, mua bán
trái phép chất ma tuý bị pháp luật nghiêm cấm (Quy định tại Điều 5 Luật Phòng
chống ma tuý). Tệ nạn ma tuý là hiểm hoạ lớn cho toàn xã hội, là mầm mống phát
sinh các loại tội phạm khác, gây tác hại cho sức khoẻ, làm suy thoái nòi giống con
người, phá hoại hạnh phúc gia đình vv… Để góp phần đấu tranh phòng và chống
tội phạm, giữ vững an ninh trật tự, an toàn xã hội, phải xử lý nghiêm bằng pháp
luật hình sự đối với bị cáo nhằm trừng trị, răn đe, giáo dục bị cáo, đồng thời tăng
cường giáo dục và phòng ngừa chung đối với loại tội phạm này, thể hiện sự
nghiêm minh của pháp luật.
[6] Về nhân thân: bị cáo Lâm Quốc H chưa bị xét xử nhưng đã bị xử lý
hành chính là người sử dụng trái phép chất ma túy nên là người có nhân thân xấu.
Về tình tiết giảm nhẹ: bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi
của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51
Bộ luật hình sự. Về tình tiết tăng nặng bị cáo không có.
[7] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử thấy cần cách ly bị cáo Lâm
Quốc H khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có
ích cho xã hội, đồng thời nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung, thể hiện
sự nghiêm minh của pháp luật. Thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn
5
chấp hành hình phạt tù cho bị cáo theo quy định tại Điều 38 Bộ luật Hình sự.
Không áp dụng hình phạt bổ sung với bị cáo do bị cáo không có nghề nghiệp ổn
định và không có tài sản để đảm bảo thi hành án.
[8] Về xử lý vật chứng: Đối với phong bì niêm phong chứa số ma túy còn
lại sau giám định là vật Nhà nước cấm lưu hành, vỏ bao gói, 05 sợi tóc là vật
không còn giá trị sử dụng do vậy cần tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 điện thoại di
động nhãn hiệu Itel, vỏ màu xanh đen, có gắn sim; 01 đôi dép và số tiền 250.000
đồng là tài sản của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại
cho bị cáo Lâm Quốc H. Trả cho ông Lâm Nhật T 01 xe mô tô biển số 12K7-3478
nhãn hiệu Yamaha Jupiter, màu đen bạc vì chủ sở hữu không có lỗi trong việc để
bị cáo sử dụng vào việc phạm tội.
[9] Về án phí: Bị cáo Lâm Quốc H là người bị kết án nên phải chịu án phí
hình sự sơ thẩm.
[10] Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lâm Nhật T là chủ
sở hữu xe mô tô biển số 12K7-3478, xác định ông Lâm Nhật T không biết việc
Lâm Quốc H lấy xe đi mua ma túy nên không xem xét, xử lý là đúng quy định
của pháp luật, ông Lâm Nhật T có yêu cầu trả lại tài sản đã được xem xét trong
phần xử lý vật chứng.
[11] Kiểm sát viên tại phiên tòa đề nghị về tội danh, hình phạt, về xử lý vật chứng,
án phí đối với bị cáo Lâm Quốc H là có căn cứ.
[12] Về quyền kháng cáo: bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có
quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình
sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều
47; các Điều 38, 50 của Bộ luật Hình sự;
Căn cứ vào các điểm a, c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106, khoản 2 Điều
136, Điều 260, Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lâm Quốc H phạm tội Tàng trữ trái phép
chất ma túy.
2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lâm Quốc H 02 (hai) năm tù, thời hạn chấp
hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam ngày 16/6/2024.
3. Về xử lý vật chứng:
3.1 Tịch thu, tiêu hủy:
- 01 (một) phong bì ghi chữ “Mẫu vật Lâm Quốc H”,có chữ ký cùng tên
của giám định viên Hoàng Mạnh H2, trợ lý giám định, người đại diện cơ quan
6
trưng cầu và các hình dấu của Phòng K tại phần giáp lai mới. Bên trong có: 01
(một) gói giấy đựng 0,115 gam Heroin (phần hao hụt do dùng làm mẫu giám định
hết) cùng 01 (một) mảnh giấy bạc và túi niêm phong (cũ).
- 01 (một) tờ giấy bạc một mặt màu vàng, một mặt màu trắng không rõ hình
dạng, kích thước 5cm x 4,5cm được niêm phong trong túi niêm phong mã số
NS4A 202270 có chữ ký của các thành phần tham gia.
- 05 (năm) sợi tóc của Lâm Quốc H – sinh năm 1985, trú tại khu H, thị trấn
Đ, huyện C, tỉnh Lạng Sơn được niêm phong trong túi niêm phong mã số
NS4A202263 có chữ ký của các thành phần tham gia
3.2 Trả lại tài sản:
- Trả lại cho Lâm Quốc H:
01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Itel, vỏ màu xanh đen, số Imei1:
35486119395521, số Imei2: 354865119395539, đã qua sử dụng, lắp số thuê bao
0862.113.107;
01 (một) đôi dép màu trắng có chữ MIRA đã qua sử dụng trong túi niêm
phong số NS1A073332 có chữ ký của các thành phần tham gia;
Số tiền 250.000 đồng (hai trăm năm mươi nghìn đồng); theo Ủy nhiệm chi
số 08 ngày 16 tháng 8 năm 2024, giữa Công an huyện C với Chi cục Thi hành án
dân sự huyện C, tại Kho bạc Nhà nước huyện C.
- Trả cho ông Lâm Nhật T 01 (một) xe mô tô biển số 12K7-3478 nhãn hiệu
Yamaha Jupiter, màu đen bạc, xe cũ đã qua sử dụng.
(Vật chứng hiện đang lưu giữ, bảo quản tại Chi cục Thi hành án dân sự
huyện C, tỉnh Lạng Sơn theo biên bản giao, nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng giữa
Công an huyện C và Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Lạng Sơn ngày 16
tháng 8 năm 2024).
4. Về án phí: Bị cáo Lâm Quốc H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000
đồng (hai trăm nghìn đồng) nộp vào ngân sách Nhà nước.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, gười có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến
vụ án, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ
thẩm./.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn;
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn;
- Sở Tư pháp tỉnh Lạng Sơn;
- Viện kiểm sát nhân dân huyện C;
- Cơ quan điều tra Công an huyện C;
- Cơ quan THA hình sự Công an huyện C;
- Nhà tạm giữ Công an huyện C;
- Chi cục Thi hành án dân sự huyện C;
- Bị cáo;
- Thi hành án hình sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(ĐÃ KÝ)
Hoàng Thế Khuynh
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 07/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 07/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Bản án số 144/2025/DS-PT ngày 06/03/2025 của TAND cấp cao tại TP.HCM về tranh chấp quyền sử dụng đất
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 05/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 05/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 04/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 03/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 03/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm