Bản án số 37/2021/HNGĐ-ST ngày 27/08/2021 của TAND huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ về hôn nhân và gia đình

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 37/2021/HNGĐ-ST

Tên Bản án: Bản án số 37/2021/HNGĐ-ST ngày 27/08/2021 của TAND huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ về hôn nhân và gia đình
Quan hệ pháp luật: Yêu cầu liên quan đến việc mang thai hộ theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Thanh Ba (TAND tỉnh Phú Thọ)
Số hiệu: 37/2021/HNGĐ-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 27/08/2021
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Bản án giữa chị Trần Thị T và anh Lê Văn T
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆNTHANH BA
TỈNH PHÚ THỌ
================================================================
Bản án số: 37/2021/HN-ST
Ngày 27 tháng 8 năm 2021
V/v:“Hôn nhân và gia đình”.
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
=======================================================================================
NHÂN DANH
ỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH BA, TỈNH PHÚ THỌ
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Quang Vũ
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Nguyễn Anh Chung và ông Nguyễn Văn Thìn
- Thư phiên tòa: Ông Trần Đình Hòa - Thư Tòa án nhân dân huyện Thanh
Ba, tỉnh Phú Thọ.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Ba tham gia phiên toà:
Nguyễn Phương Linh - Kiểm sát viên.
Ngày 27 tháng 8 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Ba, tỉnh Phú
Thọ xét xử thẩm công khai vụ án thụ lý số: 47/2021/TLST-HNGĐ, ngày 19 tháng
3 năm 2021
về việc “Tranh chấp về hôn nhân gia đình” theo Quyết định đưa vụ
án ra xét xử số: 52/2021/QĐXX-ST ngày 12 tháng 7 năm 2021 Thông báo mở lại
phiên tòa số 58/2021/TB-TA ngày 10 tháng 8 năm 2021 giữa các đương sự;
Nguyên đơn: Chị Trần ThT; sinh năm 1984
Nơi cư trú: Khu Đ, xã Đ, huyện T, tỉnh Phú Thọ
Bị đơn: Anh Lê Văn T; sinh năm 1979
Nơi cư trú: Khu Đ, xã Đ, huyện T, tỉnh Phú Thọ
Anh T vắng mặt, chT có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Chị Trần Thị T vắng mặt nhưng đơn đề nghị xét xử vắng mặt, theo đơn khởi
kiện các lời khai trong quá trình tố tụng tại Tòa án, chị T trình bày về nội dung
yêu cầu khởi kiện của mình như sau:
Chị và anh Lê Văn T tự nguyện kết hôn với nhau ngày 29/11/2002, có đăng ký kết
hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện T, tỉnh Phú Thọ. Sau khi kết hôn vợ chồng sống
chung cùng gia đình anh T tại khu 3, xã Đ, huyện T. Vợ chồng chung sống hòa thuận
cho đến khoảng năm 2011 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do điều kiện kinh
tế khó khăn nên vchồng phải đi làm ăn xa từ đó anh T quan hệ tình cảm với
người khác, không quan tâm đến còn về nhà đánh đuổi chị vậy chđã phải bỏ
nhà anh T để đi làm ăn xa rồi sau đó về ở nbố mẹ đtừ năm 2011, vợ chồng sống
ly thân từ đó cho đến nay không còn quan tâm gì đến nhau nữa. Nay chxác định hôn
nhân không hạnh phúc, vchồng chị cũng không còn tình cảm trách nhiệm với
nhau vì vậy chị yêu cầu được ly hôn anh Lê Văn T.
- Về con chung: Chị anh Văn T với nhau 02 con chung Văn Kh;
sinh ngày 02/6/2003 Thị Hồng Nh; sinh ngày 03/9/2005. Đối với cháu Văn
Kh đến nay đã trưởng thành đi làm nên chị không yêu cầu gì. Còn cháu Thị
Hồng Nh từ trước đến nay vẫn với bố anh T ông nội vậy khi ly hôn chị
đồng ý để cho anh T tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng cháu Nh theo đúng nguyện vọng
của cháu Nh. Còn về cấp dưỡng nuôi con khi nào anh T yêu cầu chị sẽ thực hiện theo
quy định của pháp luật.
- Về tài sản chung chị T không yêu cầu giải quyết.
- Về vay nợ chung và công sức đóng góp cho gia đình anh T, chị T xác nhận
không có nên không yêu cầu.
* Về phía bị đơn anh Văn T đã được Tòa án triệu tập, thông báo hợp lệ
nhiều lần nhưng trong quá trình giải quyết vụ án vẫn vắng mặt mà không có lý do.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và
ý kiến quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Ba, Hội đồng xét
xử nhận định:
[1]. Trong quá trình giải quyết vụ án, mặc dù đã được Tòa án triệu tập, thông báo
hợp lệ nhiều lần nhưng bị đơn anh Lê Văn T vẫn vắng mặt mà không có do, còn
nguyên đơn chị Trần Thị T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên Tòa án quyết định
xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1
Điểu 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị T anh Văn T kết hôn với nhau trên
sở tnguyện, không vi phạm điều cấm của pháp luật được quan Nhà nước
thẩm quyền đăng ký kết hôn do vậy hôn nhân hợp pháp. Tuy nhiên trong thời
gian chung sống, do hoàn cảnh kinh tế khó khăn, vợ chồng lại không sự tin tưởng
vào tình cảm của nhau là nguyên nhân chính làm phát sinh mâu thuẫn bất đồng, cả hai
bên cũng không thực sự thiện chí hoặc biện pháp tích cực nào để cùng nhau
khắc phục làm cho mâu thuẫn không giải quyết được dẫn đến vợ chồng sống ly thân
từ nhiều năm nay, không còn quan tâm chăm sóc nhau, không còn sống chung để
cùng nhau chia sthực hiện các công việc trong gia đình, việc anh T chị T đã
nhiều năm không còn sống chung đã được chính quyền địa phương ông Văn H
là bố đanh T xác nhận. Như vậy, căn cứ để khẳng định; chị T, anh T đã không
còn thực hiện nghĩa vụ của vợ, chồng trên thực tế thì hôn nhân cũng đã không còn
tồn tại từ nhiều năm, nếu cứ tiếp tục ràng buộc sẽ làm cho hôn nhân không ý
nghĩa, mục đích của hôn nhân không đạt được do vậy yêu cầu ly hôn của chị T
căn cứ, phù hợp với khoản 1Điều 51 khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình
nên được chấp nhận.
3
[3]. Về nuôi con chung sau ly hôn: Chị Trần Thị T anh Văn T với nhau
02 con chung Văn Kh; sinh ngày 02/6/2003 Thị Hồng Nh; sinh ngày
03/9/2005. Đối với cháu Văn Kh đến nay đã trưởng thành đi làm, chị T không
yêu cầu vậy Hội đồng xét xử không giao người chăm sóc nuôi dưỡng. Còn với
cháu Thị Hồng Nh vẫn chưa thành niên, từ trước đến nay vẫn với anh T ông
nội (là bố mẹ đẻ anh T), đang có cuộc sống học tập ổn định, cháu Nh và gia
đình anh T có nguyện vọng để cho cháu Nhung được tiếp tục ở với bố cùng ông bà
nội, về phía chị T cũng đồng ý với nguyện vọng của cháu Nh, vì vậy để đảm bảo cho
cuộc sống của cháu Nh được tiếp tục ổn định nên sau khi ly hôn, giao cháu Nh cho
anh T tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng là phù hợp với hoàn cảnh thực tế và quy định của
pháp luật.
Về cấp dưỡng nuôi con: Do anh T vắng mặt, không có quan điểm về cấp dưỡng vì
vậy trong vụ án này không giải quyết về cấp dưỡng nuôi con chung.
[4]. Về tài sản chung, vay nợ chung và các vấn đề khác: Mặc dù chị T trình bày
không nhưng do anh T vắng mặt nên không căn cứ để giải quyết trong vụ án
này mà sẽ được giải quyết bằng vụ, việc dân sự khác khi có yêu cầu.
[5] Về án phí: Nguyên đơn chị Trần Thị T phải nộp tiền án phí ly hôn thẩm
theo quy định của pháp luật.
[6]. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Thanh
Ba đã phát biểu quan điểm, xác định trong quá trình giải quyết xét xử vụ án, Tòa án
đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự đề nghị Hội đồng xét
xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn giao con chung cho anh T được tiếp
tục chăm sóc nuôi dưỡng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82 và Điều
83 Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1
Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vQuốc hội quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
- Xử: Cho chị Trần Thị T được ly hôn anh Lê Văn T.
- Về nuôi con chung sau ly hôn: Giao cho anh Lê Văn T được quyền tiếp tục chăm
sóc, nuôi dưỡng con chung Thị Hồng Nh; sinh ngày 03/9/2005 (hiện nay cháu
Nh đang với anh T bố mẹ đanh T tại khu Đ, Đ, huyện T). Chị Trần Thị T
không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con
chung mà không ai được cản trở.
- Về tài sản chung, vay nợ chung và các vấn đề khác không giải quyết trong vụ án
này mà sẽ được giải quyết bằng vụ, việc dân sự khác khi có yêu cầu.
- Về án phí: Chị Trần Thị T phải nộp 300.000.đ (ba trăm nghìn đồng) án ply
hôn thẩm. Xác nhận chị T đã nộp 300.000.đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án
phí theo “Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án” số AA/2020/0001683 ngày
19/3/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Ba.
Các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án thẩm trong thời hạn
mười m ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy
định của Bộ luật Tố tụng dân sự./.
Nơi nhận:
- VKSND huyn, tnh;
- UBND Đ, h. T;
- C¸c ®-¬ng sù;
- Chi côc Thi hµnh ¸n d©n sù;
- L-u hå s¬, ¸n v¨n
T/M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà
Nguyễn Quang Vũ
5
Tải về
Bản án số 37/2021/HNGĐ-ST Bản án số 37/2021/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất