Bản án số 361/2024/DS-PT ngày 25/12/2024 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 361/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 361/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 361/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 361/2024/DS-PT ngày 25/12/2024 của TAND tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Đắk Lắk |
Số hiệu: | 361/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 25/12/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Bản án số |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐẮK LẮK
Bản án số: 361/2024/DS-PT
Ngày 25/12/2024
V/v: Tranh chấp hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
-
Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có
:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Lê Thị Thanh Huyền
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Văn Hồng và ông Nguyễn Ngọc Sâm
- Thư ký phiên tòa
:
Bà Phan Thị Linh Chi - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Đắk
Lắk.
-
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa:
Ông
Ngụ Văn Minh - Kiểm sát viên.
Ngày 25 tháng 12 năm 2024 tại trụ sở TAND tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm
công khai vụ án dân sự thụ lý số 316/2024/TLPT-DS ngày 30/10/2024 về việc
“Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”. Do bản án dân sự sơ
thẩm số 65/2024/DS-ST ngày 27/8/2024 của Tòa án nhân dân huyện Cư M’gar bị
kháng cáo, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 391/2024/QĐ-PT ngày
02 tháng 12 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Lê H; địa chỉ: Thôn T, xã Q, huyện C, tỉnh Đắk Lắk, có
mặt
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trịnh Công S; địa chỉ: 39C đường Y,
phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, có mặt
- Bị đơn: Ông Võ Duy L; địa chỉ: Số 126 thôn T, xã Q, huyện C, tỉnh Đắk Lắk,
có mặt
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Trần Thị C; địa chỉ: 03 L, phường T, thành
phố B, tỉnh Đắk Lắk, vắng mặt
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
+ Văn phòng Công chứng Đ
2
2
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Minh M; địa chỉ: 38N , thành phố
B, tỉnh Đắk Lắk.
+ Bà Lý Thị H1; địa chỉ: Số 258/12 N, xã H, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
+ Bà Võ Thị D; địa chỉ: Thôn 18A, xã E, huyện B, tỉnh Đắk Lắk.
(Đều vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Quá trình giải quyết vụ án người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn
trình bày:
Xuất phát từ việc vay mượn tiền mà ngày 01/11/2019 tại Văn phòng công chứng
Đ vợ chồng ông Lê H, bà Lý Thị H1 đã ký hợp đồng chuyển nhượng thửa đất số 61,
tờ bản đồ số 09, diện tích 6.600m
2
tại xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk cho ông Võ Duy
L.
Tuy nhiên việc chuyển nhượng này là giả tạo bởi vợ chồng ông H không mong
muốn chuyển nhượng thửa đất trên cho ông L, mục đích ký hợp đồng là tạo niềm tin
đối với giấy vay tiền đề ngày 21/3/2019, thực chất giữa các bên không có giao dịch
chuyến nhượng quyền sử dụng đất bởi phía sau thửa đất số 61 của vợ chồng ông H,
bà H1 còn 02 thửa đất khác không có lối đi. Các bên ký hợp đồng chuyến nhượng
nhằm che đậy cho hợp đồng vay tiền nên từ năm 2019 đến nay phía ông L vẫn chưa
làm thủ tục đăng ký biến động đất đai với cơ quan có thẩm quyền. Nay ông H khởi
kiện đề nghị Tòa án tuyên hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ
chồng ông Lê H, bà Lý Thị H1 với ông Võ Duy L.
Sau khi hủy hợp đồng chuyển
nhượng thì ông H sẽ sắp xếp tiền để trả nợ cho ông L tương ứng với số tiền vay.
- Quá trình giải quyết vụ án bị đơn, người đại diện theo ủy quyền của bị đơn
ông Võ Duy L, bà Nguyễn Thị C trình bày:
Vào ngày 01/11/2019, tại Văn phòng công chứng Đ, ông L và vợ chồng ông Lê
H, bà Lý Thị H1 hai bên đã thống nhất thỏa thuận việc chuyến nhượng quyền sử
dụng đất đối với thửa đất số 61, tờ bản đồ số 09 theo Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số BR559750 do Ủy ban nhân dân huyện C cấp ngày 27/11/2013 với giá
chuyển nhượng 345.000.000 đồng, thanh toán bằng tiền mặt sau khi ký hợp đồng
xong, ông L giao tiền mặt cho ông H, đã đăng ký biến động thửa đất sang tên ông L,
các khoản phí, thuế đều do ông L chịu.
Việc ký kết hợp đồng hoàn toàn tự nguyện không lừa dối, không ép buộc, ông
L đã nhận bàn giao đất để chăm sóc và trồng cây mới trên đất, không tranh chấp với
ai. Sau đó, ông L đã chuyển nhượng thửa đất trên cho bà Võ Thị D. Do đó, ông L
không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của ông Lê H. Trong trường hợp Tòa án giải
quyết hủy hợp đồng thì đề nghị Tòa án giải quyết hậu quả của họp đồng vô hiệu.
3
3
- Quá trình giải quyết vụ án người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Lý
Thị H1 trình bày:
Tôi và ông Lê H đã ly hôn với nhau năm 2019.
T
rước năm 2019, tôi cùng ông
H có đến phòng công chứng đế làm thủ tục sang nhượng quyền sử dụng đất cho ông
L. Ông H thỏa thuận với ông L chỉ sang nhượng trên giấy tờ pháp lý sau này nếu
ông H được ngân hàng đồng ý cho vay tiếp thì sẽ trả lại cho ông L số tiền vay để đáo
hạn ngân hàng.
Đối với yêu cầu khởi kiện của ông H đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định
pháp luật.
-
Quá trình giải quyết vụ án người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Võ
Thị D trình bày:
Tôi và ông Võ Duy L không có quan hệ họ hàng mà chỉ là người quen biết.
Ngày 21/9/2023 ông L có chuyển nhượng cho tôi thửa đất số 61, tờ bản đồ số 9, diện
tích 6.600m
2
tại xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk với số tiền 210.000.000 đồng, tôi đã
giao tiền đầy đủ và làm hợp đồng chuyển nhượng tại Văn phòng công chứng, sau đó
được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai điều chỉnh biến động vào ngày 28/9/2023
mang tên Võ Thị D. Hiện nay vợ chồng ông L đã bàn giao thửa đất cho tôi canh tác
và quản lý sử dụng.
Nay ông Lê H khởi kiện thì tôi không đồng ý vì tôi đã nhận chuyển nhượng
hợp pháp từ ông L và sử dụng không có tranh chấp, nếu trường hợp hủy bỏ hợp đồng
thì tôi yêu cầu ông L phải bồi thường cho tôi giá trị đất và cây trồng trên đất
-
Quá trình giải quyết vụ án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Văn
phòng công chứng Đ trình bày:
Ngày 01/11/2019 ông Lê H đã đến Văn phòng công chứng Đ yêu cầu công
chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 61, tờ bản đồ
số 09, diện tích 6.600m
2
, địa chỉ thửa đất: xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk theo Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số
BR559750 do UBND huyện C cấp ngày 27/11/2013.
Căn cứ vào các giấy tờ của các
bên cung cấp, cùng với việc kiểm tra thông tin về việc ngăn chặn trên mạng nội bộ
của Văn phòng, Văn phòng công chứng Đ nhận thấy hồ sơ yêu cầu công chứng Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nói trên của các bên hoàn toàn đầy đủ, phù
hợp với quy định của pháp luật, các bên đã tự nguyện thỏa thuận giao kết hợp đồng,
nội dung thỏa thuận không vi phạm pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Tại thời
điểm công chứng các bên giao kết hợp đồng có năng lực hành vi dân sự theo quy
định của pháp luật; các bên đồng ý toàn bộ nội dung của hợp đồng và thống nhất
đồng ý, ký tên điểm chỉ vào hợp đồng trước mặt công chứng viên.
Như vậy, tất cả
quy trình tiếp nhận, kiểm tra và giải quyết hồ sơ công chứng hợp đồng chuyển
4
4
nhượng quyền sử dụng đất, số công chứng 12656, quyển số 11 TP/CC-SCC/HĐGD
ngày 01/11/2019 nói trên đều được Văn phòng công chứng Đ thực hiện đầy đủ và
đúng quy định của pháp luật, các bên giao dịch không có thắc mắc, khiếu nại gì về
việc công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Đối với yêu cầu tuyên hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của
ông H thì Văn phòng đề nghị Tòa án căn cứ vào chứng cứ tài liệu thu thập có trong
hồ sơ để giải quyết theo quy định pháp luật
Bản án dân sự sơ thẩm số 65/2024/DS-ST ngày 27/8/2024
của Tòa án nhân
dân huyện Cư M’gar đã quyết định:
Căn cứ khoản 9 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39;
Điều 147; Điều 165; Điều 220; Điều 266; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân
sự.
Áp dụng Điều 117; Điều 119; Điều 122; Điều 124; Điều 500; Điều 501; Điều
502; Điều 503 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 167; Điều 188 Luật đất đai; khoản 1,
khoản 3 Điều 26 Nghị quyết số 326/NQ-UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng
án phí và lệ phí Toà án.
Tuyên xử:
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lê H về
việc yêu cầu tuyên hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được giao kết
vào ngày 01/11/2019 giữa ông Lê H, bà Lý Thị H1 và ông Võ Duy L đối với thửa
đất số 61, tờ bản đồ số 09, tại xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí và quyền kháng
cáo.
Ngày 23/9/2024, nguyên đơn ông Lê H kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, đề
nghị Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn vẫn giữ nguyên nội dung đơn khởi kiện
và đơn kháng cáo, các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết
vụ án.
* Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk:
Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và các đương sự đã
thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đề nghị HĐXX căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự
- Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Lê H. Giữ nguyên Bản án dân sự
5
5
sơ thẩm số 65/2024/DS-ST ngày 27/8/2024 của Tòa án nhân dân huyện Cư M’gar,
tỉnh Đắk Lắk.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu thu thập được có trong hồ sơ vụ án, được
thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem
xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên và các đương sự.
Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về tố tụng: Đơn kháng cáo của nguyên đơn được nộp trong thời hạn luật
định và nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm nên hợp lệ, Tòa án cấp phúc thẩm xem
xét giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
[2]. Xét yêu cầu khởi kiện và nội dung kháng cáo của nguyên đơn, thấy rằng:
Về nguồn gốc thửa đất số 61, tờ bản đồ số 09, diện tích 6.600m
2
tại xã E, huyện
C, tỉnh Đắk Lắk được UBND huyện C cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
BR 559750 ngày 27/11/2023 cho ông Lê H. Ngày 01/11/2019 vợ chồng ông Lê H,
bà Lý Thị H1 lập Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất trên cho ông
Võ Duy L, được Văn phòng công chứng Đ công chứng, chứng thực; được Chi nhánh
văn phòng đăng ký đất đai huyện C đăng ký biến động sang tên cho ông L ngày
12/11/2019. Như vậy, đất có nguồn gốc rõ ràng, được các bên đương sự thừa nhận.
Về quá trình quản lý, sử dụng đất: Sau khi nhận chuyển nhượng, năm 2020 ông
H đã bàn giao đất và tài sản trên đất cho ông L quản lý, sử dụng đến ngày 28/9/2023
ông L chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên cho bà Võ Thị D, sau đó bà D đã nhận
đất quản lý, sử dụng tiếp tục cho đến nay.
Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lê H cho rằng Hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất ngày 01/11/2019 giữa vợ chồng ông H, bà H1 và ông L
là hợp đồng giả tạo, việc chuyển nhượng là để làm tin cho khoản nợ theo giấy vay
tiền ngày 21/3/2019 giữa ông H và ông L, thấy rằng: Nguyên đơn không cung cấp
được tài liệu chứng cứ để chứng minh giao dịch chuyển nhượng là giả tạo nhằm che
dấu hợp đồng vay giữa các bên, không cung cấp được hợp đồng vay hay thỏa thuận
giữa các bên, không được bị đơn thừa nhận. Mặt khác, theo nội dung Bản án số
68/2021/DS-ST ngày 15/10/2021 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Đắk Lắk nhận
định: “
Ngày 21/3/2019 ông Lê H có vay của ông Võ Duy L số tiền 460.000.000 đồng,
hẹn đến ngày 30/3/2019 trả đủ tiền gốc, đến hạn trả nợ ông H không có tiền trả cho
ông L nên ngày 01/11/2019 ông H, bà H1 đã ký hợp đồng chuyến nhượng quyền sử
dụng thửa đất số 61, tờ bản đồ số 09, diện tích 6.600m
2
tại xã E cho ông L với giá
thỏa thuận là 345.000.000 đồng để trừ vào khoản nợ 460.000.000 đồng, ông H còn
nợ lại ông L số tiền 115.000.000 đồng, ông H tiếp tục vay của ông L 85.000.000
6
6
đồng và số nợ tổng là 200.000.000 đồng, ông H và ông L thống nhất hủy giấy vay
ngày 21/3/2019 và viết lại 02 Hợp đồng đồng vay vốn khác…”. Bản án đã giải quyết
buộc ông H phải trả cho ông L số tiền nợ gốc và lãi là 227.691.333 đồng, buộc ông
L phải trả lại cho ông H 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BR608869,
BV541543; Bản án trên đã có hiệu lực pháp luật. Như vậy, có căn cứ xác định việc
ông H, bà H1 chuyển nhượng cho ông L thửa đất số 61, tờ bản đồ số 09, diện tích
6.600m
2
tại xã E, huyện C là có thật, mục đích các bên xác lập hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất là để khấu trừ khoản nợ 345.000.000 đồng theo giấy vay
tiền ngày 21/3/2019, phù hợp với giá chuyển nhượng được các bên thỏa thuận tại
Điều 2 của Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 01/11/2019, hợp đồng
đã được công chức chứng thực theo quy định của pháp luật theo quy định tại Điều
119 của Bộ luật dân sự năm 2015. Xét thấy,
tại thời điểm chuyển nhượng các bên
đều là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, việc giao kết hợp đồng là hoàn toàn
tự nguyện; mục đích và nội dung của Hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp
luật, không trái đạo đức xã hội, không thuộc các trường hợp hủy hợp đồng theo quy
định tại các Điều 423, 424, 425, 426 của Bộ luật dân sự năm 2015 nên có hiệu lực
pháp luật. Hợp đồng chuyển nhượng không phải giả tạo để che dấu cho hợp đồng
vay tài sản, mà hình thức thanh toán của hợp đồng chuyển nhượng là để khấu trừ
một phần nghĩa vụ từ hợp đồng vay. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm bác yêu cầu khởi
kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu tuyên hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất ngày 01/11/2019 giữa ông H, bà H1 và ông L đối với thửa đất số 61, tờ bản
đồ số 09, diện tích 6.600m
2
tại xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk là có căn cứ.
Ông H cho rằng các bên chưa đăng ký biến động sang tên Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất sang cho ông L là không phù hợp, hồ sơ địa chính do cơ quan có
thẩm quyền cung cấp thể hiện thửa đất tranh chấp đã được đăng ký biến động sang
tên cho ông Võ Duy L vào ngày 12/11/2019. Ngoài ra, ông H cho rằng lý do hủy
hợp đồng vì ông H còn có các thửa đất khác nằm phía sau thửa đất đã chuyển nhượng
cho ông L không có đường đi vào, xét thấy, đây không phải là căn cứ để hủy hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các bên ông H có quyền khởi kiện yêu
cầu mở lối đi qua bất động sản liền kề trong vụ án dân sự khác.
Tại cấp phúc thẩm ông H không cung cấp được tài liệu, chứng cứ mới làm thay
đổi nôi dung vụ án. Do đó, xét thấy không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của
nguyên đơn ông Lê H, cần giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 65/2024/DS-ST
ngày 27/8/2024 của Tòa án nhân dân huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk.
[3]. Về án phí: Do không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn nên nguyên đơn
ông Lê H phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
7
7
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự;
[1]. Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Lê H. Giữ nguyên Bản
án dân sự sơ thẩm số 65/2024/DS-ST ngày 27/8/2024 của Tòa án nhân dân huyện
Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk.
Tuyên xử:
Bác
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lê H về việc yêu cầu
tuyên Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được giao kết vào ngày
01/11/2019 giữa ông Lê H, bà Lý Thị H1 và ông Võ Duy L đối với thửa đất số 61,
tờ bản đồ số 09, tại xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk.
[2]. Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Lê H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn
đồng) tiền án phí dân sự phúc thẩm. Được khấu trừ 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng)
tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số AA/2023/0007930 ngày 01/10/2024
do ông Lê H nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện C.
[3]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị,
đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
-
TAND Cấp cao tại Đà Nẵng;
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- TAND huyện Cư M’gar;
- Chi cục THADS huyện C;
- Các đương sự;
- Lưu.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Lê Thị Thanh Huyền
8
8
Tải về
Bản án số 361/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 361/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 20/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 13/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 12/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 08/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 06/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 02/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 02/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 31/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 31/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 27/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 23/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm