Bản án số 353/2024/DS-PT ngày 13/08/2024 của TAND tỉnh Long An về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 353/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 353/2024/DS-PT ngày 13/08/2024 của TAND tỉnh Long An về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Long An
Số hiệu: 353/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 13/08/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Không chấp nhận kháng cáo của ông Võ Văn H và bà Huỳnh Thị T1; Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LONG AN
¯¯¯¯¯¯¯¯¯
Bản án số: 353/2024/DS-PT
Ngày: 13-8-2024
V/v tranh chấp quyền sử dụng đất, hủy
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán Chủ tọa phiên tòa: Bà Trịnh Thị Phúc
Các Thẩm phán: Ông Trần Trọng Nhân
Bà Nguyễn Thị M Hạnh
- Thư phiên tòa: bà Phạm Thùy Dương - Thư Tòa án nhân dân tỉnh Long
An.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An tham gia phiên tòa: Đặng
Thị Cẩm Chi- Kiểm sát viên.
Trong ngày 13 tháng 8 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử
phúc thẩm ng khai ván thụ số: 279/2024/TLPT-DS ngày 08 tháng 7 năm 2024,
về tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Do Bản án dân sự thẩm số: 26/2024/DS-ST ngày 02 tháng 5 năm 2024 của
Tòa án nhân dân huyện Tân Thạnh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 302/2024/QĐ-PT ngày 16
tháng 7 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn:
1. Ông Trần Văn T, sinh năm 1968;
2. Bà Võ Thị C, sinh năm 1971;
Cùng địa chỉ: ấp T, xã N, huyện T, tỉnh Long An. (có mặt).
- Bị đơn:
1. Ông Võ Văn H, sinh năm 1950;
2. Bà Huỳnh Thị T1, sinh năm 1957;
Cùng địa chỉ: số A, ấp T, xã N, huyện T, tỉnh Long An.
Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông Văn H: Huỳnh Thị T1, sinh
năm 1957. Địa chỉ: ấp T, N, huyện T, tỉnh Long An (Giấy y quyền ngày
2
01/8/2024) (có mặt).
Người đại diện theo ủy quyền của Huỳnh Thị T1: ông Phúc A, sinh năm
1991; Địa chỉ hiện nay: số F H, phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương (hợp đồng
ủy quyền ngày 10/8/2024) (có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Ủy ban nhân dân huyện T; Địa chỉ: khu phA, thị trấn T, huyện T, tỉnh Long
An.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của UBND huyện T: Ông Nguyễn Thanh
T2- Trưởng Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện T (có đơn xin xét xử vắng mặt).
Người kháng cáo: bị đơn ông Võ Văn H, bà Huỳnh Thị T1
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện lời khai của ông Trần Văn T Thị C thống nhất
trình bày: Vợ chồng ông có sang nhượng của ông Thanh N 06 công đất thửa 551 tờ
bản đồ số 5, đất tọa lạc ấp T, xã N, huyện T, tỉnh Long An. Khi sang nhượng không
đo thực tế, sau đó vợ chồng ông sử dụng đến năm 2013 ông N chết, đến năm 2016 con
gái ông N là bà Thị Kiều O m thủ tục chuyển nhượng quyền sử đất thửa 549, 550
diện tích 1.603m
2
, theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (viết tắt giấy CNQSD đất),
lúc làm thủ tục chuyển nhượng đất ông H chỉ ranh đến gốc cây dừa 01 i ao
(đìa) nước sẵn. Sau đó cắm ranh thuê người đào thì ông H không cho, việc
này được xã N hòa giải không thành.
Nay yêu cầu ông Võ Văn H, Huỳnh ThT1 trả lại 01 phần thửa 549, diện tích
87m
2
, 01 phần thửa 550, diện tích 64m
2
01 phần thửa 551, diện tích 105m
2
tờ bản
đồ số 5, đất tọa lạc ấp T, xã N, huyện T, tỉnh Long An.
Bị đơn ông Văn H Huỳnh Thị T1, đồng thời người đại diện theo ủy
quyền của ông Văn H Huỳnh Thị T1 trình bày: Nguồn gốc đất của cha mẹ
ông H khai khẩn để lại, nên vợ chồng đã sinh sống trên phần đất này. Sau khi cha
mẹ chồng chết bà sử dụng phần đất để nuôi các em trong đó ông Võ Thanh N.
Năm 1985 vợ chồng bà cho ông N 6.000m
2
đất ruộng để làm, còn đất thổ anh
em gặp khó khăn thì cho cất nhà ở không được bán, vợ chồng ông N đồng ý. Đến năm
2007 vợ chồng N xin bán đất ruộng 6.000m
2
anh em đồng ý, còn đất thổ ông N
sang bán anh em không đồng ý, đến năm 2014 làm đơn gửi UBND khiếu nại đất
tranh chấp với gia đình ông N, đến năm 2016 vợ chồng C, ông T qua bộ diện tích
7.603m
2
vợ chồng bà không biết.
Đến năm 2016 vàm 2017 gửi đơn UBND xã N nhận nhưng không xử lý và
giải quyết. Còn 01 cái ao do chồng cha chồng đào năm 1976 sử dụng
đến nay.
Đối với yêu cầu khởi kiện của ông T, C tkhông đồng ý vợ chồng
yêu cầu phản tố như sau: Yêu cầu hủy 01 phần giấy CNQSD đất đối với các thửa
gồm: 01 phần thửa 549 diện tích 87m
2
, 01 phần thửa 550 diện tích 64m
2
01 phần
thửa 551 diện tích 105m
2
, tbản đồ số 5, đất tọa lạc ấp T, N, huyện T, tỉnh Long
An, do ông Trần Văn T và bà Võ Thị C đứng tên giấy CNQSD đất; Yêu cầu công nhận
01 phần thửa 549 diện tích 87m
2
, 01 phần thửa 550 diện tích 64m
2
01 phần thửa
551 diện tích 105m
2
tờ bản đồ số 5, đất tọa lạc ấp T, N, huyện T, tỉnh Long An cho
3
bà và ông H.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Tại văn bản số 613/UBND-NC ngày
01/3/2024 y ban nhân dân huyện T có ý kiến:
Theo hồ Chi nhánh văn phòng Đ tại huyện T (viết tắt Chi nhánh VPĐKĐĐ tại
huyện T) cung cấp báo cáo nguồn gốc đất của ông Trần Văn T Thị C của
UBND xã N ngày 26/01/2024.
Ngày 14/12/2000, ông Võ Thanh N m đơn xin đăng ký quyền sử dụng đất được
UBND N xác nhận ngày 01/11/2011 UBND huyện T cấp giấy CNQSD đất cho
ông Võ Thanh N ngày 05/11/2001, tổng diện tích là 7.603m
2
gồm: Thửa 549 tờ bản đồ
số 5, diện tích 747m
2
, mục đích sử dụng vườn. Thửa 550 tờ bản đồ số 5, diện tích
170m
2
, mục đích sử dụng thổ. Thửa 551 tờ bản đồ số 5, diện tích 6.686m
2
, mục đích
sử dụng lúa.
Ngày 23/8/2016, bà Võ Thị Kiều O nhận thừa kế quyền sử dụng đất từ ông N
được UBND N chứng thực số 208, quyển số 01 ngày 23/8/2016 với diện tích
7.603m
2
đối với thửa 549, 550, 551 tờ bản đồ số 5, bà O hoàn thành nghĩa vụ tài chính
được Chi nhánh VPĐKĐĐ tại huyện T xác nhận tại T 4 giấy CNQSD đất ngày
14/9/2016.
Ngày 21/10/2016, Thị Kiều O chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông
Trần Văn T Thị C được UBND N chứng thực số 239, quyển số 01 ngày
21/10/2016 với tổng diện tích 7.603m
2
đối với các thửa 549, 550, 551 tờ bản đồ số 5,
đất tọa lạc ấp T, N, huyện T, tỉnh Long An, theo số phát hành U 054509, số vào sổ
102/QSDĐ/2001/QD.UB, ông T C được Chi nhánh VPĐKĐĐ tại huyện T xác
nhận tại T 4 giấy CNQSD đất ngày 27/10/2016. vậy ông Văn H Huỳnh
Thị T1 yêu cầu hủy giấy CNQSD đất của ông Trần Văn T Võ Thị C không thể
hủy được.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 26/2024/DS-ST ngày 02 tháng 5 năm 2024 của Tòa
án nhân dân huyện Tân Thạnh, tỉnh Long An đã tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn T, Thị C. Buộc ông
Văn HHuỳnh Thị T1 có nghĩa trả lại ông T, bà C 01 phần thửa 549 (a), diện tích
87m
2
, ngang hướng Đông 7,6m, ngang hướng Tây 7,1m, dài hướng Nam 11,7m, dài
hướng Bắc 12m (01 cái ao diện tích 29m
2
); 01 phần thửa 550 (b), diện tích 64m
2
,
ngang hướng Đông 4,7m, ngang hướng y 6,1m, dài ớng Nam 11,8m, i hướng
Bắc 11,7m; 01 phần thửa 551 (b), diện tích 105m
2
, ngang hướng Đông 11,7m, ngang
hướng Tây 12,3m, dài hướng Nam 8,5m, dài hướng Bắc 9,8m, tổng diện tích 256m
2
tờ
bản đồ số 5, đất tọa lạc ấp T, N, huyện T, tỉnh Long An (theo mảnh trích đo địa
chính số 166-2022 ngày 20/10/2022 của Chi nhánh văn phòng đăng đất đai tại
huyện T).
2. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Văn H, Huỳnh Thị T1 yêu
cầu hủy 01 phần giấy CNQSD đất của ông Trần Văn T, Thị C được Chi nhánh
VPĐKĐĐ tại huyện T xác nhận tại T 4 giấy CNQSD đất ngày 27/10/2016 thuộc 01
phần thửa 549, diện tích 87m
2
, 01 phần thửa 550, diện tích 64m
2
01 phần thửa 551,
diện tích 105m
2
thuộc tờ bản đồ số 5, đất tọa lạc ấp T, xã N, huyện T, tỉnh Long An
không công nhận 01 phần thửa 549, diện tích 87m
2
, 01 phần thửa 550, diện tích 64m
2
và 01 phần thửa 551, diện tích 105m
2
, đất tọa lạc ấp T, xã N, huyện T, tỉnh Long An.
3. Về chi phí tố tụng: Ông H T1 nghĩa vụ trả ông T C: Chi phí
4
xem xét, thẩm định tại chổ; chi phí định giá đất, chi phí đo đất chi phí cung cấp
chứng cứ, tổng cộng stiền 10.369.000đồng (Mười triệu ba trăm sáu mươi chín ngàn
đồng).
Kề từ ngày đơn yêu cầu thi nh án của người được thi hành án cho đến khi
thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu thêm tiền lãi của số tiền còn phải
thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015.
4. Về án phí dân ssơ thẩm: Ông T, bà C không phải chịu án phí, nên được hoàn
trả 1.072.000 đồng tiền tạm ng án phí theo biên lai số 0004072 ngày 09/11/2021
300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai số 0004307 ngày 07/12/2022 của Chi
cục Thi hành án dân sự huyện Tân Thạnh.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về quyền kháng cáo và hướng dẫn thi hành án.
Ngày 14/5/2024 bị đơn ông Văn H, Huỳnh Thị T1 kháng cáo toàn bộ bản
án thẩm. Căn cứ yêu cầu hủy án: án thẩm vi phạm về việc thu thập, đánh giá
chứng cứ, sử dụng chứng cứ không thật về liên quan đến xác định ranh đất vi phạm
Điều 108 Bộ luật tố tụng dân sự. Việc hỗ trợ số tiền 10.000.000đồng theo biên bản
ngày 01/2/2018 biên bản ngày 01/10/2020 của y ban nhân dân dấu hiệu ép
buộc. Liên quan đến lời khai của nguyên đơn và bị đơn thể hiện đất có tranh chấp chưa
được giải quyết cấp thẩm không xem xét đơn khiếu nại năm 2016 của T1, án
thẩm không đưa O tham gia tố tụng vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, hồ
sơ có nhiều mâu thuẫn nhưng cấp sơ thẩm không đối chất.
Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Phúc A người đại diện cho T1 trình y
kháng cáo yêu cầu hủy bản án thẩm, giao hồ về tòa án cấp thẩm giải quyết
theo thủ tục sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đương sự vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện yêu cầu
kháng cáo, các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án
Phần tranh luận:
Ông Phúc A người đại diện theo ủy quyền của T1 trình bày: Yêu cầu
a án cấp phúc thẩm hủy bản án với những do sau: Tòa án cấp thẩm thu thập
chứng cứ, đánh giá chứng cứ, không đầy đủ không toàn diện, không chính xác, sử
dụng chứng cứ không có thật, không đưa bà O tham gia tố tụng với tư cách là người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan, không đối chất về việc xác định ranh đất. Liên quan đến
số tiền 10.000.000đồng bị đơn trình y để thu xếp ổn thỏa việc tranh chấp, thể hiện
thiện chí của bị đơn là chuyển nhượng phần đất tranh chấp cho nguyên đơn chứ không
phải trao trả quyền sử dụng đất cho nguyên đơn và nhận hỗ trợ. O xác định ranh đất
đến gốc dừa, nhưng nhiều y dừa không xác định đến gốc dừa nào. Lời trình
bày của các đương sự không sự thống nhất, lúc nói đến gốc dừa, lúc xác định ranh
đến ao, nhưng không xác định rõ ranh phía nào của ao. Nguyên đơn cũng trình bày khi
ông H xác định ranh tới gốc dừa thì bà T1 không đồng ý cho cắm ranh tại đó. Phần đất
tranh chấp bị đơn đã sử dụng ổn định, lâu dài, các bên đã phát sinh tranh chấp từ m
2014, việc tranh chấp phát sinh năm 2014 đã được thể hiện trong đơn khiếu nại m
2016 nhưng chưa được tòa án cấpthẩm xác minh làm rõ. Hợp đồng chuyển nhượng
giữa O, ông T, C không trung thực, phía bên ông H T1 cũng nói cho
ông T bà C biết chỉ cho ông N bán phần đất ruộng, không cho bán đât thổ cư.
5
T1 trình bày: phần đất đang tranh chấp là do gia đình bà sử dụng từ năm 1975
đến nay, không đồng ý cho ông N bán phần đất này bên bà C cũng biết sự việc này nên
yêu cầu ông T bà C trả lại phần đất này cho bà T1, ông H.
Ông T, C trình bày: khi mua đất O chỉ ranh ông H đến xác định
ranh ngay gốc dừa, phần đất y của O được thừa kế từ ông N không liên quan
đến bà T1 và ông H nên không đồng ý yêu cầu của ông H và bà T1.
Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:
Về tố tụng: Đơn kháng cáo của ông Văn H Hunh Thi T3 đúng quy
định của pháp luật nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm. Kể từ khi thụ vụ án
cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký
phiên tòa đã tuân thủ đúng những quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, những người
tham gia tố tụng đã chấp hành đúng pháp luật.
Về việc giải quyết vụ án:
Xét kháng cáo của ông Võ Văn H và bà Huỳnh Thị T1 thấy rằng:
Ngày 05/11/2001 ông Thanh N được y ban nhân dân (UBND) huyện T cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tổng diện tích 7.603m
2
gồm thửa 549 (đất vườn)
diện tích 747m
2
, thửa 550 (đất thổ) diện tích 170m
2
, thửa 551 (đất lúa) diện tích
105m
2
. Năm 2007 ông N chuyển nhượng đất cho ông T, C nhưng chưa sang tên.
Ngày 14/9/2016 Thị Kiều O được Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai tại
huyện T xác nhận O thừa kế quyền sử dụng đất thửa 549, 550, 551 từ ông N (chết
năm 2013). Ngày 21/10/2016 bà O chuyển nhượng thửa 549, 550, 551 cho ông T, bà C
ông T, C được Chi nhánh văn phòng đăng đất đai tại huyện T xác nhận trên
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 27/10/2016.
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà O và ông T, C chuyển
nhượng trọn thửa 549, 550, 551, không đo đạc thực tế. O trình bày khi chuyển
nhượng chỉ ranh cho ông T, C lúc đó mặt ông H, chỉ ranh giáp ngay gốc y
dừa của ông H trồng giáp lề lộ Tân Long làm ranh đất giữa ông Hông T, bà C. Ông
H không chứng cứ chứng minh về việc ông N xin các anh ch em cho bán đất
ruộng, không bán đất thổ . Đồng thời, tại biên bản hòa giải ngày 01/02/2018 tại
UBND xã N thì ông H, ông T1 xác định không giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
đối với các phần đất tranh chấp. Ông H, T1 ý kiến đồng ý tự nguyện chặt y,
bắt cá trả lại đất tranh chấp cho ông T, bà C trong 3 tháng. Do đó bản án sơ thẩm, buộc
ông H, bà T1 trả đất tranh chấp cho ông T, bà C là có căn cứ nên không chấp nhận việc
ông T, C kháng cáo cho rằng đất tranh chấp thuộc quyền sử dụng của ông H bà
T1.
Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của ông Võ Văn
H Huỳnh Thị T1. Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015,
giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Đơn kháng cáo của đơn ông Văn H Huỳnh Thị T1 trong thời hạn
quy định của pháp luật nên vụ án được xem xét theo trình tự phúc thẩm. y ban nhân
dân huyện T có đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015 Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử.
6
[2] Xét kháng cáo của ông H T1, không đồng ý toàn bộ bản án thẩm.
Xét thấy:
[2.1] Tại phiên tòa phúc thẩm người đại diện theo ủy quyền của bà T1 yêu cầu
hủy bản án thẩm với do cấp thẩm không đưa Thị Kiều O tham gia tố
tụng vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Xét thấy, các đương sự chỉ tranh chấp
quyền sử dụng đất, không tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa
Thị Kiều O với ông T, bà C và cũng không yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất đã được cập nhật, chỉnh lý cho bà Thị Kiều O nên không cần thiết phải
đưa O tham gia tố tụng trong vụ án y. Mặt khác, ông Phúc A đại diện cho T1
cho rằng cấp thẩm thu thập chứng cứ không đầy đủ, đánh giá chứng cứ không toàn
diện, sử dụng chứng cứ không thật. Xét thấy, việc thu thập, sử dụng đánh giá
chứng cứ của cấp thẩm đảm bảo theo quy định tại các điều 94, 95, 96, 97, 98, 99,
101, 104, 106, 108, 109 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Bị đơn kháng cáo cho
rằng cấp thẩm không tiến hành đối chất khi lời khai của các đương sự mâu
thuẫn, tuy nhiên việc đối chất đã được Tòa án cấp thẩm thực hiện tại phiên tòa. Do
đó, bị đơn kháng cáo yêu cầu hủy bản án thẩm với do trên không có căn cứ
chấp nhận.
[2.2] Theo công văn 613/UBND-NC ngày 01/3/2024 của Ủy ban nhân dan huyện
T (bút lục 165) thì ngày 08/9/1995 ông N được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số B 551136 với tổng diện tích 5.695m
2
gồm thửa 363 thửa 1761, tờ bản đồ số
3, loại đất lúa. Ngày 14/12/2000 ông N làm đơn xin đăng quyền sử dụng đất được
Ủy ban nhân dân N xác nhận ngày 01/11/2001 được Ủy ban nhân dân huyện T
cấp giấy cho ông Thanh N ngày 05/11/2001 với tổng diện tích 7.603m
2
gồm các
thửa 549, tờ bản đồ số 5, diện tích 747m
2
, mục đích sử dụng: ờn; thửa 550, tờ bản
đồ số 5, diện tích 170m
2
, mục đích sử dụng: Thổ; thửa 551, tờ bản đồ số 5, diện tích
6.686m
2
, mục đích sử dụng: Lúa.
[2.3] Tại biên bản hòa giải ngày 26/12/2019 (bút lục 123, 124), biên bản hòa giải
ngày 26/11/2021 (bút lục 195, 196), biên bản hòa giải ngày 04/4/2024 (bút lục 203,
204) T1, ông H trình y năm 2007 ông N bán đất, tông H T1 chỉ đồng ý cho
ông N bán đất ruộng, còn phần vuông đất thửa 549, 550 chỉ cho ở, không được sang
bán. Như vậy, căn cứ xác định ông H, T1 đã biết ông N được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất thửa 549, 550 từ năm 2007. Trong suốt thời gian từ năm 2007
đến năm 2013 (ông N chết) thì ông H T1 không tranh chấp, khiếu nại hay yêu
cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông N đối với thửa 549 thửa 550.
Ông N chết năm 2013, ngày 23/8/2016 Thị Kiều O (con ông N) nhận thừa kế
quyền sử dụng đất đối với 3 thửa đất trên, ngày 14/9/2016 bà O được cập nhật chỉnh lý
tại trang 4 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên phù hợp với quy định tại Điều
188 Luật đất đai năm 2013, Điều 733, Điều 734 Bộ luật dân sự năm 2005. Do đó, bà O
đủ các quyền của người sử dụng đất theo Điều 167 Luật đất đai m 2013. Ngày
21/10/2016 Thị Kiều O chuyển nhượng 03 thửa đất trên cho ông Trần Văn T
Thị C, hợp đồng chuyển nhượng được y ban nhân dân N chứng thực cùng
ngày. Ngày 27/10/2016 ông T C được cập nhật, chỉnh sang tên quyền sử dụng
đất. Đến ngày 18/11/2016 T1 mới gửi đơn khiếu nại đến Ủy ban nhân dân N.
Như vậy, bà T1 khiếu nại sau ngày ông T C được cập nhật, chỉnhsang tên quyền
sử dụng đất. Vì vậy, có căn cứ xác định, ông T C được cập nhật chỉnh sang tên
quyền sử dụng đất là phù hợp với quy định tại Điều 188 của Luật đất đai năm 2013.
[2.4] Tại phiên tòa người đại diện theo ủy quyền của T1 cho rằng giữa T1
7
với ông T C có tranh chấp từ m 2014, 2015. Tuy nhiên, đây chỉ lời trình y
của đương sự không chứng cứ chứng minh, hơn nữa tại phiên tòa cũng như
trong quá trình giải quyết vụ án T1 trình bày đồng ý cho ông N bán 6.000m
2
đất
ruộng, ông T C cũng trình bày khi ông N còn sống ông N bán cho ông thửa đất
ruộng nhưng chưa làm thủ tục sang tên, sau khi ông N chết m 2016 O con ông N
mới bán luôn thửa đất thửa 549, 550. Như vậy, từ trước năm 2016 ông T bà C chỉ mua
thửa đất ruộng 551, chưa mua thửa đất 549, 550. Mặt khác, tại các biên bản hòa giải
ngày 01/8/2018, ngày 26/12/2019, ngày 01/10/2020 T1 ông H đều không đề cập
đến vấn đề tranh chấp từ năm 2014. Do đó, T1 cho rằng tranh chấp phát sinh từ
năm 2014, 2015 là không có căn cứ.
[2.5] Mặt dù, khiO chuyển nhượng 03 thửa đất 549, 550, 551 cho ông T C
không đo đạc thực tế, nhưng ông H O xác nhận ranh giới đất ngay gốc y
dừa giáp lề lộ T. Ngoài ra, tại biên bản hòa giải ngày 01/02/2018 (bút lục 125) tại
UBND xã N thì ông H,T1 xác định phần đất tranh chấp không trong giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất của ông H ông H đồng ý chặt cây, bắt trả lại phần đất
tranh chấp cho vchồng ông T trong vòng 03 tháng. Tuy nhiên, hết thời gian 3 tháng
ông H T1 không trđất nên tại biên bản hòa giải ngày 01/10/2020 (bút lục 121,
122) ông H, T1 đồng ý trả đất với điều kiện ông T C phải hỗ trợ cho ông H
T1 10.000.000đồng.
[2.6] Quá trình giải quyết vụ án tại phiên tòa thẩm, T1 trình y trong
trường hợp Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông T, C, bác yêu cầu khởi
kiện của T1, ông H thì T1 không yêu cầu ông T C phải bồi thường giá trị cây
trồng trên phần đất tranh chấp.
[2.7] Từ những chứng cứ nhận định trên sở xác định án thẩm chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của ông T bà C và không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông
H, T1 căn cứ. Ông H T1 kháng o nhưng không cung cấp được chứng cứ
nào mới nên không căn cứ chấp nhận kháng cáo của ông H T1, chấp nhận đề
nghị của kiểm sát viên, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[3] Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông H, T1 được miễn tạm ng án phí án
phí do là người cao tuổi theo điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326 quy định về mức
thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự;
Không chấp nhận kháng cáo của ông Võ Văn H và bà Hunh Thị T1;
Giữ nguyên bản án dân sự thẩm số: 26/2024/DS-ST ngày 02 tháng 5 m
2024 của Tòa án nhân dân huyện Tân Thạnh, tỉnh Long An.
Căn cứ vào các điều 5, 26, 37, 39, 147, 148, 157,307, 313 của Bộ luật Tố tụng
Dân sự 2015; Các điều 100, 166, 170, 203 Luật đất đai năm 2013; Các điều 26, 29,
điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 m
2016 của y ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản
lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
8
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn T, Thị C về việc tranh
chấp quyền sử dụng đất đối với ông Võ Văn HHunh Thị T1.
2. Buộc ông Văn H Huỳnh Thị T1 có nghĩa vụ trlại ông Trần Văn T,
Thị C 01 phần thửa 549 (a), diện tích 87m
2
, ngang hướng Đông 7,6m, ngang
hướng y 7,1m, dài hướng Nam 11,7m, dài hướng Bắc 12m (01 cái ao diện tích
29m
2
); 01 phần thửa 550 (b), diện tích 64m
2
, ngang hướng Đông 4,7m, ngang hướng
Tây 6,1m, dài hướng Nam 11,8m, dài ớng Bắc 11,7m; 01 phần thửa 551 (b), diện
tích 105m
2
, ngang hướng Đông 11,7m, ngang hướng y 12,3m, dài hướng Nam
8,5m, dài hướng Bắc 9,8m, tổng diện tích 256m
2
tờ bản đồ số 5, đất tọa lạc ấp T, xã N,
huyện T, tỉnh Long An (theo mảnh trích đo địa chính s166-2022 ngày 20/10/2022
của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai tại huyện T).
3. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Văn H, Huỳnh Thị T1 yêu
cầu hủy 01 phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Trần Văn T, bà Võ Thị C
được Chi nhánh VPĐKĐĐ tại huyện T xác nhận tại Trang 4 giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất ngày 27/10/2016 thuộc 01 phần thửa 549, diện tích 87m
2
, 01 phần thửa 550,
diện tích 64m
2
01 phần thửa 551, diện tích 105m
2
thuộc tờ bản đồ số 5, đất tọa lạc
ấp T, N, huyện T, tỉnh Long An bác yêu cầu của ông H T1 về việc công
nhận cho ông được quyền sử dụng 01 phần thửa 549, diện tích 87m
2
, 01 phần thửa
550, diện tích 64m
2
01 phần thửa 551, diện tích 105m
2
, đất tọa lạc ấp T, N,
huyện T, tỉnh Long An.
4. Về chi phí ttụng: Buộc ông Văn H, bà Huỳnh Thị T1 nghĩa vụ trả lại
cho ông Trần Văn T, Thị C số tiền 10.369.000đồng (Mười triệu ba trăm sáu
mươi chín nghìn đồng).
Kể từ ngày đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi
thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu thêm tiền lãi của số tiền còn phải
thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015.
5. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Ông Trần Văn T, Thị C không phải chịu án phí, nên được hoàn trả
1.072.000đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai số 0004072 ngày 09/11/2021
300.000đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai số 0004307 ngày 07/12/2022 của Chi
cục Thi hành án dân sự huyện Tân Thạnh.
Ông Võ Văn H, bà Huỳnh Thị T1 được miễn án phí dân sự sơ thẩm.
6. Về án phí n sự phúc thẩm: Ông Văn H Huỳnh Thị T1 được miễn án
phí dân sự phúc thẩm.
7. Về hiệu lực của bản án: Bản án phúc thẩm hiệu lực pháp luật kể từ ngày
tuyên án.
8. Về hướng dẫn thi nh án: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo
qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi
hành án dân sự quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a 9 Luật
Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
9
Nơi nhận:
-TANDCC tại Tp.HCM;
- VKSND tỉnh Long An;
- TAND huyện Tân Thạnh;
- Chi cục THADS huyện Tân Thạnh;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ, án văn.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN- CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trịnh Thị Phúc
Thành viên Hội đồng xét xửThẩm phán – Chủ tọa phiên tòa
Trần Trọng nhân – Nguyễn Thị Mỹ H1 Trịnh Thị P
Tải về
Bản án số 353/2024/DS-PT Bản án số 353/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 353/2024/DS-PT Bản án số 353/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất