Bản án số 35/2017/DS-ST ngày 22/09/2017 của TAND TP. Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang về kiện đòi tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 35/2017/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 35/2017/DS-ST ngày 22/09/2017 của TAND TP. Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang về kiện đòi tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Bắc Giang (TAND tỉnh Bắc Giang)
Số hiệu: 35/2017/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 22/09/2017
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp HĐ vay TS giữa ông Q và bà B
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC GIANG, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 35/2017/DS-ST NGÀY 22/09/2017 VỀ KIỆN ĐÒI TÀI SẢN

Ngày 22 tháng 9 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 48/2017/TLST-DS ngày 17/5/2017, về  tranh  chấp:  “Kiện đòi tài  sản”,  theo  Quyết  định  đưa  vụ  án  ra  xét  xử  số: 52/2017/QĐXXST-DS ngày 15/8/2017, giữa các đương sự:

- Ngun đơn: Ồng Nguyễn Văn Q, sinh năm 1972 (có mặt).

Nơi cư trú: Thôn T, xã Đ, huyện L, tỉnh B.

- Bị đơn: Bà Đào Thị Hoa B, sinh năm 1964 (vắng mặt).

Nơi cư trú: Thôn L, xã S, thành phố B, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình làm việc và tại phiên toà, nguyên đơn ông Nguyễn Văn Q trình bày:

Đầu tháng 11/2014, ông có đến Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Thanh Tùng (Công ty Thanh Tùng) do bà Đào Thị Hoa Blàm giám đốc để nộp tiền làm thủ tục đi du lịch tại Đài Loan với hai xuất đi là ông và bố đẻ ông. Số tiền phải nộp để đi du lịch là 145.000.000 đồng cùng giấy tờ và tiền đặt cọc “chống trốn” do ông đang ở độ tuổi lao động là 104.300.000 đồng. Sau khi về nước thì Công ty Thanh Tùng sẽ trả lại số tiền đặt cọc. Ngày 25/12/2014, sau khi ông và bố ông đi du lịch về ông có đến quyết toán với bà Bắc thì bà Bắc có trả lại cho ông giấy tờ, còn số tiền “chống trốn” thì bà Bắc khất nợ. Do đòi nhiều lần không được, ông có làm đơn đến Công an thành phố Bắc Giang yêu cầu giải quyết sự việc. Tại Công văn số 788/CV-CQĐT ngày 29/7/2015 Công an thành phố Bắc Giang trả lời: Đây là giao dịch dân sự và hướng dẫn ông khởi kiện tại Toà án nhân dân.

Ngày 20/8/2015, ông có gặp gỡ bà Bắc thì bà Bắc tự đứng ra nhận nợ cá nhân và viết giấy biên nhận với ông và hạn đến ngày 15/10/2015 thì trả cho ông, đến hạn bà Bắc vẫn không trả. Tháng 01/2017, ông đã khởi kiện đối với Công ty Thanh Tùng về số tiền này, nhưng sau đó ông xác định bà Bắc đã nhận nợ cá nhân, đây là sự tự nguyện của ông chuyển giao nghĩa vụ dân sự, nên ông đã rút yêu cầu khởi kiện Công ty và nộp đơn khởi kiện các nhân bà Bắc trả lại cho ông số tiền 104.000.000 đồng theo như giấy biên nhận mà bà Bắc viết và ký nhận.

Đối với Đào Thị Hoa B: Trong quá trình làm việc Toà án đã tiến hành thông báo thụ lý, triệu tập, thông báo  về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải, nhưng bà Bắc vẫn không có mặt để làm việc, Toà án đã tiến hành niêm yết các tài liệu trên tại nơi cư trú của bà Bắc. Tuy nhiên, tại bản tự khai ngày 28/02/2017 là tài liệu trong vụ án dân sự thụ lý số 03/2017TLST-DS ngày 05/01/2017 của Toà án nhân dân thành phố Bắc Giang thì bà Bắc xác định: Bà là Giám đốc Công ty Thanh Tùng. Năm 2014, chị Tuyến là nhân viên của Công ty đã nhờ bà làm thủ tục cho bố con ông Quảng đi du lịch tại Đài Loan, bà đã nhận tiền chi phí du lịch, các giấy tờ chứng minh tài chính là sổ tiết kiệm, sổ nhà đất và tiền đặt cọc chống trốn là 100.000.000 đồng , thoả thuận sau khi về thì bà trả lại giấy tờ và tiền đặt cọc. Sau khi bố con ông Quảng đi về thì bà trả lại toàn bộ giấy tờ đã nhận. Riêng số tiền đặt cọc, bà có khất nợ và hỏi vay lại ông Quảng thì ông Quảng đồng ý, đồng thời bà có viết giấy biên nhận đối với ông Quảng với số tiền 104.000.000 đồng và hẹn đến ngày 15/10/2015 thì thông toán. Đến hạn do có khó khăn về tài chính bà không trả được ông Quảng. Bà xác định số tiền này là nợ của cá nhân bà, không liên quan gì đến Công ty Thanh Tùng nữa.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Giang phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Toà án trong quá trình giải quyết vụ án theo đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của các đương sự: Ông Quảng tuân thủ theo đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Bà Bắc chưa thực hiện theo đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Đề nghị:

Buộc bà Đào Thị Hoa Bphải trả lại cho ông Nguyễn Văn Q 104.000.000 đồng.

Bà Bắc phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Hoàn trả toàn bộ tiền tạm ứng án phí cho ông Quảng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả trông luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Xét về thủ tục tố tụng:

Xét yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn Q về kiện đòi tài sản là quan hệ dân sự giữa cá nhân với cá nhân là thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang theo khoản 2 Điều 26; khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Bà Đào Thị Hoa Bvắng mặt tại phiên tòa, Toà án đã triệu tập và niêm yết giấy triệu tập phiên toà đến lần thứ hai, nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, nên Tòa án xét xử vắng mặt bà Bắc theo qui định tại Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về nội dung:

Đầu tháng 11/2014, ông Quảng đến Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên Thanh Tùng (Công ty Thanh Tùng) do bà Đào Thị Hoa Blàm giám đốc để nộp tiền làm thủ tục đi du lịch tại Đài Loan với hai xuất đi là ông và bố đẻ ông. Số tiền phải nộp để đi du lịch là 145.000.000 đồng cùng giấy tờ và tiền đặt cọc chống trốn là 104.300.000 đồng. Sau khi về nước thì Công ty Thanh Tùng sẽ trả lại số tiền đặt cọc. Ngày 25/12/2014, sau khi ông và bố ông đi du lịch về ông có đến quyết toán với bà Bắc thì bà Bắc có trả lại cho ông giấy tờ còn số tiền thì bà Bắc khất nợ bà Bắc có nhận nợ cá nhân, ông Quảng đồng ý. Đây là sự chuyển giao nghĩa vụ dân sự phù hợp với Điều 370 Bộ luật dân sự. 

Về thời hiệu khởi kiện: Ông Quảng khởi kiện đòi tài sản đối với bà Bắc là yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu tài sản và không áp dụng thời hiệu khởi kiện theo quy định tại khoản 2 Điều 155 của Bộ luật dân sự.

Xét yêu cầu của ông Quảng yêu cầu bà Bắc phải trả lại số tiền 104.000.000 đồng là có căn cứ chấp nhận, cần buộc bà Bắc phải trả lại cho ông Quảng số tiền 104.000.000 đồng theo Điều 105, Điều 164 của Bộ luật dân sự năm 2015.

Ngoài ra, căn cứ vào Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự, Điều 26,  Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội buộc bà Bắc phải chịu án phí.

Áp dụng khoản 2 Điều 357 của Bộ luật dân sự năm 2015 để tuyên trách nhiệm do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền; Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự để tuyên quyền kháng cáo cho các đương sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

Áp dụng: Khoản 2 Điều 26; khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147, Điều 271, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 105, Điều164 và khoản 2 Điều 357 của Bộ luật dân sự năm 2015:

1- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn Q đối với bà Đào Thị Hoa B;

2 - Buộc bà Đào Thị Hoa Bphải hoàn trả cho ông Nguyễn Văn Q số tiền 104.000.000 đồng (Một trăm linh bốn triệu đồng).

3 - Án phí:

- Bà Đào Thị Hoa Bphải chịu 5.200.000 đồng (năm triệu hai trăm nghìn đồng).

- Hoàn trả cho ông Nguyễn Văn Q 2.600.000 đồng (hai triệu sáu trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí ông Quảng đã nộp tại biên lai số: AA/2014/0001253 ngày 17/5/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Bắc Giang.

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất quy đinh tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều  6,7, 7a, 7b và 9 Lụât Thi hành án dân sự; thời hiêụ thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Báo cho đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Báo cho các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ nhận được tống đạt hoặc niêm yết bản án.

Tải về
Bản án số 35/2017/DS-ST Bản án số 35/2017/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất