Bản án số 34/2025/DS-PT ngày 05/09/2025 của TAND tỉnh Đồng Nai về tranh chấp hợp đồng gia công
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 34/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 34/2025/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 34/2025/DS-PT
| Tên Bản án: | Bản án số 34/2025/DS-PT ngày 05/09/2025 của TAND tỉnh Đồng Nai về tranh chấp hợp đồng gia công |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng gia công |
| Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Đồng Nai |
| Số hiệu: | 34/2025/DS-PT |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 05/09/2025 |
| Lĩnh vực: | Dân sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ/việc: | Công ty A tranh chấp hợp đồng mua bán với Công ty B |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH ĐỒNG NAI Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bản án số: 34/2025/KDTM-PT
Ngày: 05/9/2025
V/v: “Tc HĐ mua bán hàng hóa”
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Đình Trung.
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Xuân Quang.
Bà Nguyễn Thị Quyên.
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Đoàn Hữu Phúc – Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Đồng Nai.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tham gia phiên tòa: Ông Trần
Đình Phi Long – Kiểm sát viên.
Trong ngày 05/9/2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử phúc
thẩm công khai vụ án thụ lý số: 20/2025/TLPT-KDTM ngày 30 tháng 6 năm 2025 về
việc “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 14/2025/KDTM-ST ngày 28 tháng 3 năm 2025
của Tòa án nhân dân TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai (nay là Tòa án nhân dân Khu vực 1
– Đồng Nai) bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 30/2025/QĐ-PT ngày 24
tháng 7 năm 2025; Quyết định hoãn phiên tòa số 53/2025/QĐ-PT ngày 14 tháng 8 năm
2025 và Thông báo thay đổi thời gian xét xử vụ án số 33/TB-TA ngày 03 tháng 9 năm
2025, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Công ty TNHH một thành viên A
Địa chỉ: C khu phố B, phường AB, thành phố BH (nay là phường TB), tỉnh
Đồng Nai.
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Bùi Thị Th, sinh năm 1987
Địa chỉ: D khu phố NH, phường HH, thành phố BH (nay là phường TB), tỉnh
Đồng Nai (Văn bản ủy quyền ngày 12/8/2024).
- Bị đơn: Công ty TNHH Sản xuất thương mại XNK B
Địa chỉ: D hẻm E, tổ F, khu phố TC, phường PT, thành phố BH (nay là phường
PT), tỉnh Đồng Nai.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Văn Đ, sinh năm 1974
Địa chỉ: N đường M, khu phố V, phường TNP, thành phố TĐ (nay là phường
TNP), thành phố Hồ Chí Minh (Văn bản ủy quyền ngày 13/01/2025).

2
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Bà Đàm Thị H, bà Nguyễn
Thị L – Luật sư thuộc Công ty luật TNHH MTV YVNLaw – Đoàn Luật sư tỉnh Đồng
Nai.
Các đương sự, luật sư có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo bản án sơ thẩm thể hiện nội dung vụ án như sau:
- Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản công khai chứng cứ, hòa giải và tại
phiên tòa – Nguyên đơn Công ty TNHH MTV A (do bà Bùi Thị Th đại diện theo ủy
quyền) trình bày:
Công ty TNHH một thành viên A (gọi tắt là Công ty A) và Công ty TNHH Sản
xuất thương mại XNK B (gọi tắt là Công ty B) có ký hợp đồng mua bán các loại sản
phẩm từ gỗ. Quá trình mua bán tổng số tiền Công ty B còn nợ Công ty A số tiền
2.006.665.210 đồng, hai bên đã đối chiếu công nợ và đến ngày 26/11/2024 Công ty B
đã thanh toán số tiền 200.000.000 đồng. Hiện Công ty B còn nợ lại 1.806.665.210
đồng. Công ty A yêu cầu Công ty B phải thanh toán số tiền 1.806.665.210 đồng tiền
nợ gốc và tiền lãi chậm trả từ ngày 28/6/2023 với mức lãi suất 12%/năm, không đồng
ý phương thức mỗi tháng Công ty bị đơn trả số tiền 30.000.000 đồng.
- Tại bản tự khai, biên bản công khai chứng cứ, hòa giải và tại phiên tòa, Công
ty TNHH Sản xuất thương mại XNK B (do ông Lê Văn Đ đại diện theo ủy quyền) trình
bày:
Công ty B thống nhất với trình bày của Công ty A. Đến nay Công ty B còn nợ
Công ty A số tiền 1.806.665.210 đồng. Công ty B chỉ đồng ý thanh toán cho Công ty
A số tiền gốc là 1.806.665.210 đồng theo như biên bản cam kết trả nợ số 01/2024 ngày
25/11/2024, từ tháng 4/2025 mỗi tháng Công ty sẽ trả số tiền 30.000.000 đồng, không
đồng ý trả lãi chậm trả.
Tại Bản án Kinh doanh thương mại sơ thẩm số 14/2025/KDTM-ST ngày
28/3/2025 của Tòa án nhân dân TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai (nay là Tòa án nhân
dân Khu vực 1 – Đồng Nai) đã quyết định:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 30, Điều 35, Điều 39, khoản 4 Điều 70, khoản 2 Điều
71, Điều 244, Điều 266 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 24, Điều 34, Điều 50,
Điều 55, Điều 306 Luật Thương mại năm 2005; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:
Tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH một thành viên A.
Buộc Công ty TNHH Sản xuất thương mại XNK B phải thanh toán cho Công ty
TNHH một thành viên A số tiền gốc là 1.806.665.210 đồng (Một tỷ, tám trăm lẻ sáu
triệu, sáu trăm sáu mươi lăm ngàn, hai trăm mười đồng) và tiền lãi do chậm thanh toán
là 379.399.693 đồng (Ba trăm bảy mươi chín triệu, ba trăm chín mươi chín ngàn, sáu
trăm chín mươi ba đồng). Tổng cộng là: 2.186.064.903 đồng (Hai tỷ, một trăm tám
mươi sáu triệu, không trăm sáu mươi bốn ngàn, chín trăm lẻ ba đồng).
3
Ngoài ra, cấp sơ thẩm còn tuyên về nghĩa vụ chậm thanh toán, án phí và quyền
kháng cáo.
Ngày 11/4/2025, Công ty TNHH Sản xuất – Thương mại B kháng cáo toàn bộ
bản án sơ thẩm, đề nghị Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử theo hướng: Không
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; công nhận Biên bản cam kết trả nợ số
01/2024/NLV-TV-PLAK với phương thức trả nợ từ tháng 4/2025, mỗi tháng Công ty
B sẽ trả cho Công ty A 30.000.000 đồng và không tính lãi trên nợ gốc.
Tại phiên toà phúc thẩm, Công ty B không rút đơn kháng cáo.
* Ý kiến của luật sư Nguyễn Thị L – người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
cho bị đơn:
Do tình hình kinh tế khó khăn, đại dịch Covid 19 dẫn đến khủng hoảng kinh tế
toàn cầu nên Công ty B làm ăn thua lỗ. Thêm vào đó Công ty B đang bị tạm đình chỉ
hoạt động theo Quyết định số 298/QĐTDC-CATP của Công an thành phố Biên Hoà
và công văn số 20813/UBND-KTNS ngày 2/12/2024 của UBND TP Biên Hoà và đến
nay vẫn chưa hoạt động trở lại.
Ngày 25/11/2024, Công ty A, Công ty Tống Việt và Công ty B đã ký Biên bản
cam kết trả nợ số 01/2024/NLV-TV-PLAK. Theo đó, Công ty B trả 200.000.000 đồng
cho Công ty A vào ngày 26/11/2024, số còn lại mỗi tháng Công ty B hoặc Công ty
Tống Việt sẽ trả cho Công ty A 30.000.000 đồng bắt đầu từ tháng 4/2025 và không có
thoả thuận tính lãi trên nợ gốc. Nếu Công ty B kinh doanh hiệu quả sẽ trả nợ cho Công
ty A theo khả năng. Đổi lại, Công ty A không được khởi kiện Công ty B ra Toà án. Các
bên cam kết thực hiện theo thoả thuận của Biên Bản.
Thực hiện đúng cam kết trả nợ số 01/2024/NLV-TV-PLAK, ngày 26/11/2024
Công ty B trả 200.000.000 đồng cho Công ty A. Tuy nhiên, Công ty A đã khởi kiện
Công ty B và yêu cầu trả nợ gốc 1.806.665.210 đồng 1 lần ngay khi bản án có hiệu lực
và phải chịu lãi chậm trả 20%/năm trên tổng số nợ gốc mà Công ty B nợ Công ty A.
Ngày 28/3/2025, Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa mở phiên Tòa xét xử sơ
thẩm của buộc Công ty B trả nợ gốc 1.806.665.210 đồng và lãi do chậm thực hiện nghĩa
vụ thanh toán 12%/năm. Tổng số tiền Công ty B phải trả: 2.186.064.903 đồng. Điều
này sẽ khiến Công ty B lâm vào tình trạng phá sản.
Biên bản cam kết trả nợ số 01/2024/NLV-TV-PLAK ngày 25/11/2024 đáp ứng
đủ các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự quy định tại Điều 117 BLDS 2015
nên buộc các bên phải thực hiện. Điều đó có nghĩa là Công ty A phải thực hiện đúng
cam kết ngày 25/11/2024 là không tính lãi trên nợ gốc và trả nợ theo lộ trình như đạ
thoả thuận.
Từ những phân tích trên, đề nghị Hội đồng xét xử: Sửa bản án sơ thẩm số
14/2025/KDTM-ST theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn;
Công nhận Biên bản cam kết trả nợ số 01/2024/NLV-TV-PLAK. Từ tháng 4/2025, mỗi
tháng Công ty B sẽ trả cho Công ty A 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng) và không
tính lãi trên nợ gốc.
* Ý kiến của luật sư Đàm Thị H – người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho
bị đơn:
4
Theo đơn khởi kiện, Công ty A chỉ yêu cầu Tòa án tính lãi từ ngày 03/02/2024
đến ngày 03/8/2024 là 6 tháng. Tuy nhiên, cấp sơ thẩm lại tính lãi từ ngày 28/6/2023
đến khi xét xử là vượt quá yêu cầu khởi kiện. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.
* Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai:
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án
Thẩm phán đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; về quan hệ
pháp luật, xác định tư cách pháp lý của nguyên đơn và bị đơn, thẩm quyền thụ lý của
Tòa án, việc thu thập chứng cứ đúng quy định. Quyết định đưa vụ án ra xét xử, thời
hạn chuyển hồ sơ, thủ tục cấp tống đạt niêm yết cho các đương sự đảm bảo theo quy
định pháp luật. Các quyền nghĩa vụ của đương sự được đảm bảo thực hiện. Tại phiên
tòa, Hội đồng xét xử đã tiến hành tố tụng đúng trình tự thủ tục theo quy định của của
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; những người tham gia tố tụng chấp hành đúng pháp
luật.
- Về thủ tục kháng cáo: Bị đơn Công ty B làm đơn kháng cáo trong thời hạn nên
được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
- Về nội dung kháng cáo:
Việc hai bên ký Hợp đồng mua bán hàng hóa và quá trình thực hiện hợp đồng,
Công ty B xác nhận còn nợ Công ty A số tiền hàng chưa thanh toán là 2.006.665.210
đồng đều được các bên thừa nhận.
Ngày 25/11/2024, hai bên ký Biên bản cam kết trả nợ số 01/2024/NLV-TV-
PLAK với nội dung: Công ty B xác nhận còn nợ Công ty A số tiền 2.006.665.210 đồng;
ngày 26/11/2024, Công ty B sẽ chuyển trả cho Công ty A 200.000.000 đồng; từ tháng
4/2025 trở đi, mỗi tháng Công B và Công ty Tống Việt sẽ trả cho Công ty A 30.000.000
đồng; trong thời gian thực hiện cam kết, Công ty A không được thực hiện những hành
vi trái pháp luật đối với Công ty B và không được gửi bất kỳ đơn kiện về vấn đề gì lên
tòa án đối với Công ty B; hai bên cam kết thực hiện đúng theo thỏa thuận của biên bản,
nếu bên nào vi phạm thì bên đó phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Tuy nhiên, Biên bản cam kết trả nợ số 01/2024/NLV-TV-PLAK không phải là
văn bản thay thế các Hợp đồng hai bên đã ký. Vì vậy, cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của Công ty A là đúng quy định của pháp luật. Công ty B kháng cáo không
có cơ sở nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận.
Về án phí Kinh doanh thương mại phúc thẩm: Buộc Công ty B phải chịu
2.000.000 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của bị đơn Công ty B làm trong hạn luật
định, nộp tiền tạm ứng án phí đầy đủ nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Thẩm quyền giải quyết, quan hệ pháp luật tranh chấp và xác định tư cách
đương sự: Tòa án cấp sơ thẩm xác định đúng.

5
[3] Về nội dung vụ án:
[3.1] Ngày 01/01/2022, Công ty A và Công ty B ký Hợp đồng nguyên tắc số
03/2022-HĐNT-PLAK/NLV; đến ngày 02/01/2023, các bên tiếp tục ký kết Hợp đồng
nguyên tắc số 04/2023-HĐNT-PLAK/NLV về việc mua bán hàng hóa là các loại sản
phẩm từ gỗ. Quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty B xác nhận còn nợ Công ty A số
tiền hàng chưa thanh toán là 2.006.665.210 đồng. Điều này đều được 02 bên thừa nhận
trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa phúc thẩm nên là tình tiết không phải
chứng minh.
[3.2] Do Công ty B không thanh toán theo đúng Hợp đồng nguyên tắc đã ký nên
ngày 16/9/2024, Công ty A khởi kiện đối với Công ty B tại Tòa án nhân dân TP Biên
Hòa, tỉnh Đồng Nai (nay là Tòa án nhân dân Khu vực 1 – Đồng Nai). Ngày 23/10/2024,
Tòa án nhân dân TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai (nay là Tòa án nhân dân Khu vực 1 –
Đồng Nai) đã tiến hành thụ lý vụ án, tống đạt cho các đương sự. Trong quá trình Tòa
án nhân dân TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai (nay là Tòa án nhân dân Khu vực 1 – Đồng
Nai) giải quyết vụ án, ngày 25/11/2024, giữa Công ty A và Công ty B đã thống nhất,
lập Biên bản cam kết trả nợ số 01/2024/NLV-TV-PLAK.
[3.3] Theo nội dung Biên bản cam kết trả nợ số 01/2024/NLV-TV-PLAK ngày
25/11/2024 (thỏa thuận của 03 Công ty là Công ty B, Công ty TNHH Sản xuất Thương
mại XNK Tống Việt và Công ty A), các bên thống nhất: Công ty B xác nhận còn nợ
Công ty A số tiền 2.006.665.210 đồng; ngày 26/11/2024, Công ty B sẽ chuyển trả cho
Công ty A 200.000.000 đồng; từ tháng 4/2025 trở đi, mỗi tháng Công B và Công ty
Tống Việt sẽ trả cho Công ty A 30.000.000 đồng; trong thời gian thực hiện cam kết,
Công ty A không được thực hiện những hành vi trái pháp luật đối với Công ty B và
không được gửi bất kỳ đơn kiện về vấn đề gì lên tòa án đối với Công ty B; hai bên cam
kết thực hiện đúng theo thỏa thuận của biên bản, nếu bên nào vi phạm thì bên đó phải
chịu trách nhiệm trước pháp luật. Cuối Biên bản, các bên đã ký tên và đóng dấu pháp
nhân.
[3.4] Như vậy, trong quá trình giải quyết vụ án, các bên đã thỏa thuận được với
nhau về việc giải quyết vụ án nhưng không thông báo, không đề nghị Tòa án tiến hành
thủ tục hòa giải để công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Sau đó, Công ty A thay
đổi, không đồng ý thực hiện theo Biên bản cam kết trả nợ số 01/2024/NLV-TV-PLAK
ngày 25/11/2024 và yêu cầu Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án theo quy định của pháp
luật.
Việc Công ty A thay đổi thỏa thuận và đề nghị Tòa án tiếp tục giải quyết theo
quy định pháp luật là phù hợp với nguyên tắc quyền tự định đoạt của các đương sự,
cấp sơ thẩm vẫn xem xét, giải quyết theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đã được
Tòa án tiến hành thụ lý là đúng quy định.
[3.5] Sau khi trả 200.000.000 đồng, Công ty B còn nợ lại 1.806.665.210 đồng.
Tại phiên tòa sơ thẩm, Công ty B đề nghị được trả dần số tiền gốc, mỗi tháng là
30.000.000 đồng, nhưng không được Công ty A chấp nhận. Công ty A cũng đưa ra
phương án nếu Công ty B thanh toán mỗi tháng 200.000.000đ cho đến khi thanh toán
xong 1.806.665.210 đồng, thì nguyên đơn không yêu cầu tính lãi chậm trả, nhưng Công
ty B không đồng ý. Do các bên đương sự không thỏa thuận được với nhau về phương
thức thanh toán, nên cấp sơ thẩm buộc các bên phải thực hiện theo các hợp đồng nguyên

6
tắc đã ký là phù hợp.
Tại đơn khởi kiện ngày 16/9/2024, nguyên đơn yêu cầu Tòa án tính lãi từ ngày
03/02/2024 và tạm tính đến ngày 03/8/2024 (06 tháng) với mức lãi suất 20%/năm. Quá
trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm, trong Biên bản hòa giải, nguyên đơn yêu cầu
Tòa án tình lãi suất theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa sơ thẩm, Công ty A yêu
cầu Công ty B phải thanh toán tiền lãi chậm trả từ ngày 28/6/2023 (60 ngày kể từ
ngày xuất hóa đơn cuối cùng theo thỏa thuận trong hợp đồng nguyên tắc) với mức lãi
suất 12%/năm là thuộc trường hợp thay đổi yêu cầu khởi kiện nên được chấp nhận.
Mức lãi suất nguyên đơn yêu cầu Tòa án tính 12%/năm thấp hơn mức lãi suất nợ quá
hạn trung bình trên thị trường là 12,345%/năm là có lợi cho phía bị đơn. Do đó, cấp
sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty A, buộc Công ty B phải thanh toán
cho Công ty A các khoản sau:
Số tiền nợ gốc là 1.806.665.210 đồng; tiền lãi do chậm thực hiện nghĩa vụ
thanh toán từ ngày 28/6/2023 đến khi xét xử là: 1.806.665.210 đồng x 12%/năm x 01
năm 09 tháng = 379.399.693 đồng. Tổng tiền gốc và lãi là: 2.186.064.903 đồng là phù
hợp.
Công ty B kháng cáo yêu cầu Tòa án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn; yêu cầu Tòa án công nhận Biên bản cam kết trả nợ số 01/2024/NLV-TV-
PLAK ngày 25/11/2024 là không có căn cứ nên không chấp nhận.
[4] Án phí KDTM - PT: Do không chấp nhận kháng cáo nên Công ty B phải nộp
2.000.000 đồng tiền án phí Kinh doanh thương mại phúc thẩm, được trừ vào tiền tạm
ứng án phí đã nộp.
[5] Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai phù hợp
với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
[6] Xét quan điểm của các luật sư bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bị đơn
không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1/ Căn cứ khoản 1 Điều 308; Điều 313 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Không chấp nhận kháng cáo của Công ty TNHH Sản xuất – Thương mại B. Giữ
nguyên bản án Kinh doanh thương mại sơ thẩm số 14/2025/KDTM-ST ngày 28/3/2025
của Tòa án nhân dân TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai (nay là Tòa án nhân dân Khu vực 1
– Đồng Nai).
2/ Căn cứ vào khoản 1 Điều 30, Điều 35, Điều 39, khoản 4 Điều 70, khoản 2
Điều 71, Điều 244, Điều 266 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 24, Điều 34,
Điều 50, Điều 55, Điều 306 Luật Thương mại năm 2005; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH một thành viên A.
Buộc Công ty TNHH Sản xuất Thương mại XNK B phải thanh toán cho Công
ty TNHH một thành viên A số tiền gốc là 1.806.665.210 đồng (một tỷ, tám trăm lẻ sáu

7
triệu, sáu trăm sáu mươi lăm ngàn, hai trăm mười đồng) và tiền lãi do chậm thanh toán
là 379.399.693 đồng (ba trăm bảy mươi chín triệu, ba trăm chín mươi chín ngàn, sáu
trăm chín mươi ba đồng). Tổng cộng là: 2.186.064.903 đồng (hai tỷ, một trăm tám
mươi sáu triệu, không trăm sáu mươi bốn ngàn, chín trăm lẻ ba đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi
thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu
khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất nợ quá hạn trung bình
trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
2. Về án phí:
- Về án phí KDTM - ST: Công ty TNHH Sản xuất thương mại XNK B phải
chịu 75.721.298 đồng (bảy mươi lăm triệu, bảy trăm hai mươi mốt ngàn, hai trăm chín
mươi tám đồng) án phí kinh doanh thương mại sơ thẩm.
Hoàn trả cho Công ty TNHH một thành viên A số tiền tạm ứng án phí đã nộp là
38.073.317 đồng (ba mươi tám triệu, không trăm bảy mươi ba ngàn, ba trăm mười bảy
đồng) tại Biên lai số 0004241 ngày 15/10/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thành
phố Biên Hòa (nay là Phòng Thi hành án dân sự Khu vực 1 – Đồng Nai).
- Án phí KDTM - PT: Công ty TNHH Sản xuất thương mại XNK B phải nộp
2.000.000 đồng tiền án phí Kinh doanh thương mại phúc thẩm, được trừ vào tiền tạm
ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số 0006638 ngày 17/4/2025 của Chi cục Thi hành
án dân sự thành phố Biên Hòa (nay là Phòng Thi hành án dân sự Khu vực 1 – Đồng
Nai).
3. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc
bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự;
thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân
sự.
4/ Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Đương sự;
- VKSND T. Đồng Nai;
- TAND Khu vực 1 – Đồng Nai;
- VKSND Khu vực 1 – Đồng Nai;
- Phòng THADS Khu vực 1 – Đồng Nai;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TOÀ
Nguyễn Đình Trung
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 29/08/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 19/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 09/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 04/06/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 19/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 09/05/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 18/04/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 22/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 10/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 08/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 26/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 18/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm