Bản án số 34/2022/HNGĐ-ST ngày 22/09/2022 của TAND TP. Chí Linh, tỉnh Hải Dương
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 34/2022/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 34/2022/HNGĐ-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 34/2022/HNGĐ-ST ngày 22/09/2022 của TAND TP. Chí Linh, tỉnh Hải Dương |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND TP. Chí Linh (TAND tỉnh Hải Dương) |
| Số hiệu: | 34/2022/HNGĐ-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 22/09/2022 |
| Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ/việc: |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ CHÍ LINH
TỈNH HẢI DƯƠNG
Bản án số:34/2022/HNGĐ- ST
Ngày: 22-9-2022
V/v
"
thay đổi người trực tiếp
nuôi con sau khi ly hôn"
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CHÍ LINH- TỈNH HẢI DƯƠNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Nguyệt
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Nguyễn Trường Ca và bà Vũ Thị Linh
- Thư ký phiên tòa: Bà Mạc Thị Thủy- Thư ký Tòa án
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân
thành phố Chí Linh, tỉnh Hải
Dương tham gia phiên toà: Bà Vũ Thị Lệ- Kiểm sát viên.
Ngày 22 tháng 9 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Chí
Linh xét xử sơ thẩm công khai
vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số:
162/2022/TLST- HNGĐ ngày 26 tháng 7 năm 2022 về việc
"
thay đổi người trực
tiếp nuôi con sau khi ly hôn ".
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 42/2022/QĐXX-ST ngày 07
tháng 9 năm 2022 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Anh Vũ Văn C, sinh năm 1991
Nơi cư trú: Thôn Y, xã Y2, huyện P, tỉnh Bắc Ninh
- Bị đơn: Chị Vũ Việt P, sinh năm 1992
ĐKHKTT: Khu dân cư N, phường S, thành phố C, tỉnh Hải Dương
Hiện đang tạm giam tại trại giam quân khu 3 (địa chỉ: Tổ 4, thị trấn Ba
Sao, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam)
Người được ủy quyền của chị Vũ Việt P và người làm chứng:
Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1971
Địa chỉ: Khu dân cư N, phường S, thành phố C, tỉnh Hải Dương
( Anh C có mặt, bà L, chị P vắng mặt có đề nghị xét xử vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
2
Theo đơn khởi kiện đề ngày 26-7-2022 và trong quá trình Tòa án giải
quyết vụ án nguyên đơn là anh Vũ Văn C trình bày: Anh và chị Vũ Việt P kết
hôn vào năm 2014. Anh chị có 01 con chung là Vũ Thị Hồng Ánh, sinh ngày
07-12-2015. Do cuộc sống vợ chồng không có hạnh phúc nên anh chị đã ly hôn
tại Tòa án nhân dân huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. Tại Quyết định số 28
ngày 3-5-2017 đã quyết định giao cháu Vũ Thị Hồng A cho chị Vũ Việt P nuôi
dưỡng. Hàng tháng anh phải có nghĩa vụ cấp dưỡng là 1.000.000 đồng/tháng từ
tháng 5-2017 đến khi cháu A trưởng thành đủ 18 tuổi. Kể từ khi ly hôn chị P
chăm sóc cháu không ảnh hưởng gì đến cuộc sống của cháu. Tuy nhiên đến năm
2022 anh được biết chị P bị tạm giam quân khu 3. Do vậy chị P không thể trực
tiếp nuôi con được. Cháu A đang được mẹ đẻ chị P chăm sóc. Tuy nhiên việc bà
ngoại chăm sóc cháu không đảm bảo được việc giáo dục và chăm lo cho cháu.
Cháu A học hành ngày một xa xút. Chị P nói kể từ khi ly hôn anh không chăm
sóc con là không đúng. Vì anh vẫn thăm nom cháu. Việc cấp dưỡng hàng tháng
anh không đưa trực tiếp cho chị P nhưng bố mẹ đẻ anh vẫn đưa tiền cho chị nuôi
cháu. Chị P yêu cầu trả tiền cấp dưỡng theo mức 1.000.000 đồng/ tháng kể từ
khi ly hôn đến tháng 9 -2022 anh đồng ý.
Nay quan điểm của anh đề nghị Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con.
Vì thực tế hiện nay chị P không đủ điều kiện để chăm sóc nuôi dưỡng cháu. Anh
tự nguyện không yêu cầu chị P phải cấp dưỡng nuôi con chung. Hiện nay anh
đang làm kinh doanh nhỏ thu nhập hàng tháng ổn định khoảng 20.000.000 đồng.
Anh có nhà riêng và chưa kết hôn với ai nên anh đủ điều kiện để chăm sóc cháu.
Bị đơn là chị Vũ Việt P trình bày: Chị và anh Vũ Văn C ly hôn vào năm
2016. Tòa án đã giao con là Vũ Thị Hồng A, sinh ngày 07-12-2015 cho chị nuôi
dưỡng. Anh C có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con là 1.000.000 đồng/tháng. Kể từ
khi ly hôn chị vẫn luôn đảm bảo cho cháu A được ăn mặc, sinh hoạt, vui chơi cũng
như giáo dục cháu được tốt. Hiện nay cháu đang ở cùng với mẹ đẻ chị là bà
Nguyễn Thị L. Chị bị tạm giam từ tháng 7-2021 về tội sử dụng trái phép chất ma
túy. Tuy nhiên chị vẫn đảm bảo được việc chăm sóc con. Chị có gửi
200.000.000 đồng cho mẹ chị để nuôi dưỡng cháu trong thời gian
chị đi vắng. Khi bị tạm giam tại trạm tạm giam quân khu 3 chị đã làm giấy ủy
quyền cho bà L được thay mặt chị chăm sóc và nuôi dưỡng cháu.
Kể từ khi ly hôn anh C không có trách nhiệm với cháu. Chưa lần nào thực
hiện nghĩa vụ chu cấp đối với cháu A và cũng không thăm nom chăm sóc khi
cháu ốm đau hay quan tâm việc học hành của cháu như một người bố đáng lẽ
3
phải làm. Lý do chị và anh C ly hôn là do anh C có hành vi bạo hành gia đình
với chị. Anh C có sử dụng ma túy trong thời gian chị và anh chung sống. Chị
không đồng ý thay đổi người trực tiếp nuôi con. Chị yêu cầu anh C phải hoàn trả
đầy đủ số tiền cấp dưỡng nuôi con trong suốt 7 năm qua và thực hiện đầy đủ chu
cấp hàng tháng để mẹ chị nuôi cháu trong thời gian chị vắng mặt. Thời gian
trước đây chị nuôi con đảm bảo đầy đủ nên không làm đơn yêu cầu thi hành án.
Do điều kiện hiện nay chị đang bị tạm giam nên đề nghị Tòa án xem xét giải
quyết vụ án vắng mặt chị. Chị ủy quyền cho mẹ chị thay mặt chị tham gia phiên
tòa.
Bà Nguyễn Thị L mẹ đẻ chị P trình bày: Chị P và anh C đã ly hôn vào
năm 2017 tại Tòa án nhân dân huyện Yên Phong tỉnh Bắc Ninh. Theo quyết
định của Tòa án giao cháu Vũ Thị Hồng A cho chị P nuôi dưỡng. Kể từ khi ly
hôn chị P và cháu A ở cùng với bà. Bà giúp đỡ chị P về chỗ ở cũng như chăm
sóc con chung. Chị Pvẫn luôn đảm bảo được điều kiện tốt nhất cho cháu, không
làm ảnh hưởng đến việc phát triển cũng như giáo dục cháu. Bà đề nghị Tòa án
xem xét tiếp tục giao con cho chị P nuôi dưỡng. Bà vẫn đảm bảo việc giúp chị P
chăm sóc cháu. Từ khi ly hôn anh C không quan tâm chăm sóc cháu, chỉ thời
gian gần đây khi chị P gặp chuyện thì anh C mới đón cháu về và đòi quyền nuôi
con. Chị P bị tạm giam tại trại tạm giam quân khu 3 về tội liên quan đến ma túy.
Bà không biết tội danh gì. Khi chị P bị tạm giam chị đã có giấy ủy quyền giao
lại con cho bà chăm sóc trong thời gian này.
Đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật. Bà đồng ý
nhận sự ủy quyền của chị Ptham gia phiên tòa nhưng do bận công việc nên bà đề
nghị xét xử vắng mặt bà.
Tại phiên tòa anh C vẫn giữ nguyên quan điểm như đã trình bày tại quá
trình giải quyết vụ án. Anh xác định tại phiên tòa đã thanh toán xong tiền cấp
dưỡng nuôi con co chị Pkể từ tháng 5-2017 đến tháng 9-9022 là 65.000.000
đồng. Mẹ chị P là bà L đã nhận thay. Bị đơn chị P vắng mặt giữ nguyên quan
điểm đã trình bày. Bà L có mặt khi hội đồng xét xử đang nghị án. Bà L đồng ý
tiếp tục nhận sự ủy quyền của chị P. Bà xác định đã nhận đủ số tiền cấp dưỡng
nuôi con kể từ tháng 5-2017 đến tháng 9-2022 là 65.000.000 đồng do anh C
giao. Bà rút không yêu cầu Tòa án giải quyết nội dung này trong vụ án. Sau khi
nhận tiền xong bà L về không tham gia phần tiếp theo của phiên tòa.
Đại diện viện kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân
theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, của

4
những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ
án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án chấp hành đúng quy định
của bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn chấp hành đúng theo quy định của Điều
70, 71 của Bộ luật tố tụng dân sự; bị đơn chấp hành đúng theo quy định tại Điều
70, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về giải quyết vụ án:
Áp dụng Điều 81,82,83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều
147 Bộ luật tố tụng dân sự; Luật phí, lệ phí; Nghị quyết 326/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án
phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc Hội
Thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn. Giao con chung là Vũ
Thị Hồng A, sinh ngày 07-12-2015 cho anh Vũ Văn C được trực tiếp nuôi
dưỡng, thời gian kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi trưởng
thành đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác. Anh C tự nguyện không yêu cầu cấp
dưỡng nuôi con chung.
Về án phí: Anh Vũ Văn C phải chịu án phí 300.000 đồng án phí dân sự
sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1].Về tố tụng : Bị đơn chị Vũ Việt P đã được triệu tập hợp lệ và có đề
nghị xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử căn cứ theo quy định tại khoản 1
Điều 227; khoản 2 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt chị
Phương.
[2].Về quan hệ hôn nhân: Xét yêu cầu của nguyên đơn thì thấy: Anh C và
chị P có 01 con chung là Vũ Thị Hồng A, sinh ngày 07-12-2015. Theo Quyết
định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số
28/2017/QĐST-HNGGĐ này 03-5-2017 của Tòa án nhân dân huyện Yên
Phong, tỉnh Bắc Ninh đã quyết định giao cho chị Vũ Việt P được nuôi cháu Vũ
Thị Hồng A. Do vậy kể từ khi ly hôn đến nay cháu Hồng A do chị P chăm sóc,
nuôi dưỡng. Anh C, chị P cùng xác định cháu A ở với chị P vẫn đảm bảo về
nuôi dưỡng cũng như giáo dục. Tuy nhiên, qua xác minh với cô giáo chủ nhiệm
cháu A tại trường tiểu học Chu Văn An xác định cháu A là học sinh ngoan
ngoãn, lễ phép, không có biểu hiện về ảnh hưởng đến tâm lý. Cháu A có lực học
trung bình – khá. Mẹ cháu bận công việc nên việc đóng góp các khoản thu nộp,
đưa đón cháu, hay trao đổi về việc học tập của cháu chủ yếu là bà ngoại cháu.
Mặt khác thực tế kể từ tháng 7-2021 đến nay chị P bị tạm giam tại trại Tạm

5
giam quân khu 3 nên không thể trực tiếp chăm sóc cháu được. Việc nuôi dưỡng
chăm sóc cháu A đều do bà L mẹ chị P thực hiện.
Đánh giá về điều kiện thực tế hiện nay chị P không thể chăm sóc, giáo
dục cháu Ngọc A bằng anh C. Anh C có nơi ở, công việc ổn định và có sự hỗ trợ
của bố mẹ đẻ. Mặc dù cháu A có ý kiến muốn được ở với mẹ nhưng hiện nay
cháu chưa đủ 7 tuổi nên không phải xem xét nguyện vọng của cháu. Do vậy để
đảm bảo việc chăm sóc, giáo dục cháu được thuận lợi, tốt nhất và cũng là thực
hiện quyền, nghĩa vụ của cha mẹ với con cái nên yêu cầu của anh C về thay đổi
nuôi con sau khi ly hôn là có căn cứ. Áp dụng Điều 84 Luật Hôn nhân và gia
đình giao con chung là Vũ Thị Hồng A, sinh ngày 07-12-2015 cho anh Vũ Văn
C được trực tiếp nuôi dưỡng thời gian kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật cho
đến khi cháu A trưởng thành đủ 18 tuổi.
Về nghĩa vụ cấp dưỡng: Anh C tự nguyện không yêu cầu chị Pcấp dưỡng
nuôi con nên không đặt ra việc giải quyết.
Xét yêu cầu của chị P về việc buộc anh C phải trả số tiền cấp dưỡng nuôi
con là 1.000.000 đồng/tháng thời gian kể từ tháng 5-2017 cho đến tháng 9-2022.
Tại phiên tòa anh C đã trả đủ cho bà L mẹ chị P nhận thay số tiền 65.000.000
đồng. Bà L thay mặt chị P không yêu cầu Tòa án giải quyết nội dung này nên
không đặt ra việc giải quyết.
[3]. Về án phí: Anh Vũ Văn C phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào Điều 81,82,83,84 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147
Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án
của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.
1.Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Vũ Văn C về việc thay đổi người
trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn. Giao con chung là Vũ Thị Hồng A, sinh ngày
07-12-2015 cho anh Vũ Văn C được trực tiếp nuôi dưỡng. Thời gian giao nuôi
con kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi trưởng thành đủ 18 tuổi.
Anh Ctự nguyện không yêu cầu chị P cấp dưỡng nuôi con chung.
Chị Vũ Việt P có quyền nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản
trở.
2. Chị P yêu cầu anh C trả tiền cấp dưỡng từ tháng 5-2017 đến tháng 9-2022.
Anh Cđã thực hiện xong nên không đặt ra việc giải quyết.
6
3.Về án phí: Anh Vũ Văn C phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000
đồng. Đối trừ số tiền anh đã nộp tạm ứng là 300.000 đồng theo Biên lai thu tiền
số 0003070 ngày 26-7-2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Chí Linh.
Anh C đã nộp đủ án phí.
Báo cho nguyên đơn được biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn
15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản
án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án
được niêm yết.
Nơi nhận:
-VKSND thành phố Chí Linh;
- Đương sự;
- Chi cục THADS thành phố Chí Linh;
- Lưu hồ sơ, Tòa án.
T/M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN- CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thị Nguyệt
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 02/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 01/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 01/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 28/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 28/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 27/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 26/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 24/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 24/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 24/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 21/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 21/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 19/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 19/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 17/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm