Bản án số 33/2021/HNGĐ-ST ngày 08/07/2021 của TAND huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa về hôn nhân và gia đình

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 33/2021/HNGĐ-ST

Tên Bản án: Bản án số 33/2021/HNGĐ-ST ngày 08/07/2021 của TAND huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa về hôn nhân và gia đình
Quan hệ pháp luật: Yêu cầu liên quan đến việc mang thai hộ theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Thạch Thành (TAND tỉnh Thanh Hóa)
Số hiệu: 33/2021/HNGĐ-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 08/07/2021
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH THANH HÓA

 BẢN ÁN 33/2021/HNGĐ-ST NGÀY 08/07/2021 VỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH 

Ngày  08 tháng  7  năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Thanh  Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 121/2021/TLST – HNGĐ ngày 30 tháng 3 năm 2021, về việc: Hôn nhân và gia đình, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2021/QĐXX – ST ngày 22 tháng 6 năm 2021 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Vũ Thị M, sinh năm: 1991  Địa chỉ: Thôn T, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa 

* Bị đơn: Anh Hà Văn G, sinh năm: 1985  HKTT: Xóm 2, thị trấn T , huyện T, tỉnh Thanh Hóa 

Chị M và anh G đều có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

*Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và lời khai tại Tòa án, nguyên đơn chị Vũ  Thị M trình bày:

- Về hôn nhân: Chị Vũ Thị M và anh   Hà Văn G kết hôn trên   cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn do Ủy ban nhân dân xã M (nay là Thị trấn T) cấp ngày  28/6/2019  Quá trình vợ chồng chung sống hạnh phúc được 4 tháng thì phát sinh mâu  thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng  bất đồng quan điểm trong cuộc sống, vợ chồng thường xuyên cãi nhau, có lần anh G hành hung chị dẫn đến chị phải điều trị tại  Bệnh viện. Đến năm 2020 mâu thuẫn trầm trọng chị M làm đơn đề nghị Tòa án giải  quyết cho chị được ly hôn với anh G nhưng anh G van xin chị, mong chị cho anh cơ hội sửa sai, vì nghĩ thương con và muốn cho anh G cơ hội thay đổi nên chị đã rút đơn khởi kiện. Tuy nhiên quá trình vợ chồng về chung sống tiếp tục xảy ra nhiều mâu thuẫn, đến đầu năm 2021 không thể tiếp tục chung sống cùng anh G được nữa  nên chị đã về nhà bố mẹ đẻ sống, vợ chồng đã sống ly thân từ đó cho đến nay, không quan tâm đến nhau, cuộc sống của ai người đó tự lo.

Nay chị M xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết  cho ly hôn.

-   Về con chung: Vợ chồng có 1 con chung là cháu Hà Bảo N, sinh ngày  23/1/2020. Hiện nay cháu đang sống cùng anh G.

Tại đơn khởi kiện chị đề nghị để anh G trực tiếp nuôi dưỡng con chung vì thời điểm  đó chị bị tai nạn giao thông, phải điều trị dài ngày nên không thể chăm sóc cho cháu được, nay chị đã khỏe mạnh, có thể chăm sóc, nuôi dưỡng cháu N. Hiện tại cháu đang còn nhỏ mới hơn 1 tuổi nên nguyện vọng của chị M là được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, vì bản thân chị đã có nhà riêng, buôn bán hoa qủa tại chợ, sắp tới chị  mở cửa hàng tạp hóa  tại nhà, thu nhập bình quân mỗi tháng từ  6.000.000đ đến 7.000.000đ / 01 tháng .

Về cấp dưỡng nôi con chung: Chị M yêu cầu anh G cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 1.000.000đ  - Về tài sản chung: Chị M không yêu cầu Tòa án giải quyết  * Tại bản tự khai, lời khai tại Tòa án và tại phiên tòa, bị đơn anh Hà Văn G  trình bày:

- Về hôn nhân: Anh G và chị M kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn như chị M trình bày lá đúng.

Quá trình chung sống xảy ra nhiều mâu thuẫn, nhưng anh vẫn còn thương yêu  chị M và mong muốn chị M suy nghĩ lại và quay về chung sống cùng anh và con.

Nếu chị M vẫn cương quyết xin ly hôn thì anh đồng ý.

- Về con chung: Vợ chồng có 1 con chung như chị M trình bày là đúng. Nay  nếu phải ly hôn nguyện vọng của anh là được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, vì từ đầu năm 2021 đến nay chị M bỏ về quê  ở xã T sống, để cháu lại cho anh và bố mẹ anh trực tiếp nuôi dưỡng,  lúc cháu ốm chị cũng không về thăm cháu nên anh không đồng ý để chị M trực tiếp nuôi dưỡng cháu N. Hiện nay anh đang làm thợ cơ khí thu nhập  ổn định, bình quân mỗi tháng 8.000.000đ, nên có đủ điều kiện để chăm sóc, nuôi dưỡng con chung.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Nếu được nuôi con, anh không yêu cầu chị M  cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản: Anh G cũng không yêu cầu Tòa án giải quyết 

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

[1] Về hôn nhân:

Chị Vũ Thị M và anh Hà Văn G kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết  hôn do Ủy ban nhân dân xã M (nay là thị trấn T), huyện T, tỉnh Thanh Hóa cấp ngày  28/6/2019, như vậy quan hệ hôn nhân giữa chị M và anh G là hôn nhân hợp pháp.

Quá trình vợ chồng chung sống thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm, trong cuộc sống thường xảy ra va chạm dẫn đến bạo lực trong gia đình. Đến đầu năm 2021 mâu thuẫn trầm trọng, vợ chồng  sống ly thân từ đó cho đến nay, không ai quan tâm đến ai, cuộc sống của ai người đó   tự lo, điều đó chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được.

Nay chị M xét thấy tình cảm vợ chồng  không còn đề nghị Tòa án giải quyết  cho ly hôn, anh M cũng cho rằng vợ chồng chung sống thường xuyên xảy ra mâu thuẫn nhưng anh vẫn mong muốn vợ chồng về đoàn tụ để cùng nuôi dạy con chung.

Nếu chị M vẫn cương quyết xin ly hôn thì anh cũng đồng ý.

Xét thấy việc thuận tình ly hôn giữa chị M và anh G là hoàn toàn tự nguyện, nên căn cứ vào Điều 55 Luật hôn nhân gia đình xử công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Vũ Thị M và anh Hà Văn G  [2] Về con chung:

Vợ chồng có 01 con chung là cháu Hà Bảo N, sinh ngày 23/01/2020. Chị M  và anh G đều có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung.

Xét thấy yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung của chị M và anh G đều chính đáng, tuy nhiên cháu Bảo N hiện tại mới được gần 18 tháng tuổi, chị M không đồng ý để anh  G trực tiếp nuôi dưỡng cháu Bảo N, nên căn cứ vào khoản 3  Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của chị M, giao cháu Bảo N  cho chị M trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị M yêu cầu anh Giáp cấp dưỡng nuôi  con chung  mỗi  tháng  1.000.000đ.  Anh  G  chỉ  đồng  ý  mức  cấp  dưỡng  mỗi  tháng  500.000đ.

Xét thấy hiện tại anh G đang làm thợ cơ khí, thu nhập mỗi tháng 8.000.000đ, mức cấp dưỡng anh G đưa ra 500.000đ/01 tháng là quá thấp, không đủ để phụ giúp cùng chị M nuôi con chung. Do đó chấp nhận yêu cầu của chị M, buộc anh G phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị M mỗi tháng 1.000.000đ.

[3] Về tài sản:

Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không  xem xét.

[4] Án phí: Các đương sự phải chịu án phí theo quy định của pháp luật

  Vì các lẽ trên :

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ vào khoản 4 Điều 147, Điều   271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 55,  81,82,83  Luật  hôn  nhân  và  gia  đình;  điểm  a  khoản  5  Điều  27  Nghị  quyết  326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu nộp, quản lý về án phí, lệ phí Tòa án.

- Về hôn nhân: Xử công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Vũ Thị M và anh  Hà Văn G.

- Về con chung: Giao cháu Hà Bảo N, sinh ngày 23 tháng 01 năm 2020 cho  chị Vũ Thị M trực tiếp nuôi dưỡng.

Buộc anh Hà Văn G phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Vũ Thị M mỗi tháng 1.000.000đ, kể từ tháng 7 năm 2021 cho đến  khi cháu Bảo N đủ 18 tuổi.

Anh Hà Văn G được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở. Trong quá trình nuôi dưỡng, nếu chị M không đủ điều kiện trực tiếp nuôi  dưỡng con chung thì anh G có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con.

-  Về án phí: Chị Vũ M phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền đã nộp tạm ứng là 300.000đ tại biên lai số 0013590  ngày 29/3/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện T. Chị M đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Anh Hà Văn G phải chịu 300.000đ án phí cấp dưỡng nuôi con chung.

Các đương sự có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày  tuyên án. Viện kiểm sát được quyền kháng nghị theo quy định của pháp luật.

Tải về
Bản án số 33/2021/HNGĐ-ST Bản án số 33/2021/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất