Bản án số 33/2021/HNGĐ-ST ngày 29/07/2021 của TAND huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh về hôn nhân và gia đình

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 33/2021/HNGĐ-ST

Tên Bản án: Bản án số 33/2021/HNGĐ-ST ngày 29/07/2021 của TAND huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh về hôn nhân và gia đình
Quan hệ pháp luật: Yêu cầu liên quan đến việc mang thai hộ theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Quế Võ (TAND tỉnh Bắc Ninh)
Số hiệu: 33/2021/HNGĐ-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 29/07/2021
Lĩnh vực: Hôn nhân gia đình
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Trần Thị Lệ _ Nguyễn Bá Chanh " Tranh chấp Hôn nhân và gia đình"
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN QUẾ VÕ
TỈNH BẮC NINH
_____________
Bản án số: 33/2021/HNGĐ-ST
Ngày 29 tháng 7 năm 2021
V/v “Hôn nhân và gia đình
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do -Hạnh phúc
_______________________________________
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH
- Với thành phần hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - chủ toạ phiên toà: Nguyễn Thị Liên
Các hội thẩm nhân dân: Bà Ngô Thùy Phương và bà Nguyễn Thị Chung
- Thư ký phiên toà: Bà Vũ Thị Hòa - Thư ký TAND huyện QV
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện QV, tỉnh BN tham gia phiên
tòa: Bà Đặng Thị Kim Phụng Kiểm sát viên.
Ngày 29 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện QV, tỉnh BN mở
phiên toà công khai xét xử thẩm vụ án hôn nhân gia đình thụ số
198/2021/TLST- HNGĐ ngày 29 tháng 4 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra
xét xử số: 35/2021/QĐST- HNGĐ ngày 09 tháng 7 năm 2021 quyết định hoãn
phiên tòa số 12/2021/QĐST-HNGĐ ngày 23 tháng 7 năm 2021, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Trần Thị L, sinh năm 1993 (có mặt)
SQ: Thôn Quấy Mỡ, xã NH, huyện NT, tỉnh VP
HKTT: Thôn , xã , huyện QV, tỉnh BN
- Bị đơn: Anh Nguyễn Bá C, sinh năm 1990 (vắng mặt)
STQ: Thôn , xã , huyện QV, tỉnh BN
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn chị Trần Thị L trình
bày: Chị anh Nguyễn C được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục
tập quán địa phương ngày 22/02/2019. Trước khi cưới anh chị được tự nguyện
tìm hiểu được UBND xã cấp giấy chứng nhận kết hôn theo quy định của
pháp luật. Sau ngày cưới vchồng về chung sống cùng nhau hòa thuận, hạnh phúc
đến khoảng tháng 02/2021 bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do bất đồng
về quan điểm sống dẫn đến lời qua tiếng lại anh C đã đánh chị. Chị nghĩ về
con nên đã bỏ qua cho anh C, tuy nhiên đến ngày 08/3/2021, anh C tiếp tục đánh chị
sau đó chị lại phát hiện anh C nhắn tin xưng vợ chồng qua lại với người
phụ nữ khác nên chị con đã bỏ ra ngoài thuê trọ ở. Sau khi mẹ con chị đi chỗ
khác, anh C cũng không hề hỏi han ý định đón mẹ con chị về chung sống.
Nay chị nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm
trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị
được ly hôn với anh Nguyễn Bá C.
Về con chung: Vợ chồng chị sinh được 01 con chung Nguyễn Trần An
2
Na, sinh ngày 05/4/2020. Hiện con chung đang do chị nuôi dưỡng. Tại đơn khởi
kiện chị yêu cầu anh C trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con 3.000.000đ/ 1
tháng. Tuy nhiên, quán trình giải quyết chị đã rút yêu cầu về cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung, công nợ, công sức: Chị xác nhận, trong thời gian chung
sống vợ chồng không tạo lập được khối tài sản chung nào, hiện vợ chồng không nợ
ai và không ai nợ vợ chồng nên không đề nghị Tòa án giải quyết.
Quá trình giải quyết vụ án, mặc đã được Tòa án triệu tập hợp L nhưng anh
C cố tình vắng mặt không phối hợp để giải quyết. Tòa án đã tiến hành xác minh
tại địa phương, đại diện thôn cho biết thực trạng hôn nhân của chị Trần Thị L
và anh Nguyễn Bá C như sau:
Anh Nguyễn C chị Trần Thị L đều công dân thôn quan h
hôn nhân hợp pháp. Trong thời gian anh chị chung sống tại địa phương phát sinh
mâu thuẫn, nguyên nhân do đâu thì địa phương không nắm được. Hiện chị L đưa
con chung của hai người ra thuê trọ không chung sống cùng anh C. Anh C làm
công nhân, bố mẹ anh C làm lao động tự do nên ít khi nhà, hiện anh C sống một
mình tại thôn , , huyện QV.
Trưởng thôn cũng xác nhận đã nhận các thông báo triệu tập của Tòa án về
việc báo gọi anh C lên Tòa để giải quyết việc ly hôn theo yêu cầu của chị L. Ông đã
thông báo trực tiếp giao giấy triệu tập cho anh C để anh C thực hiện quyền
nghĩa vụ của mình.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã mở phiên họp tiếp cận công khai chứng
cứ hòa giải nhưng anh C đều không mặt nên Tòa án không tiến hành hòa giải
được.
Tại phiên toà hôm nay chị Trần Thị L vẫn giữ nguyên yêu cầu xin được ly hôn
với anh Nguyễn Bá C và nguyện vọng được nuôi dưỡng con chung.
Đại diện VKSND huyện QV tham gia phiên toà nhận xét:
Về tố tụng: Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ đến trước khi Hội
đồng xét xử nghị án thấy rằng Thẩm phán đã chấp hành đúng các quy định tại Điều
48 Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án; việc thu thập chứng cứ
đầy đủ, khách quan, đảm bảo trình tự thtục tố tụng dân sự. Thư phiên tòa thực
hiện đúng các quy định tại Điều 51 Bộ luật tố tụng dân sự.
Tại phiên toà HĐXX đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân
sự, đảm bảo nguyên tắc xét xử công khai bằng lời nói và liên tục.
Nguyên đơn từ khi thụ lý vụ án đến phiên tòa hôm nay đã thực hiện đúng quy
định tại Điều 70, Điều 71 và Điều 234 Bộ luật tố tụng dân sự.
Bị đơn không thực hiện đúng các quyền nghĩa vụ của mình theo quy định
tại Điều 70, Điều 72 Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đề nghị áp dụng Điều 51, Điều 56, Điều 81,82,83 Luật hôn nhân
gia đình. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội
Đề nghị xử cho chị Trần Thị L được ly hôn với anh Nguyễn Bá C
3
Con chung: Giao cho chị Trần Thị L nuôi dưỡng, chăm sóc cháu Nguyễn Trần
An Na, sinh ngày 05/4/2020. Cấp dưỡng nuôi con không đặt ra giải quyết. Anh C
được đi lại thăm nom con chung theo quy định của pháp luật.
Tài sản chung, công nợ, công sức: Không đặt ra giải quyết.
Về án phí: Chị Trần Thị L phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án được thẩm tra tại phiên
toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án, anh Nguyễn C đã được Tòa án tống
đạt văn bản tố tụng hợp L theo quy định tại Điều 177 Bộ luật tố tụng dân sự nhưng
đều vắng mặt không do. Tại phiên tòa hôm nay, mặc đã được giao giấy
triệu tập phiên tòa hợp L lần thứ 2 nhưng anh C vẫn vắng mặt. vậy, Hội đồng xét
xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ
luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Chị Trần Thị L và anh Nguyễn Bá C kết hôn trên cơ sở tự nguyện
được UBND cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 26/01/2019 tại quyển số
01/2019, việc kết hôn đảm bảo mọi điều kiện kết hôn theo theo quy định của pháp
luật, vậy đây hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, anh chị về chung sống hòa
thuận, hạnh phúc đến tháng 02/2021 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ
chồng bất đồng quan điểm sống, cách sống, vợ chồng thường đánh cãi chửi nhau.
Ngoài ra, theo chị L, anh C quan hệ bất chính với người phụ nữ khác thường
xuyên nhắn tin xưng h chồng – vợ với nhau dẫn đến cuộc sống hôn nhân không
hạnh phúc, vợ chồng mất dần lòng tin sự tôn trọng lẫn nhau. Trong thời gian chị
L làm đơn xin ly hôn gửi Tòa án, anh C đã biết nhận được những thông báo của
Tòa án nhưng anh C không quan điểm ràng về quan hhôn nhân, không
biện pháp để hàn gắn tình cảm vợ chồng và đều cố tình vắng mặt trong các buổi làm
việc. Chứng tỏ anh C cũng mặc nhiên và không còn quan tâm gì đến hạnh phúc gia
đình.
Qua xác minh tại địa phương cũng xác định được chị Trần Thị L anh
Nguyễn Bá C được đăng kết hôn hợp pháp chung sống cùng nhau từ năm
2019 đến đầu năm 2021. Trong thời gian chung sống, anh chị phát sinh mâu
thuẫn không thì địa phương không nắm được do không nhận được phản ánh với
chính quyền địa phương. Tuy nhiên, địa phương biết hiện chị L không còn sống
chung cùng anh C.
Hội đồng xét xử nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Trần Thị L anh
Nguyễn Bá C là có thật trên thực tế, hiện tại vợ chồng đã sống ly thân và không còn
khả năng đoàn tụ. Tại phiên tòa, chị L xác định tình cảm vợ chồng không còn giữ
nguyên yêu cầu xin được ly hôn với anh C. Xét yêu cầu xin ly hôn của chị L là hoàn
toàn phù hợp với thực tế cuộc sống vợ chồng, phù hợp với các quy định của pháp
luật nên cần chấp nhận.
- Về con chung: Anh chị sinh được 01 con chung Nguyễn Trần An Na, sinh
ngày 05/4/2020. Hiện con chung đang do chị L chăm sóc nuôi dưỡng. Quá trình
giải quyết vụ án, chị L nguyện vọng được nuôi dưỡng con chung. Qua thực tế,
cháu An Na đang được chị L chăm sóc nuôi dưỡng ổn định, hiện tại cháu còn
4
nhỏ rất cần squan tâm, chăm sóc từ người mẹ. Bản thân chị L cũng công
việc ổn định đủ điều kiện để chăm sóc nuôi dưỡng cháu. Ngoài ra, trong
quá trình giải quyết, anh C đã vắng mặt trong tất cả các buổi làm việc và không đưa
ra bất cứ quan điểm nào nên không căn cứ để giao con cho anh C. Do đó cần
thiết giao con chung là cháu An Na cho chị L tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo
dục là phù hợp.
Cấp dưỡng nuôi con: Tại đơn khởi kiện, chị L đề nghị Tòa án giải quyết
buộc anh C có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con 3.000.000đ/ 1 tháng. Tuy nhiên, quá
trình giải quyết tại phiên tòa hôm nay chị L rút yêu cầu không đề nghị anh C
phải cấp dưỡng nuôi con nên Tòa án không đặt ra giải quyết.
- Tài sản chung, công nợ, công sức: Đương sự không yêu cầu nên Tòa án không
đề cập giải quyết.
- Án phí: Chị Trần Thị L phải chịu án ptheo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Áp dụng: Khoản 1 Điều 28; Khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ
luật tố tụng dân sự. Điều 51; Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân
gia đình năm 2014; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Xử:
Về quan hệ vợ chồng: Chị Trần Thị L được ly hôn với anh Nguyễn Bá C.
Con chung: Giao con chung là Nguyễn Trần An Na, sinh ngày 05/4/2020 cho
chị Trần Thị L tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục. Cấp dưỡng nuôi con
không đặt ra giải quyết. Anh Nguyễn C quyền đi lại thăm nom con chung
theo quy định của pháp luật và không ai được cản trở anh C thực hiện quyền này.
Về tài sản chung, công nợ, công sức: Không đặt ra giải quyết.
Án phí: Chị Trần Thị L phải chịu 300.000đ án phí ly n thẩm. Xác nhận
chị L đã nộp 300.000đ tạm ứng án phí tại biên lai số AA/2020/0002674 ngày
29/4/2021 của Chi cục THA dân sự huyện QV, tỉnh BN.
Nguyên đơn mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên
án. Bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận
được tống đạt bản án hoặc niêm yết công khai.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh BN;
- VKSND huyện QV;
- Chi cục THA huyện QV;
- Những người tham gia tố tụng;
- Lưu hồ sơ vụ án.
T/M HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Thị Liên
5
Tải về
Bản án số 33/2021/HNGĐ-ST Bản án số 33/2021/HNGĐ-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất