Bản án số 315/2024/DS-PT ngày 21/10/2024 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp quyền sử dụng đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 315/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 315/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 315/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 315/2024/DS-PT ngày 21/10/2024 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về tranh chấp quyền sử dụng đất |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp quyền sử dụng đất |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại Đà Nẵng |
Số hiệu: | 315/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 21/10/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; không chấp nhận Kháng cáo và Kháng nghị, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 41/2024/DS-ST ngày 05 tháng 6 năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Tấn Long
Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Văn Tào
Ông Phạm Ngọc Thái
- Thư ký phiên tòa: bà Đoàn Thị Thu Hiền - Thư ký Tòa án nhân dân cấp cao
tại Đà Nẵng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tham gia phiên
tòa: ông Lê Ra - Kiểm sát viên.
Ngày 21 tháng 10 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng,
xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 135/2024/TLPT-DS ngày
12 tháng 7 năm 2024 về việc“Tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.Do bản án dân sự sơ thẩm số
41/2024/DS-ST ngày 05 tháng 6 năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng
Bình bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1958/2024/QĐ-PT ngày 02 tháng 10
năm 2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: ông Hoàng Văn L, sinh năm 1938 và bà Phạm Thị M, sinh
năm 1954; địa chỉ: Thôn F, xã X, huyện B, tỉnh Quảng Bình; bà Phạm Thị
M có mặt, ông L uỷ quyền tham gia tố tụng cho bà M.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: bà Trần Thị A -
Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Q,
có mặt.
2. Bị đơn: ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1957 và bà Hoàng Thị S, sinh năm
1954; địa chỉ: Thôn F, xã X, huyện B, tỉnh Quảng Bình; đều có đơn đề nghị
xét xử vắng mặt
- Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: ông Nguyễn Văn T1, sinh năm
1990; địa chỉ: Thôn F, xã X, huyện B, tỉnh Quảng Bình và bà Trương Thị Tố
U, sinh năm 1999; địa chỉ: số A D, phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình;
ông T1 có mặt, bà U có đơn xin xét xử vắng mặt.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Luật sư Dương Văn
T2 - Văn phòng Công ty L1, thuộc đoàn Luật sư tỉnh Q; địa chỉ: số A D,
phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Quảng Bình; có mặt
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI ĐÀ NẴNG
Bản án số: 315/2024/DS-PT
Ngày: 21 - 10 - 2024
V/v: “Tranh chấp quyền sử dụng đất
và yêu cầu hủy giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆTNAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
+ Ủy ban nhân dân huyện B, tỉnh Quảng Bình- Người đại diện theo pháp
luật: Ông Hoàng Văn T3- Chủ tịch; có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
+ Ủy ban nhân dân xã X, huyện B, tỉnh Quảng Bình- Đại diện theo ủy quyền
ông Hoàng Hữu T4 - Phó Chủ tịch; có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
4. Người kháng cáo: bị đơn ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1957 và bà Hoàng
Thị S, sinh năm 1954; địa chỉ: Thôn F, xã X, huyện B, tỉnh Quảng Bình; đều
có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
5. Viện kiểm sát kháng nghị: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại
Đà Nẵng.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
[1] Theo bản án sơ thẩm, nội dung được tóm tắt như sau:
- Theo đơn khởi kiện đề ngày 01-11-2023 và quá trình tham gia giải quyết
vụ án nguyên đơn ông Hoàng Văn L, bà Phạm Thị M và người bảo vệ lợi ích
hợp pháp cho nguyên đơn cùng trình bày nội dung:
Thửa đất hiện tại mà vợ chồng ông bà đang sử dụng có nguồn gốc từ ông bà
để lại từ những năm 1976, trên thửa đất này gia đình ông bà đã làm nhà ở
kiên cố và sử dụng ổn định từ những năm 1987 cho đến nay và không tranh
chấp với ai. Năm 2006, gia đình ông bà được cấp GCNQSDĐ số AE 228107;
số vào sổ H03218 do UBND huyện B cấp ngày 17/5/2006 đối với thửa đất
số 07, tờ bản đồ số 11, diện tích 1.288,6 m
2
(gồm: 400 m
2
đất ở nông thôn và
888,6 m
2
đất trồng cây lâu năm) tại Thôn F, xã X, huyện B, tỉnh Quảng Bình
mang tên ông Hoàng Văn L và bà Phạm Thị M. Tại thời điểm được cấp
GCNQSDĐ do không để ý đến các thông số ghi trong giấy chứng nhận, cho
nên đến đầu năm 2023, khi tiến hành thủ tục tách thửa để tặng cho con cái
mới phát hiện sự việc hiện trạng sử dụng đất trên thực tế của gia đình từ trước
đến nay bị thiếu và không trùng khớp với diện tích đất được cấp năm 2006;
trong đó có 01 phần diện tích đất theo kết quả đo vẽ của Tòa án là 208,1m
2
mà gia đình ông bà đã sử dụng từ những năm 1976 cho đến nay đã được cấp
trong GCNQSDĐ tại thửa đất số 06 cho gia đình ông Nguyễn Văn T. Sau
khi phát hiện sự việc, ông bà đã trao đổi với gia đình ông T cùng phối hợp
với nhau để điều chỉnh về diện tích đất được ghi trong GCNQSDĐ đã cấp
cho 02 gia đình đúng với với hiện trạng sử dụng đất của các bên từ xưa đến
nay, nhưng ông T cho rằng diện tích đất đang tranh chấp đã được cấp cho gia
đình ông nên thuộc sở hữu của ông. Qua hòa giải tranh chấp đất đai tại UBND
xã X, ông bà mới được biết gia đình ông T đã được cấp GCNQSDĐ số AE
228106; số vào sổ H03257 do UBND huyện B cấp ngày 17/5/2006 (cùng
thời điểm cấp GCNQSDĐ cho gia đình ông bà) đối với thửa đất số 06, tờ bản
đồ số 11, diện tích 1.486,3m2 tại Thôn F, xã X, huyện B, tỉnh Quảng Bình
và được UBND huyện B cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BL
042016, số vào sổ CH 00527 ngày 30/8/2012. Đối với diện tích 208,1m
2
đang tranh chấp, ông bà sử dụng ổn định từ năm 1976 cho đến nay và trên
diện tích đất gia đình ông, bà đã trồng cây mít, cây huê, cây huynh nhiều năm
tuổi để làm ranh giới tự nhiên giữa hai gia đình và gia đình ông T chưa bao
giờ sử dụng phần đất này. Ngoài ra, trên phần đất đang tranh chấp còn có
3
nhà vệ sinh do ông bà xây dựng từ năm 2007, con đường vào nhà ở hiện tại
(nằm sát thửa đất nhà ông T) được ông bà sử dụng từ năm 1976 tới nay, nhà
ở hiện tại của ông bà được xây dựng từ năm 1987, những tài sản nêu trên
được tạo lập công khai và gia đình ông T không phản đối. Do vậy, phần đất
đang tranh chấp có diện tích 208,1m
2
nêu trên thuộc quyền sở hữu của ông
bà nhưng do có sai sót trong quá trình cấp GCNQSDĐ của cơ quan Nhà nước
đã làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông bà.
Vì vậy, ông bà đề nghị Tòa án giải quyết: Hủy Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số AE 228106; số vào sổ H03257 do UBND huyện B cấp ngày
17/5/2006 và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BL 042016, số vào sổ
CH 00527 do UBND huyện B cấp ngày 30/8/2012 đối với thửa đất số 06, tờ
bản đồ số 11, diện tích 1.486,3m2 tại Thôn F, xã X, huyện B, tỉnh Quảng
Bình mang tên ông Nguyễn Văn T- Nguyễn Thị S1 và buộc gia đình ông T,
bà S1 trả lại cho ông bà phần đất có diện tích 208,1m
2
đang tranh chấp.
- Tại Bản trình bày ý kiến ngày 28/12/2023, Bản tự khai ngày 09/01/2024;
đơn phản tố đề ngày 05/3/2024 và quá trình giải quyết vụ án bị đơn ông
Nguyễn Văn T, bà Hoàng Thị S; đại diện theo ủy quyền của bị đơn ông
Nguyễn Văn T1, Trương Thị Tố U và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho bị đơn Luật sư Dương Văn T2 đều thống nhất trình bày:
Thửa đất của vợ chồng ông bà được bố mẹ cho thừa kế từ khoảng năm 1976,
đến năm 2006 khi được U1 làm thủ tục để cấp sổ, ông bà cùng các hộ dân
khác trong thôn đã tiến hành kê khai và được cấp GCNQSDĐ đất đang sử
dụng hiện nay. Vì vậy, ông bà không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn vì gia đình ông có đầy đủ giấy tờ pháp lý chứng minh diện tích
đất trên thuộc quyền sở hữu của gia đình được thể hiện tại GCNQSDĐ số
BL 042016, số vào sổ CH 00527 do UBND huyện B cấp ngày 30/8/2012 đối
với thửa đất số 06, tờ bản đồ số 11, diện tích 1.486,3m
2
. Tại thời điểm được
cấp GCNQSDĐ, có cán bộ địa chính xã đến tiến hành kiểm tra, đo đạc thực
địa, ông bà có đi theo và xác nhận phần ranh giới đất của mình. Khoảng năm
1975 -1978 ông đi làm công nhân, cho đến năm 1979 - 1981 ông đi bộ đội,
vì nghe thông tin vợ ốm và các còn nhỏ nên xin đơn vị về, thời gian ông đi
theo công việc nhà nước kêu gọi thì ở nhà gia đình ông L đã lấn chiếm diện
tích đất trên mảnh đất của ông, nhưng do chưa có điều kiện và thời gian để
khởi kiện đòi lại diện tích đất thuộc sổ đỏ của mình mà ông L tự ý lấn chiếm
bất hợp pháp. Tại thời điểm gia đình nguyên đơn có ý định tách thửa để bán,
đã thuê cán bộ đo đạc tới làm việc thì cũng đã xác định diện tích đất 208,1m
2
mà ông L đang sử dụng là thuộc quyền sở hữu hợp pháp của gia đình ông
được pháp luật bảo vệ. Khi ông L làm đơn khởi kiện, chính quyền đã thực
hiện hoà giải nhưng không thành, con gái ông L đã lên mạng xã hội facebook
dùng lời lẽ xúc phạm cán bộ xã và xuyên tạc sự thật. Hiện tại, trên phần diện
tích đất tranh chấp có các loại cây là do cây tự mọc lên và phía gia đình ông
L, bà M tự nhận đó là của mình; đối với các cây do gia đình ông trồng thì bị
ông L chặt phá, hiện chỉ còn 2 cây mít khoảng hơn 30 năm và một số cây
4
trồng mùa vụ khác. Ngoài ra, trên thực tế thì gia đình ông L, bà M còn đang
sử dụng diện tích đất lấn chiếm ra đường giao thông.
Do đó, gia đình ông, bà có yêu cầu phản tố buộc gia đình ông L, bà M phải
phá bỏ, di dời các tài sản trên phần đất tranh chấp gồm: Một số công trình
xây dựng tạm bợ, một số cây trồng như cau, huynh, hoa sữa, móc, huê để trả
lại quyền sử dụng phần đất có diện tích 208,1m
2
đang tranh chấp tại thửa đất
số 06, tờ bản đồ số 11 địa chỉ thôn F, xã X, huyện B, tỉnh Quảng Bình; đồng
thời bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn vì không có căn cứ.
- Tại Công văn số 132/UBND ngày 13/02/2024 và tại buổi hoà giải ngày
13/3/2024 UBND xã X, huyện B, tỉnh Quảng Bình có ý kiến:
Gia đình ông L - bà M với gia đình ông T - bà S đã được UBND huyện B
cấp GCNQSDĐ lần đầu vào năm 2006. Tuy nhiên hiện trạng sử dụng đất
trên thực tế không đúng so với giấy chứng nhận đã được cấp. Đối với phần
diện tích đất đang tranh chấp thì hiện tại do gia đình ông L, bà M đang sử
dụng, toàn bộ tài sản trên phần đất tranh chấp là do gia đình ông L, bà M tự
tạo lập. Tại các buổi hòa giải và kết quả kiểm tra thực địa thì gia đình ông T,
bà S cũng đã thừa nhận chưa sử dụng phần đất tranh chấp này mà do gia đình
ông L, bà M sử dụng từ năm 1976 cho đến nay. Vậy nên đề nghị Toà án căn
cứ vào quá trình sử dụng đất của các hộ gia đình để xem xét xét xử.
- Tại Công văn số 1017/UBND-TNMT ngày 20/5/2024 của UBND huyện B,
tỉnh Quảng Bình trình bày:
Sau khi xem xét nội dung, kiểm tra hồ sơ lưu trữ, báo cáo của Chi nhánh
Văn phòng Đăng ký Đất đai huyện, UBND huyện B có ý kiến như sau: Ngày
05/4/2006, ông, bà Nguyễn Văn T - Nguyễn Thị S1 có đơn đề nghị cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng (QSD) đất tại thửa đất số 06, tờ bản đồ số 11, xã
X với diện tích là 1.486,3 m
2
. Ngày 26/9/2006, ông, bà Nguyễn Văn T -
Nguyễn Thị S1 đã thực hiện nộp ngân sách nhà nước với số tiền 352.000
đồng cho thửa đất nói trên. Ngày 17/5/2006, UBND huyện B ký duyệt cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có số phát hành AE228106, số vào sổ
H03257 cho ông, bà Nguyễn Văn T - Nguyễn Thị S1, với diện tích
1.486,0m
2
(400,0m
2
đất ở nông thôn, 1.086,3m
2
đất trồng cây lâu năm). Đến
năm 2012, ông, bà Nguyễn Văn T - Nguyễn Thị S1 có đơn đề nghị cấp lại,
cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa đất nói trên. Sau khi
kiểm tra hồ sơ, Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện B đã trích lục
bản đồ địa chính và thẩm tra đủ điều kiện cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất tại thửa đất số 06, tờ bản đồ số 11 xã X. Ngày 30/8/2012, UBND
huyện B ký duyệt cấp đổi Giấy chứng nhận có số phát hành AE228106, số
vào sổ H03257 thành Giấy chứng nhận QSD đất có số phát hành BL042016,
số vào sổ CH00527 cho ông, bà Nguyễn Văn T - Nguyễn Thị S1 với diện
tích 1.486,0m
2
(400,0m
2
đất ở nông thôn, 1.086,3m
2
đất trồng cây lâu năm).
Về quan điểm của UBND huyện B: Đề nghị Tòa án căn cứ vào hồ sơ, giấy
tờ có liên quan và căn cứ các quy định của pháp luật để giải quyết theo đúng
quy định và UBND huyện sẽ căn cứ theo quyết định của Tòa án nhân dân để
thực hiện.
5
- Tại đơn trình bày đề ngày 26/3/2024 và tại phiên tòa người làm chứng ông
Hoàng Trọng H trình bày: Bản thân ông tham gia công tác của T5, xã từ năm
1996 và hiện nay đang làm Bí thư Chi bộ Thôn F, đồng thời ông cũng là hộ
dân sinh sống liền kề các thửa đất đang tranh chấp, cho nên biết rõ lịch sử sử
dụng đất của ông L, bà M đúng với hiện trạng sử dụng đất hiện nay. Vào
khoảng năm 1999, lúc đó ông cùng tham gia với đoàn khảo sát về đo đạc đất
đai trong thôn nên cũng tham gia xác định ranh giới giữa hai gia đình là có
các cây mít, cây cau, cây huê... do gia đình ông L, bà M đã trồng hơn 40 năm.
Vì vậy, việc đất của ông L bà M nhưng được cấp cho ông T bà S1 theo ông
là do sai sót trong quá trình đo đạc. Ông T, bà S1 chưa bao giờ sử dụng phần
đất mà các bên đang tranh chấp mà do gia đình ông L, bà M sử dụng từ xưa
đến nay và không có sự thay đổi ranh giới giữa hai gia đình trên thực tế.
- Tại đơn trình bày đề ngày 26/3/2024 người làm chứng ông Nguyễn Văn Q
trình bày: Năm 1977, gia đình ông cũng đến ở gần thửa đất của các bên, là
hàng xóm sinh sống gần các thửa đất cho nên ông biết rõ nguồn gốc sử dụng
đất của các bên. Ông hoàn toàn đồng ý với lời khai của ông H về nguồn gốc,
hiện trạng sử dụng đất của các hộ dân qua các thời kỳ, cũng như hiện trạng
sử dụng đất trên thực tế của các bên. Ông khẳng định phần đất mà các bên
đang tranh chấp là do gia đình ông L, bà M đã sử dụng ổn định từ năm 1976
cho đến nay, nhưng không biết vì sao lại được cấp cho gia đình ông T, bà S1.
Trên phần đất đã cấp cho ông T, bà S1 mà hiện nay các bên đang tranh chấp
còn có con đường đi vào nhà mà ông L, bà M đã sử dụng từ năm 1976.
- Kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản ngày 26/01/2024
cụ thể như sau:
Thửa đất theo GCNQSDĐ đã cấp cho hộ ông Hoàng Văn L, bà Phạm Thị M
có diện tích 1.288,6m
2
; nhưng hiện trạng trên thực tế đang sử dụng là
1.559,5m
2
, phần diện tích sử dụng vượt so với GCNQSDĐ là 270,9m
2
, trong
đó 119,5m
2
lấn chiếm đường giao thông.
Thửa đất theo GCNQSDĐ đã cấp cho hộ ông Nguyễn Văn T, bà Hoàng Thị
S có diện tích 1.486,3m
2
; nhưng hiện trạng trên thực tế đang sử dụng là
1.332,3m
2
, phần diện tích sử dụng thiếu so với GCNQSDĐ được cấp là
154m
2
.
- Theo kết quả đo vẽ trên thực địa các bên đương sự thống nhất diện tích đất
tranh chấp là 208,1m
2
từ các điểm 2-3-7 trên sơ đồ. Phần ranh giới ngăn cách
giữa hai thửa đất được thể hiện từ điểm 2 tới điểm 7 trên sơ đồ thì gia đình
ông T - bà M đã xây dựng quán ăn và hàng rào tiếp giáp với lối đi vào nhà
ông L, bà M, còn gia đình bà M-ông L đã trồng một dãy cau, mít, nhãn tiếp
giáp với thửa đất ông T, ngoài ra còn có 01 nhà vệ sinh, 0,53m
2
nhà ở và
nhiều cây trồng lâu năm khác nằm rải rác trên toàn bộ đất tranh chấp. Theo
lời trình bày của bà M thì toàn bộ những cây trên phần đất tranh chấp do gia
đình bà trồng từ lâu, có những cây mít to do ông bà của bà trồng từ năm
1976; nhà cấp 4 xây dựng năm 1987; nhà vệ sinh được xây dựng từ năm
2007, chi phí xây dựng nhà vệ sinh gần 2 triệu đồng do UBND xã hỗ trợ gia
đình nghèo, hiện tại gia đình bà vẫn đang sử dụng. Theo lời trình bày của
6
ông T thì toàn bộ cây trên phần đất tranh chấp là do tự mọc; nhà vệ sinh ông
thừa nhận do gia đình ông L - bà M xây dựng, hàng rào phía sau nhà vệ sinh
là do gia đình ông làm từ năm 2019 và không thuộc phần tranh chấp.
Về tài sản trên phần đất tranh chấp có: Một góc nhà cấp 4 của ông L, bà M
xây dựng năm 1987 có diện tích 0,53m
2
; 01 nhà vệ sinh xây bằng taplo; Hàng
rào phía sau nhà vệ sinh: 03 cọc bê tông và lưới B40; 10 cây cau, 01 cây
huynh, 01 cây mát, 15 cây mớc, 03 cây huê, 05 cây mít đã ra quả, 03 cây hoa
sữa.
[2] Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 41/2024/DS-ST ngày 05 tháng 6 năm 2024
của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình đã quyết định:
Căn cứ khoản 9 Điều 26; khoản 1, khoản 4 Điều 34; khoản 1 Điều 157;
khoản 1 Điều 165 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015; Điều 48, Điều 50, khoản 2
Điều 52 Luật Đất đai 2003; Điều 100, khoản 1 Điều 203 Luật đất đai 2013;
Điều 175, 176 Bộ luật dân sự 2015; điểm đ Điều 12, Nghị quyết số:
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
quy định về án phí lệ phí Tòa án; Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về tranh chấp quyền
sử dụng đất và hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
- Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu về nhà ở và tài sản
khác gắn liền với đất số BL 042016, số vào sổ cấp giấy chứng nhận CH
00527 đối với thửa đất số 06, tờ bản đồ số 11, diện tích 1.486,3m
2
tại Thôn
F, xã X, huyện B, tỉnh Quảng Bình do UBND huyện B, tỉnh Quảng Bình cấp
ngày 30/8/2012 mang tên Nguyễn Văn T-Hoàng Thị S.
- Buộc ông Nguyễn Văn T và bà Hoàng Thị S trả lại 208,1m
2
đất vườn cho
ông Hoàng Văn L và bà Hoàng Thị M1 có các cạnh cụ thể như sau: (Có sơ
đồ đo vẽ kèm theo là một phần không thể tách rời của bản án).
+ Cạnh phía Bắc dài 8,63m, tính từ điểm 2-3 trên sơ đồ
+ Cạnh phía Tây dài 50,9m, tính từ điểm 2-7 trên sơ đồ
+ Cạnh phía Nam dài 52,25m, tính từ điểm 3-7 trên sơ đồ
Các bên đương sự có quyền và nghĩa vụ liên hệ các cơ quan nhà nước có
thểm quyền về quản lý đất đai để điều chỉnh lại diện tích sử dụng đất theo
đúng hiện trạng trên thực tế.
2. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn ông Nguyễn Văn T, bà Hoàng
Thị S về việc buộc nguyên đơn ông Hoàng Văn L và bà Phạm Thị M phá bỏ,
di dời các công trình xây dựng tạm bợ và một số cây trồng cau, huynh, hoa
sữa, móc, huê do nguyên đơn tạo lập trong phần diện tích 208,1m
2
mà các
bên đang tranh chấp.
3. Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản: Buộc bị đơn ông
Nguyễn Văn T và bà Hoàng Thị S phải trả lại cho ông Hoàng Văn L và bà
Phạm Thị M số tiền 5.600.000 đồng.
Ngoài ra, tại Bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, quy định về thi hành án và
quyền kháng cáo
[3] Kháng cáo, kháng nghị:
7
Ngày 15-6-2024, bà Hoàng Thị S và ông Nguyễn Văn T làm đơn kháng cáo
toàn bộ bản án sơ thẩm, không chấp nhận kết quả giải quyết của Toà án cấp
sơ thẩm. Lý do kháng cáo là không có tài liệu chứng cứ nguyên đơn sử dụng
đất tranh chấp từ năm 1976; từ năm 1976 đến năm 2023 thì bên nguyên đơn
không có ý kiến gì đối với diện tích đất tại thửa 07 là 1288,6m2. Thửa đất 06
được ông bà sử dụng liên tục ổn định từ trước đến nay, nên đã được cấp Giấy
chứng nhận QSD đất.
Tại Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 46/QĐ-VKS-DS ngày 04-7-2024
của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đã kháng nghị
một phần bản án sơ thẩm, đề nghị Toà án cấp phúc thẩm sửa một phần bản
án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn
về nội dung “Buộc ông Nguyễn Hữu T6 và bà Hoàng Thị S trả lại 208,1m2
đất đang tranh chấp cho ông Hoàng Văn L và bà Phạm Thị M” với nhận
định lý do kháng nghị là “Hội đồng xét xử sơ thẩm tuyên chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn ông Hoàng Văn L, huỷ giấy CNQSD đất đã cấp
cho gia đình bị đơn ông Nguyễn Văn T đối vơi diện tích đất tranh chấp
208,1m2 là phù hợp. Tuy nhiên, bản án sơ thẩm lại buộc gia đình ông T bà
S trả lại cho nguyên đơn phần đất có diện tích 208,1m2 đang tranh chấp là
không đúng vì thực tế diện tích 208,1m2 đất tranh chấp trong vụ án này vẫn
do gia đình nguyên đơn ông Hoàng Văn L quản lý sử dụng ổn định liên tục
từ năm 1976 đến nay”.
[4] Tại phiên tòa phúc thẩm:
Người kháng cáo giữ nguyên kháng cáo; Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho người kháng cáo trình bày: Thửa đất số 06 của bị đơn đã được cấp
GCNQSDĐ vào năm 2006 và được cấp đổi năm 2012 và thửa đất số 07 cũng
được cấp GCNQSDĐ cho nguyên đơn vào ngày 17/5/2006. Thửa số 06 liền
kề với Thửa số 07, hai gia đình sử dụng ổn định và ranh giới hai thửa đất
được xác định bởi quyết định của cơ quan có thẩm quyền, theo GCNQSDĐ.
Người sử dụng đất tại Thửa số 06 (ông T bà S) và Thửa số 07 (ông L, bà M)
không được làm thay đổi mốc giới ngăn cách, cần phải có nghĩa vụ tôn trọng,
duy trì ranh giới theo Giấy chứng nhận. Đề nghị Hội đồng xét xử sửa án sơ
thẩm theo hướng không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Nguyên
đơn và chấp nhận yêu cầu phản tố của Bị đơn buộc nguyên đơn phải phá bỏ,
di dời các tài sản trên diện tích đất tranh chấp để trả lại cho bị đơn.
- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng:
Về tố tụng: Việc chấp hành pháp luật của Thẩm phán, của Hội đồng xét xử
và các bên đương sự đều được đảm bảo, phù hợp với các quy định của pháp
luật.
Về nội dung: Đề nghị chấp nhận kháng nghị, sửa một phần án sơ thẩm theo
hướng không tuyên buộc nguyên đơn phải trả lại đất, mà chỉ cần thừa nhận
quyền sử dụng đất tranh chấp là của nguyên đơn, tuyên hủy GCNQSDĐ đã
cấp cho bị đơn. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn về buộc nguyên
đơn phải phá bỏ, di dời các tài sản trên phần đất tranh chấp.
NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN:
8
Sau khi xem xét các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh
tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
Theo các nội dung khởi kiện của nguyên đơn thì vụ án được xác định quan
hệ tranh chấp về quyền sử dụng đất và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình đã thực hiện các thủ tục tố tụng theo
đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về nguồn gốc đất và quá trình sử dụng đất:
Ngày 17/5/2006, UBND huyện B, tỉnh Quảng Bình cấp GCNQSDĐ đối với
Thửa đất số 07, tờ bản đồ số 11, diện tích 1288,6m
2
, trong đó có 400m
2
đất
ở nông thôn và 888,6m
2
đất trồng cây hàng năm khác tại Thôn F, xã X, huyện
B, tỉnh Quảng Bình
cho ông bà Hoàng Văn L-Hoàng Thị M1 (nguyên đơn).
Theo lời khai của ông L, bà M1 thì nguồn gốc nhận thừa kế ông bà để lại từ
năm 1976.
Ngày 17/5/2006, UBND huyện B, tỉnh Quảng Bình cấp GCNQSDĐ đối với
Thửa đất số 06, tờ bản đồ số 11; diện tích: 1486.3.6 m
2
(400m
2
đất ở và
1086,3m
2
đất vườn) tại Thôn F, xã X, huyện B, tỉnh Quảng Bình cho ông, bà
Nguyễn Văn T, bà Hoàng Thị S. Ngày 30/8/2012, UBND huyện B cấp đổi
sang GCNQSDĐ và quyền quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
đất số phát hành BL042016, số vào sổ CH00527 cho ông, bà Nguyễn Văn
T - Nguyễn Thị S1 với diện tích 1.486,0m
2
(400,0 m
2
đất ở nông thôn,
1.086,3m
2
đất trồng cây lâu năm). Theo lời khai của ông T, bà S1 (bị đơn)
thì nguồn gốc nhận thừa kế ông bà để lại từ năm 1976.
Theo kết quả xem xét thẩm định tại chỗ, kết quả đo vẽ ngày 26/01/2024 thì
thửa đất số 07 đã cấp GCNQSDĐ cho nguyên đơn có diện tích 1.288,6 m
2
;
nhưng trên thực tế đang sử dụng là 1.559,5m
2
; vượt 270,9m
2
so với
GCNQSĐ đã được cấp, trong đó có 119,5 m
2
lấn chiếm đường giao thông và
phần lấn chiếm này không tiếp giáp với phần đất các bên có tranh chấp. Đối
thửa đất số 06 đã cấp GCNQSDĐ cho bị đơn có diện tích 1.486,3 m
2
; nhưng
hiện trạng trên thực tế đang sử dụng là 1.332,3m
2
, thiếu 154 m
2
so với
GCNQSDĐ được cấp.
Các bên đương sự đều thừa nhận và xác định diện tích đất tranh chấp theo
kết quả đo vẽ là 208,1m
2
(tính từ điểm từ 2-3-7 trên sơ đồ) và toàn bộ diện
tích đất tranh chấp đều nằm trong diện tích đất đã được cấp GCNQSDĐ cho
bị đơn vào năm 2006 và được cấp đổi năm 2012. Tuy nhiên, theo hiện trạng
sử dụng đất trên thực tế thì trên phần đất đang tranh chấp là toàn bộ lối đi
vào nhà của gia đình nguyên đơn đã sử dụng từ năm 1976; trên lối đi này gia
đình nguyên đơn đã trồng một hàng cây lâu năm gồm nhãn, cau, mít nằm
tiếp giáp với hàng rào xây, tường quán của gia đình bị đơn tự xây dựng vào
năm 2019. Ngoài ra, trên phần đất tranh chấp gia đình bị đơn đã xây 01 nhà
vệ sinh vào năm 2007 và 01 nhà cấp 4 từ năm 1978 và một số cây trồng lâu
năm khác nằm rải rác trên toàn bộ phần diện tích đất tranh chấp.
[3] Xem xét các căn cứ sử dụng đất.
9
Các bên đương sự đều thừa nhận nguồn gốc các thửa đất 06, 07 đều được do
người thân để lại từ năm 1976, sau đó các thửa đất đều được cấp GCNQSDĐ
vào cùng một ngày 17/5/2006.
Tại Biên bản hoà giải ngày 08/9/2023 và Công văn số 132/UBND ngày
13/02/2024 của UBND xã X đều xác nhận nguồn gốc đất của hai hộ gia đình
do được ông bà để lại và cùng sử dụng từ khoảng năm 1976 cho đến nay.
Năm 2006, hai gia đình được UBND huyện B cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất trong cùng một ngày và các bên tiếp tục sử dụng diện tích đất theo
hiện trạng trên thực tế từ trước cho đến nay và không xảy ra tranh chấp. Theo
kết quả đo vẽ, kiểm tra trên thực địa thì toàn bộ diện tích đất mà các bên đang
tranh chấp hiện do gia đình nguyên đơn đang sử dụng và toàn bộ tài sản trên
đất là do gia đình nguyên đơn tạo lập. Tại các buổi hòa giải gia đình bị đơn
đã thừa nhận không sử dụng phần đất này mà do gia đình nguyên đơn sử
dụng từ năm 1976 cho đến nay. Mặt khác, những người làm chứng là ông
Nguyễn Văn Q và Hoàng Trọng H cũng xác nhận về nguồn gốc đất, quá trình
sử dụng đất của nguyên đơn đúng với trên thực tế giống như kết luận của
UBND xã.
Đối với phần diện tích 208,1m
2
đất đang tranh chấp thì thực tế hiện trạng do
nguyên đơn sử dụng từ trước đến nay và trong quá trình nguyên đơn trồng
cây và xây dựng nhà vệ sinh, một phần của ngôi nhà ở thì phía bị đơn không
có ý kiến phản đối. Mặt khác, trong quá trình sử dụng đất, bị đơn đã làm
hàng rào xây, làm quán kiên cố nằm tiếp giáp với lối đi, hàng cây lâu năm
do nguyên đơn trồng đã hình thành một ranh giới tự nhiên giữa hai thửa đất
trên thực tế. Như vậy, trên thực tế các bên đã có sự tự thừa nhận về ranh giới
và hoàn toàn phù hợp với quy định về mốc ngăn cách các bất động sản theo
khoản 1 Điều 176 Bộ luật dân sự “…Chủ sở hữu bất động sản chỉ được dựng
cột mốc, xây tường ngăn trên phần đất thuộc quyền sở hữu của mình..”.
Vì vậy, có đủ cơ sở xác định tại thời điểm cấp GCNQSDĐ đối với thửa đất
số 07 cho nguyên đơn và thửa đất số 06 cho bị đơn vào cùng ngày 17/5/2006,
không kiểm tra hiện trạng sử dụng đất trên thực tế của các hộ sử dụng đất;
không ký giáp ranh của các chủ sử dụng đất liền kề, cho nên đã cấp phần
diện tích 208,1m
2
đất và các tài sản trên phần đất thuộc quyền quản lý, sử
dụng của nguyên đơn từ năm 1976 để cấp cho bị đơn là vi phạm về trình tự,
thủ tục cấp đất được quy định tại Điểm a, b Khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều
144 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ hướng
dẫn thi hành một số điều của luật đất đai 1993.
[4] Xét yêu cầu phản tố của bị đơn thấy rằng: Do yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn được chấp nhận toàn bộ, cho nên yêu cầu phản tố của bị đơn về
buộc nguyên đơn phải phá bỏ, di dời các tài sản trên phần đất tranh chấp để
trả lại quyền sử dụng đất có diện tích 208,1m
2
cho bị đơn là không có căn cứ
nên không được chấp nhận.
[5] Bản án sơ thẩm đã đánh giá xem xét toàn bộ các chứng cứ và đã chấp
nhận yêu cầu khởi kiện, hủy một phần GCNQSDĐ đã cấp cho bị đơn tại
Thửa đất số 06, tờ bản đồ số 11; diện tích: 1486.3m
2
(400m
2
đất ở và
10
1086,3m
2
đất vườn) tại Thôn F, xã X, huyện B, tỉnh Quảng Bình do UBND
huyện B, tỉnh Quảng Bình cấp ngày 30/8/2012 mang tên bị đơn Nguyễn Văn
T- Hoàng Thị S để các bên đương sự liên hệ các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền về quản lý đất đai để đăng ký biến động diện tích theo đúng hiện trạng
sử dụng trên thực tế là có căn cứ.
Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và chi phí định giá: Chi phí tố tụng cho
việc xem xét thẩm định tại chỗ, định giá tài sản và đo vẽ hết 5.600.000 đồng
do nguyên đơn nộp. Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên
buộc bị đơn hoàn trả cho nguyên đơn toàn bộ số tiền này.
Về án phí sơ thẩm: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên
buộc bị đơn ông Nguyễn Văn T và bà Hoàng Thị S phải chịu án phí dân sự
sơ thẩm không có giá ngạch và yêu cầu phản tố không được chấp nhận,
nhưng ông T, bà S là người cao tuổi và có đơn xin miễn giảm án phí, cho nên
được miễn án phí theo quy định của pháp luật.
Kháng cáo toàn bộ bản án của bị đơn không có cơ sở chứng minh hợp lý nên
không được chấp nhận.
[6] Xem xét kháng nghị:
Kháng nghị cũng thừa nhận nguyên đơn đang sử dụng đất trên thực tế từ lâu,
đồng thời xác định việc cấp Giấy chứng nhận QSD đất phần đất tranh chấp
cho bị đơn là không đúng. Bản chất của tranh chấp là xác định phần diện tích
đất 208,1m
2
là của ai; việc tuyên bị đơn trả lại đất trong trường hợp này là
trả lại quyền sử dụng đất của diện tích đất tranh chấp. Bản án sơ thẩm đã
tuyên nội dung buộc bị đơn trả lại đất là cụ thể, thuận lợi cho quá trình thi
hành án và chấm dứt triệt để tranh chấp. Do đó, hội đồng xét xử phúc thẩm
xét thấy không cần thiết phải sửa bản án sơ thẩm về nội dung này.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; không
chấp nhận Kháng cáo và Kháng nghị, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số
41/2024/DS-ST ngày 05 tháng 6 năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng
Bình.
2. Về án phí dân sự phúc thẩm: ông Nguyễn Văn T và bà Hoàng Thị S được
miễn nộp.
Bản án dân sự phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- Vụ II- TAND tối cao;
- VKSND cấp cao tại Đà Nẵng;
- TAND tỉnh Quảng Bình;
- VKSND tỉnh Quảng Bình;
- Cục THADS tỉnh Quảng Bình;
- Những người tham gia tố tụng;
- Lưu HSVA, PHCTP, LT.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đã ký
Nguyễn Tấn Long
11
Tải về
Bản án số 315/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 315/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 13/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 10/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 06/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 06/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 05/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 04/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 03/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 28/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 26/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm