Bản án số 31/2022/HS-ST ngày 17/05/2022 của TAND TX. Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 31/2022/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 31/2022/HS-ST ngày 17/05/2022 của TAND TX. Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Tội danh: 249.Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2015)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND TX. Mỹ Hào (TAND tỉnh Hưng Yên)
Số hiệu: 31/2022/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 17/05/2022
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ MH, TỈNH HƯNG YÊN

BẢN ÁN 31/2022/HS-ST NGÀY 17/05/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở, Tòa án nhân dân thị xã MH, tỉnh Hưng Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 19/2022/TLST - HS ngày 08/4/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 27/2022/QĐXXST - HS ngày 04/5/2022 đối với các bị cáo:

1. Đặng Văn T, sinh năm 1996 tại xã MQ, huyện TY, tỉnh YB.

Tên gọi khác: không. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú: Thôn 9 HD, xã MQ, huyện TY, tỉnh YB; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Cao Lan; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Văn N, sinh năm 1967 và bà Mễ Thị H, sinh năm 1972; vợ: Đặng Thị D, sinh năm 1984; con: có 01 con, sinh năm 2020; tiền án, tiền sự: Chưa có. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 12/01/2022, tạm giam ngày 15/01/2022. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hưng Yên. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Lò Văn H, sinh năm 2001 tại xã PT, huyện ML, tỉnh SL.

Tên gọi khác: không. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú: Bản CL, xã PT, huyện ML, tỉnh SL; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: La Ha; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lò Văn S và bà Lò Thị S1; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Chưa có. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 12/01/2022, tạm giam ngày 15/01/2022. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hưng Yên. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa cho bị cáo Lò Văn H: Bà Vương Thị Thanh N - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Hưng Yên (Có mặt).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Bà Trịnh Thị Q, sinh năm: 1945 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn HN, xã MH1, huyện VL, tỉnh Hưng Yên.

* Người làm chứng:

- Ông Đặng Văn N, sinh năm: 1967 (Có mặt). Địa chỉ: Thôn 9 HD, xã MQ, huyện TY, tỉnh YB.

- Anh Lò Văn S, sinh năm: 1983 (Vắng mặt). Địa chỉ: Bản CL, xã PT, huyện ML, tỉnh SL.

- Anh Nguyễn Văn N, sinh năm: 1988 (Vắng mặt).

- Anh Nguyễn Văn H, sinh năm: 1987 (Vắng mặt).

Đều có địa chỉ: Tổ dân phố YT, phường NH, thị xã MH, tỉnh Hưng Yên

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đặng Văn T và Lò Văn H đều là công nhân của Công ty trách nhiệm hữu hạn Công Thương Tinh Nhuệ Hưng Yên và đều là đối tượng nghiện chất ma túy. Chiều ngày 11/01/2022 sau khi hết giờ làm, T điều khiển xe mô tô biển số 21B1- 691.76 chở H về nhà trọ, trên đường về T rủ H góp tiền đi mua ma túy cùng sử dụng, H đồng ý rồi cả hai về phòng trọ. Do không có tiền nên T hỏi vay bà Trịnh Thị Q 500.000 đồng mục đích góp tiền cùng với H mua ma túy nhưng nói với bà Q là để đi mua đồ ăn. Đến khoảng 19 giờ 40 phút cùng ngày H đi sang phòng trọ của T đưa cho T 500.000 đồng để mua ma túy, T cầm tiền cho vào túi quần rồi điều khiển xe mô tô nói trên chở H đi xuống khu vực bờ sông thuộc khu Hạ, thị trấn Kẻ Sặt, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương. Khi đến nơi, H đứng chờ ở ngoài, còn T một mình đi bộ vào trong ngõ mua 06 gói ma túy (Heroine) với giá 1.000.000 đồng. Sau khi mua được ma túy T cầm ra đưa cho H 06 gói ma túy nêu trên, H cầm 06 gói ma túy cho vào túi áo khoác bên trái, T tiếp tục điều khiển xe mô tô chở H cùng số ma túy nêu trên để đi về phòng trọ. Trên đường về đến trước cổng Công ty Enro Hause thuộc tổ dân phố YT, phường NH, thị xã MH lúc này khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày thì lực lượng Công an thị xã MH phối hợp với tổ tuần tra Phòng Cảnh sát cơ động Công an tỉnh Hưng Yên kiểm tra phát hiện.

Vật chứng thu giữ: Tại túi áo khoác ngoài bên trái của H có 01 gói giấy bạc và 05 gói nilon màu trắng, bên trong mỗi gói nilon có 01 gói giấy bạc; trong 06 gói giấy bạc này bên trong đều chứa chất mầu trắng dạng cục, bột đã niêm phong ghi ký hiệu "A1". Ngoài ra Cơ quan Công an còn quản lý của T 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Winner biển số 21B1-691.76; 01 đăng ký xe mô tô trên và kiểm tra trong cốp xe không thu giữ đồ vật gì.

Cùng ngày 12/01/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã MH tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của T và H ở thôn HN, xã MH1, huyện VL, kết quả khám xét đều không thu giữ đồ vật gì thêm.

Tại bản thông báo kết luận sơ bộ số 95/MT-PC09 ngày 12/01/2022 và Bản kết luận giám định số 95/MT-PC09 ngày 15/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hưng Yên kết luận: Mẫu chất dạng tinh thể màu trắng trong niêm phong ghi ký hiệu A1 có tổng khối lượng là 1,466g (Một phẩy bốn sáu sáu gam), là ma túy, là loại: Heroine. Hoàn lại trong niêm phong giao cho Công an thị xã MH 01 phong bì ghi số 95/MT - PC09 bên trong có: 1,200g heroine trong niêm phong ký hiệu A1; toàn bộ các mảnh nilon và các mảnh giấy bạc bọc ma túy và 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu vật gửi giám định.

Quá trình điều tra, T và H đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình. T còn khai nhận: Nguồn gốc 06 gói ma túy mà T và H tàng trữ ngày 11/01/2022 là do T mua của một người đàn ông không rõ tên, tuổi địa chỉ ở trong ngõ khu vực bờ sông thuộc khu Hạ, thị trấn kẻ Sặt, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương với giá 1.000.000 đồng. Ngoài ra trước đó sáng ngày 11/01/2022 tại khu vực bờ sông thuộc thị trấn Kẻ sặt, huyện Bình Giang, T cũng mua 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng của một người đàn ông không rõ tên, tuổi địa chỉ. Còn H trưa ngày 11/01/2022 cũng mua 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng của một người đàn ông không rõ tên, tuổi địa chỉ sau đó đều mang về phòng trọ một mình sử dụng hết.

Đối với việc người đàn ông không rõ họ tên, tuổi địa chỉ bán ma túy cho T, H vào ngày 11/01/2022 tại khu vực bờ sông thuộc khu Hạ, thị trấn Kẻ Sặt, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương và hành vi T, H khai sử dụng ma túy ở phòng trọ thuộc thôn HN, xã MH1, huyện VL; Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã MH đã có công văn thông báo đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương và Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện VL để giải quyết theo thầm quyền.

Đối với chiếc xe mô tô biển số 21B1 - 691.76 quản lý của T qua điều tra xác định là tài sản hợp pháp của T, T đề nghị xin lại chiếc xe và giấy đăng ký xe nêu trên. Đối với số tiền 500.000 đồng bà Q cho T vay, bà Q không biết T sử dụng vào việc mua ma túy nên không có căn để xử lý, đến nay bà Q không có yêu cầu đề nghị giải quyết.

Tại bản cáo trạng số: 24/CT - VKSMH ngày 08/4/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã MH, tỉnh Hưng Yên đã truy tố Đặng Văn T, Lò Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự 2015.

Tại phiên tòa:

Các bị cáo thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã MH giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: Các bị cáo Đặng Văn T, Lò Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 17; Điều 58; khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo T, H. Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo H. Xử phạt bị cáo T từ 02 năm đến 02 năm 03 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ 12/01/2022. Xử phạt bị cáo H từ 01 năm 09 tháng đến 02 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ 12/01/2022. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo. Về vật chứng: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 46, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong hoàn lại sau giám định số 95/MT-PC09 có tên và chữ ký của ông Hoàng Quốc Khánh, Nguyễn Văn Học và dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hưng Yên. Trả lại bị cáo T 01 xe mô tô nhãn hiệu Winer, mầu trắng đen, biển kiểm soát 21B1- 691.76, số khung RLHKC2609GY090957, số máy KC26E1125497 và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô số 066219 của xe có biển kiểm soát 21B1-691.76 mang tên Đặng Văn T. Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật Người bào chữa cho bị cáo H nhất trí với tội danh, điều luật và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã MH áp dụng cho bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo H.

Các bị cáo nghe rõ, nhất trí với nội dung bản luận tội của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã MH; bị cáo H nhất trí nội dung bào chữa của người bào chữa cho bị cáo. Các bị cáo không tranh luận và đều đề nghị Hội đồng xét xử cho các bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để các bị cáo sớm trở về gia đình và hòa nhập cộng đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra - Công an thị xã MH và điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thị xã MH và kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung vụ án: Tại phiên toà hôm nay, các bị cáo tỏ ra ăn năn hối hận và thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của các bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra; lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, của những người làm chứng; biên bản kiểm tra; kết luận giám định cùng các vật chứng mà Cơ quan điều tra đã thu giữ. Như vậy, đã có đủ căn cứ xác định: Chiều ngày 11/01/2022 trên đường đi làm về, T rủ H góp tiền đi mua ma túy để cùng nhau sử dụng thì H đồng ý. Sau đó T chở H bằng xe mô tô biển số 21B1- 691.76 đi xuống khu vực bờ sông thuộc Khu Hạ, thi trấn Kẻ Sặt, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương; H đứng chờ ở ngoài còn T một mình đi bộ vào trong ngõ mua 06 gói ma túy (heroine). Sau khi mua được ma túy; T đưa cho H số ma túy để H cất giữ và tiếp tục chở H về phòng trọ. Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 11/01/2022 tại trước cổng Công ty Enso House thuộc tổ dân phố YT, phường NH, thị xã MH, tỉnh Hưng Yên; T và H bị lực lượng Công an thị xã MH phối hợp với tổ tuần tra Phòng cảnh sát cơ động Công an tỉnh Hưng Yên kiểm tra, phát hiện thu giữ: Tại túi áo khoác ngoài bên trái của H có 01 gói giấy bạc và 05 gói ni lon màu trắng bên trong mỗi gói nilon có 01 gói giấy bạc; trong 06 gói giấy bạc bên trong chứa 1,466g ma túy Heroine. Các bị cáo khai nhận số ma túy H tàng trữ trên người là do T và H góp tiền mua với mục đích để các bị cáo cùng nhau sử dụng. Hành vi phạm tội của các bị cáo phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thị xã MH truy tố các bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền kiểm soát các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự trị an cho xã hội. Các bị cáo có đủ năng lực nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn phạm tội. Việc sử dụng ma túy là rất nguy hiểm cho sức khỏe và là nguyên nhân dẫn đến lây lan căn bệnh thế kỷ HIV - AIDS. Đối tượng là tầng lớp thanh, thiếu niên là nguồn lao động chính trong xã hội, làm giảm sức lao động và là nguyên nhân nảy sinh các loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an xã hội, gây bất bình trong dư luận quần chúng nhân dân. Trong vụ án có đồng phạm tham gia, do vậy khi cân nhắc hình phạt đối với các bị cáo, hội đồng xét xử cần xem xét đến vai trò, đặc điểm nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà các bị cáo được hưởng, mức độ nghiêm trọng do hành vi phạm tội của các bị cáo để ra một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo.

Đối với người đàn ông không rõ họ tên, tuổi địa chỉ bán ma túy cho T, H vào ngày 11/01/2022 tại khu vực bờ sông thuộc khu Hạ, thị trấn Kẻ Sặt, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương và hành vi T, H khai sử dụng ma túy ở phòng trọ thuộc thôn HN, xã MH1, huyện VL; Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã MH đã có công văn thông báo đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương và Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện VL để giải quyết theo thầm quyền là đúng quy định của pháp luật. Đối với bà Q là người cho T vay 500.000 đồng nhưng không biết T sử dụng để mua ma túy, bà Q không có yêu cầu đề nghị gì nên Tòa án không đặt ra để xét.

[3]. Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hướng xử lý đối với bị cáo:

Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo nhận thức được hành vi phạm tội của mình, tỏ ra ăn năn hối hận và thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội nên các bị cáo đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo H là người dân tộc thiểu số cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biết khó khăn; gia đình thuộc hộ cận nghèo nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Trên cơ sở xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà các bị cáo được hưởng, Hội đồng xét xử nhận thấy: Bị cáo T giữ vai trò chính, trực tiếp rủ bị cáo H góp tiền mua ma túy để các bị cáo cùng nhau sử dụng; bị cáo chở H đi mua ma túy và là người trực tiếp đứng ra giao dịch để mua ma túy. Bị cáo H giữ vai trò đồng phạm tích cực; khi được T rủ góp tiền và cùng T đi mua ma túy, bị cáo cũng đồng tình; khi mua được ma túy bị cáo T giao cho bị cáo thì bị cáo cầm, trực tiếp quản lý, cất giữ số ma túy đó. Mặc dù các bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; tuy nhiên hành vi của các bị cáo rất nguy hiểm trực tiếp tiếp tay cho hành vi mua bán trái phép trái phép chất ma túy. Vì vậy, khi cân nhắc hình phạt đối với các bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy cần bắt các bị cáo cách ly khỏi đời sống xã hội một thời gian, mức hình phạt đối với bị cáo T phải cao hơn bị cáo H và tuyên phạt các bị cáo mức hình phạt phù hợp với đề xuất của Viện kiểm sát tại phiên tòa mới có tác dụng giáo dục các bị cáo thành công dân có ích cho gia đình và xã hội và có tính giáo dục, phòng ngừa chung.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, thu nhập không ổn định, không có tài sản riêng; bị cáo H là gia đình thuộc hộ cận nghèo. Vì vậy Hội đồng xét xử xét thấy không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[5]. Về vật chứng:

Đối với 01 phong bì niêm phong hoàn lại sau giám định số 95/MT-PC09 bên trong có 1,200g heroine; toàn bộ các mảnh nilon và các mảnh giấy bạc bọc ma túy và 01 vỏ phong bì niêm phong mẫu vật gửi giám định đây là vật chứng của vụ án, nhà nước cấm tàng trữ không còn giá trị sử dụng nên tịch thu cho tiêu hủy.

Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Winer, mầu trắng đen, biển kiểm soát 21B1691.76, số khung RLHKC2609GY090957, số máy KC26E1125497 và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô số 066219 của xe có biển kiểm soát 21B1- 691.76 mang tên Đặng Văn T; quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của bị cáo T, bị cáo không trực tiếp sử dụng vào việc tàng trữ ma túy nên sẽ trả lại cho bị cáo T.

[6]. Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 17; Điều 58; khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo Đặng Văn T, Lò Văn H. Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Lò Văn H.

[1]. Tuyên bố: Các bị cáo Đặng Văn T, Lò Văn H đều phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

[2]. Xử phạt: Bị cáo Đặng Văn T 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ 12/01/2022.

Xử phạt: Bị cáo Lò Văn H 02 (Hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ 12/01/2022.

[3]. Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[4]. Về vật chứng: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 46, điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu cho tiêu hủy 01 phong bì niêm phong hoàn lại sau giám định số 95/MT-PC09 có tên và chữ ký của ông Hoàng Quốc Khánh, Nguyễn Văn Học và dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hưng Yên.

Trả lại bị cáo Đặng Văn T 01 xe mô tô nhãn hiệu Winer, mầu trắng đen, biển kiểm soát 21B1-691.76, số khung RLHKC2609GY090957, số máy KC26E1125497 và 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô số 066219 của xe có biển kiểm soát 21B1-691.76 mang tên Đặng Văn T.

(Đặc điểm vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 08/4/2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã MH và Chi cục thi hành án dân sự thị xã MH).

[6]. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Các bị cáo Đặng Văn T, Lò Văn H mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm hình sự.

[7]. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo Đặng Văn T, Lò Văn H có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc niêm yết bản án.

Tải về
Bản án số 31/2022/HS-ST Bản án số 31/2022/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất