Bản án số 281/2018/HS-ST ngày 27/09/2018 của TAND TP. Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh về tội đánh bạc

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Mục lục
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 281/2018/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 281/2018/HS-ST ngày 27/09/2018 của TAND TP. Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh về tội đánh bạc
Tội danh: 248.Tội đánh bạc (Bộ luật hình sự năm 1999)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Bắc Ninh (TAND tỉnh Bắc Ninh)
Số hiệu: 281/2018/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 27/09/2018
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC NINH, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 281/2018/HS-ST NGÀY 27/09/2018 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 27 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. Tòa án nhân dân thành phố Bắc Ninh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 276/2018/HSST ngày 17/8/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 282/2018/QĐXXST-HS ngày 10/9/2018 đối với các bị cáo:

1. Hoàng Thị Y, sinh năm 1971

HKTT: Khu 4, phường M, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh;

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 10/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;

Con ông: Hoàng X, sinh năm 1937 và bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1942; Chồng: Đào Đình K, sinh năm 1965; Con: Có 02 con, con lớn sinh năm 1992, con nhỏ sinh năm 1995; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 31/5/2018 đến ngày 02/6/2018 được thay thế biện pháp ngăn chặn bằng “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Hiện tại ngoại, có mặt tại phiên toà.

2. Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1982

HKTT: Khu 4, phường M, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh;

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 06/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;

Con ông: Nguyễn Văn H, sinh năm 1945 và bà Nguyễn Thị R, sinh năm 1957;

Vợ: Nguyễn Thị Q, sinh năm 1988; Con: Có 02 con, con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2017;

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 28/8/2014 bị Công an thành phố Bắc Ninh xử phạt hành chính số tiền 2.500.000 đồng về hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 31/5/2018 đến ngày 02/6/2018 được thay thế biện pháp ngăn chặn bằng “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Hiện tại ngoại, có mặt tại phiên toà.

3. Vương Thị T, sinh năm 1980

HKTT: Khu 6, phường K, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh;

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;

Con ông: Vương Xuân T, sinh năm 1952 và bà Vũ Thị V, sinh năm 1957;

Chồng: Mai Ngọc L, sinh năm 1971 (đã ly hôn); Con: Có 02 con, con lớn sinh năm 1999, con nhỏ sinh năm 2007;

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 31/5/2018 đến ngày 09/6/2018 được thay thế biện pháp ngăn chặn bằng “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Hiện tại ngoại, có mặt tại phiên toà.

4. Vũ Hữu D, sinh năm 1965

HKTT: Thôn Nam Ngạn, xã G, huyện Y, tỉnh Bắc Giang;

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 10/10; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;

Con ông: Vũ Hồng J, sinh năm 1946 (là liệt sĩ) và bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1944;

Vợ: Nguyễn Thị L, sinh năm 1968; Con: Có 03 con, con lớn sinh năm 1987, con nhỏ sinh năm 1993;

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 31/5/2018 đến ngày 02/6/2018 được thay thế biện pháp ngăn chặn bằng “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Hiện tại ngoại, có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 40 phút ngày 31 tháng 5 năm 2018, Nguyễn Văn Đ, Vương Thị T, Vũ Hữu D đến nhà Hoàng Thị Y, sinh năm 1971 tại khu 4, phường M, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh chơi. Sau đó tất cả cùng rủ nhau đánh bạc ăn tiền dưới hình thức đánh "Phỏm". Y là người chuẩn bị bài và địa điểm ngồi đánh bạc là sảnh tầng 1 ngay tại nhà Y.

Cách thức chơi "phỏm" như sau: Sử dụng 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân bài, gồm có 04 "chất" (cơ, rô, tép, bích) để chơi. Mỗi đối tượng được chia 09 quân bài, người chia bài được 10 quân và là người đánh trước theo thứ tự lần lượt từ phải sang trái. Số bài còn lại để vào giữa. Mỗi người đánh đến quân thứ 4 thì hạ bài. Người chơi có 03 phỏm (gồm 03 quân liền nhau cùng chất, ví dụ 2,3,4 cơ; hoặc 03 quân cùng loại, ví dụ 4, 4, 4) gọi là "ù", người chơi không có phỏm nào gọi là "cháy". Sau khi ván bài kết thúc, mỗi người sẽ tính điểm của mình bằng cách cộng điểm của tất cả các quân bài không thuộc phỏm với quân J = 11, Q = 12, K = 13 và A = 1. Các quân bài khác có số điểm tương ứng với số của quân bài. Người chiến thắng ván bài là người ù hoặc người có số điểm thấp nhất sau 4 vòng đánh.

Người về nhất sẽ được ăn tiền của người về nhì, ba, tư lần lượt là 20.000 đồng, 40.000 đồng, 60.000 đồng. Người bị "cháy" sẽ mất 80.000 đồng. Trong khi chơi, người bị người khác ăn mất 01 quân bài sẽ mất 10.000 vào giữa, gọi là tiền "gà". Người "ù" được tổng số 120.000 đồng của 03 người còn lại, được cả tiền "gà" và bỏ ra 10.000 đồng để bên ngoài cho Y gọi là tiền "hồ". Khi đánh bạc, Y ngồi gần giường, bên tay phải là D, bên tay trái là T, đối diện là Đ.

Các đối tượng đánh bạc đến khoảng 14 giờ 40 phút cùng ngày thì bị bắt quả tang.

Vật chứng thu giữ gồm:

- 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân

- Thu giữ tại chiếu bạc 200.000 đồng tiền "gà", 30.000 đồng tiền "hồ" và số tiền các đối tượng bỏ ra đánh bạc, gồm: Thu giữ của Y 4.700.000 đồng, thu giữ của Đ 2.730.000 đồng, thu giữ của T 1.110.000 đồng, thu giữ của D 800.000 đồng. Các đối tượng không nhớ rõ số tiền ban đầu bỏ ra đánh bạc là bao nhiêu, và đã được thua như thế nào. Tổng số tiền bị thu giữ là 9.570.000 đồng.

Tại cơ quan điều tra các bị cáo Y, Đ, T, D đều khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Với nội dung trên, tại bản Cáo trạng số: 185/Ctr-VKSTPBN ngày 17 tháng 8 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh đã truy tố các bị cáo về tội “Đánh bạc” theo khoản 1, Điều 321 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà hôm nay các bị cáo khai nhận: Vào khoảng 14 giờ 40 phút ngày 31 tháng 5 năm 2018 tại nhà Hoàng Thị Y, các đối tượng Y, Đ, T và D cùng rủ nhau đánh phỏm với hình thức ăn tiền. Khi các đối tượng đang đánh bạc thì bị đội cảnh sát trật tự Công an thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh bắt quả  tang thu giữ vật chứng như đã nêu ở trên.

Các bị cáo thừa nhận bản cáo trạng của VKSND thành phố Bắc Ninh truy tố các bị cáo về tội “Đánh bạc” là đúng.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh giữ quyền công tố tại phiên toà sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với các bị cáo giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo Y, D, Đ và T về tội “Đánh bạc” theo Khoản 1 Điều 321 và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng: Khoản 1, khoản 3, Điều 321; điểm s,i khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Hoàng Thị Y từ 10 đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách 20 tháng đến 24 tháng.

Đề nghị phạt bổ sung Hoàng Thị Y từ 10.000.000đồng đến 13.000.000đồng.

- Áp dụng: Khoản 1, Điều 321; điểm s, i khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ từ 08 đến 10 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách 16 đến 20 tháng .

- Áp dụng: Khoản 1, khoản 3, Điều 321; điểm s, i khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Vương Thị T từ 06 đến 08 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách 12 đến 16 tháng.

Đề nghị phạt bổ sung Vương Thị T từ 10.000.000đồng đến 13.000.000đồng.

- Áp dụng: Khoản 1, Điều 321; điểm s, i, x khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Vũ Hữu D từ 06 đến 08 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách 12 đến 16 tháng.

Miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo Nguyễn Văn Đ và Vương Hữu D.

Áp dụng: 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự. Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân.

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước tổng số tiền 9.570.000 đồng.

Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như bản cáo trạng truy tố các bị cáo là đúng, không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, ý kiến của các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với không gian, phù hợp với thời gian, địa điểm, cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ thấy đã có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 14 giờ 40 phút ngày 31 tháng 5 năm 2018 tại sảnh tầng 1 nhà Hoàng Thị Y ở khu 4, phường M, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh, Công an thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh bắt quả tang Y đang cùng các đối tượng Vũ Hữu D, Nguyễn Văn Đ, Vương Thị T đánh bạc được thua tiền bằng hình thức chơi “Phỏm”. Vật chứng thu giữ trên bàn bạc gồm 9.570.000 đồng và 01 bộ bài lơ khơ mỗi bộ 52 quân. Hành vi của các bị cáo Y, Đ, T, D đã cấu thành tội "Đánh bạc". Tội phạm được quy định tại khoản 1, Điều 321 Bộ luật hình sự đúng như bản cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự công cộng, gây mất trật tự trị an tại địa phương đồng thời là nguyên nhân dẫn các gia đình vào cảnh túng quẫn, mâu thuẫn vợ chồng. Mặt khác nó còn là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác, gây dư luận bất bình trong quần chúng nhân dân. Xét thấy cần phải xử lý nghiêm các bị cáo bằng luật hình sự nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[2] Xét vai trò của từng bị cáo trong vụ án thì thấy: Các bị cáo Hoàng Thị Y, Nguyễn Văn Đ, Vũ Hữu D và Vương Thị T tham gia đánh bạc với vai trò đồng phạm giản đơn, nhất thời phạm tội, giữa các bị cáo không có sự thống nhất, bàn bạc chặt chẽ. Các bị cáo có vai trò ngang nhau, riêng bị cáo Y có vai trò cao hơn vì là người trực tiếp chuẩn bị bài, địa điểm đánh bạc cho các bị cáo, do vậy khi xem xét quyết định hình phạt thì bị cáo Y phải chịu mức hình phạt cao hơn. Trong khi tham gia đánh bạc các bị cáo sử dụng tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam dùng vào mục đích đánh bạc với số lượng từ nhiều đến ít lần lượt là Y 4.700.000 đồng; Đ 2.730.000 đồng; T 1.100.000 đồng và D là 800.000 đồng, do vậy các bị cáo phải chịu trách nhiệm với hình phạt tương xứng với số tiền các bị cáo tham gia đánh bạc.

[3] Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS của các bị cáo thì thấy: Các bị cáo Y, D, T đều là người có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Riêng bị cáo Đ là người có nhân thân xấu, năm 2014 đã bị Công an thành phố Bắc Ninh xử phạt hành chính về hành vi “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác”. Các bị cáo Y, Đ, D và T đang tham gia đánh bạc bị bắt quả tang. Tại cơ quan điều tra các bị cáo đều nhận thức được hành vi đánh bạc là trái phép, vi phạm pháp luật song vì ham lợi nên ngày 31/5/2018 các bị cáo đã có hành vi phạm tội. Tuy nhiên số tiền các bị cáo dùng vào việc đánh bạc không lớn. Tại phiên toà hôm nay các bị cáo đều có thái độ khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, do vậy các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại điểm i, s khoản 1, Điều 51 BLHS. Bị cáo Đ có Bố đẻ là thương binh, nhiều lần được tặng thưởng Huân chương, huy chương nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại Khoản 2 Điều 51 BLHS. Bị cáo Vương Hữu D là con liệt sỹ, Gia đình có công với cách mạng, Bố đẻ được tặng thưởng nhiều huân huy chương nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm x, khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS. Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng TNHS. Do vậy HĐXX xem xét cần giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho các bị cáo khi lượng hình thể hiện chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước.

Sau khi xem xét, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, cũng như vai trò, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS của các bị cáo; đối chiếu với các quy định pháp luật và xét đề nghị của đại điện VKS thành phố Bắc Ninh, Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội mà xử cho các bị cáo được cải tạo tại địa phương cũng đủ giáo dục các bị cáo trở thành người công dân tốt, có ích cho xã hội.

[4] Về hình phạt bổ sung: Cần phạt các bị cáo Y, Đ, D và T một khoản tiền sung công quỹ Nhà nước để thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật Nhà nước. Tuy nhiên, đối với bị cáo Nguyễn Văn Đ thuộc gia đình chính sách, nhiều năm liền thuộc hộ nghèo ở địa phương và nay cũng trong diện gia đình khó khăn, bị cáo Vương Hữu D là con liệt sỹ, có đơn xin miễn giảm và có xác nhận của chính quyền địa phương, do vậy cần xem xét miễn hình phạt tiền cho các bị cáo Đ, D.

[5] Về vật chứng của vụ án:

Đối với 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân là công cụ mà các bị cáo đã sử dụng trong việc thực hiện tội phạm cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với số tiền 9.570.000đ thu giữ tại chiếu bạc là tiền các bị cáo dùng để thực hiện tội phạm vì vậy cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

Đối với chị Nguyễn Thị L và anh Nguyễn Bá L có mặt lúc các bị cáo bị bắt. Tuy nhiên cơ quan điều tra xác định các đối tượng chỉ ngồi xem và không tham gia đánh bạc. Công an thành phố Bắc Ninh đã nhắc nhở, giáo dục đối với chị L và anh L là phù hợp quy định pháp luật.

Các bị cáo phải chịu án phí theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH:

Tuyên bố các bị cáo Hoàng Thị Y, Nguyễn Văn Đ, Vương Thị T và Vũ Hữu D phạm tội “Đánh bạc”.

- Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; Điểm i, s khoản 1, Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Hoàng Thị Y 10 (Mười) tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách 20 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 27/9/2018.

Phạt bổ sung bị cáo Hoàng Thị Y 10.000.000đ (Mười triệu đồng) sung công quỹ Nhà nước .

- Áp dụng khoản 1, Điều 321; Điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ 08 (Tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách 16 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 27/9/2018.

- Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; Điểm i, s khoản 1, Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Vương Thị T 07 (Bảy) tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách 14 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 27/9/2018.

Phạt bổ sung bị cáo Vương Thị T 10.000.000đ (Mười triệu đồng) sung công quỹ Nhà nước.

- Áp dụng khoản 1, Điều 321; Điểm i,s,x khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Đỗ Hữu D 06(Sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách 12 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 27/9/2018.

Giao các bị cáo Hoàng Thị Y, Nguyễn Văn Đ cho Uỷ ban nhân dân phường M, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Giao bị cáo Vương Thị T cho Uỷ ban nhân dân phường K, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Giao bị cáo Vũ Hữu D cho Ủy ban nhân dân xã G, huyện Y, tỉnh Bắc Giang giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật Thi hành án hình sự.

- Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu huỷ: 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân.

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 9.570.000đ (Chín triệu năm trăm bảy mươi nghìn đồng).Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/8/2018 giữa Công an thành phố Bắc Ninh với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Bắc Ninh).

- Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Các bị cáo Y, T, Đ và D mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Tải về
Bản án số 281/2018/HS-ST Bản án số 281/2018/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất