Bản án số 281/2018/HS-ST ngày 27/09/2018 của TAND TP. Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh về tội đánh bạc

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng tội danh
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 281/2018/HS-ST

Tên Bản án: Bản án số 281/2018/HS-ST ngày 27/09/2018 của TAND TP. Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh về tội đánh bạc
Tội danh: 248.Tội đánh bạc (Bộ luật hình sự năm 1999)
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND TP. Bắc Ninh (TAND tỉnh Bắc Ninh)
Số hiệu: 281/2018/HS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 27/09/2018
Lĩnh vực: Hình sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án:
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ BẮC NINH
TỈNH BẮC NINH
Bản án số: 281/2018/HS-ST
Ngày 27 tháng 9 năm 2018
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƢỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC NINH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên t: Bà Nguyễn Thị Lan Hương.
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Nguyễn Quốc Trung; Ông Viêm Văn Doãn.
Những người tiến hành tố tụng khác tại phiên tòa:
-Thư phiên toà: Đỗ Thanh Ngọc, Thư Tòa án nhân dân thành phố
Bắc Ninh.
- Đại din Vin kim sát nhân dân thành phBc Ninh tham gia phiên tòa:
Ông Trần Mạnh Hà - Kim sát viên.
Ngày 27 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bắc Ninh,
tỉnh Bắc Ninh. Tòa án nhân dân thành phố Bắc Ninh mở phiên tòa xét xử sơ
thẩm công khai vụ án hình sự thẩm thụ lý số: 276/2018/HSST ngày
17/8/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 282/2018/QĐXXST-HS
ngày 10/9/2018 đối với các bị cáo:
1. Hoàng Thị Y, sinh năm 1971
HKTT: Khu 4, phường M, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh;
Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 10/10; Dân tộc: Kinh; Giới
tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;
Con ông: Hoàng X, sinh năm 1937 và bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1942;
Chồng: Đào Đình K, sinh năm 1965; Con: Có 02 con, con lớn sinh năm 1992,
con nhỏ sinh năm 1995;
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 31/5/2018 đến ngày 02/6/2018 được thay thế biện
pháp ngăn chặn bằng Cấm đi khỏi nơi trú”. Hiện tại ngoại, mặt tại phiên
toà.
2. Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1982
HKTT: Khu 4, phường M, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh;
Ngh nghip: Lao động t do; Trình độ hc vn: 06/12; Dân tộc: Kinh; Gii
tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quc tch: Vit Nam;
2
Con ông: Nguyễn Văn H, sinh năm 1945 Nguyễn Th R, sinh năm
1957;
Vợ: Nguyễn Thị Q, sinh năm 1988; Con: 02 con, con ln sinh năm 2012,
con nh sinh năm 2017;
Tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân: Ngày 28/8/2014 bị Công an thành phố Bắc Ninh xử phạt hành
chính số tiền 2.500.000 đồng về hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe người khác.
B cáo bị tm gi t ngày 31/5/2018 đến ngày 02/6/2018 được thay thế bin
pháp ngăn chn bằng Cấm đi khi nơi cư trú”. Hiện ti ngoại, có mặt tại phiên
toà.
3. Vƣơng Thị T, sinh năm 1980
HKTT: Khu 6, phường K, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh;
Ngh nghip: Lao động t do; Trình độ hc vn: 10/12; Dân tộc: Kinh; Gii
tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quc tch: Vit Nam;
Con ông: Vương Xuân T, sinh năm 1952 và bà Vũ ThV, sinh năm 1957;
Chồng: Mai Ngọc L, sinh năm 1971 (đã ly hôn); Con: 02 con, con ln
sinh năm 1999, con nh sinh năm 2007;
Tiền án, tiền sự: Không.
B cáo bị tm gi t ngày 31/5/2018 đến ngày 09/6/2018 được thay thế bin
pháp ngăn chn bằng “Cấm đi khi nơi cư trú”. Hiện ti ngoại, mặt tại phiên
toà.
4. Vũ Hữu D, sinh năm 1965
HKTT: Thôn Nam Ngạn, xã G, huyện Y, tỉnh Bắc Giang;
Ngh nghip: Lao động t do; Trình độ hc vn: 10/10; Dân tộc: Kinh; Gii
tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quc tch: Vit Nam;
Con ông: Hồng J, sinh năm 1946 (là liệt sĩ) Nguyễn Thị N, sinh
năm 1944;
Vợ: Nguyễn Thị L, sinh năm 1968; Con: 03 con, con ln sinh năm 1987,
con nh sinh năm 1993;
Tiền án, tiền sự: Không.
B cáo bị tm gi t ngày 31/5/2018 đến ngày 02/6/2018 được thay thế bin
pháp ngăn chn bằng Cấm đi khi nơi cư trú”. Hiện ti ngoại, có mặt tại phiên
toà.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu trong hsơ vụ án diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ
án được tóm tắt như sau:
Khoảng 14 giờ 40 phút ngày 31 tháng 5 năm 2018, Nguyễn Văn Đ, Vương
Thị T, Hữu D đến nhà Hoàng Thị Y, sinh năm 1971 tại khu 4, phường M,
3
thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh chơi. Sau đó tất cả cùng rủ nhau đánh bạc ăn
tiền dưới hình thức đánh "Phỏm". Y là người chuẩn bị bài và địa điểm ngồi đánh
bạc là sảnh tầng 1 ngay tại nhà Y.
Cách thức chơi "phỏm" như sau: Sử dụng 01 bộ bài khơ 52 quân bài,
gồm 04 "chất" (cơ, , tép, bích) để chơi. Mỗi đối tượng được chia 09 quân
bài, người chia bài được 10 quân người đánh trước theo thứ tự lần lượt từ
phải sang trái. Số bài còn lại để vào giữa. Mỗi người đánh đến quân thứ 4 thì hạ
bài. Người chơi 03 phỏm (gồm 03 quân liền nhau cùng chất, dụ 2,3,4 cơ;
hoặc 03 quân cùng loại, ví dụ 4, 4, 4) gọi "ù", người chơi không có phỏm nào
gọi là "cháy". Sau khi ván bài kết thúc, mỗi người sẽ tính điểm của mình bằng
cách cộng điểm của tất cả các quân bài không thuộc phỏm với quân J = 11, Q =
12, K = 13 A = 1. Các quân bài khác số điểm tương ứng với số của quân
bài. Người chiến thắng ván bài là người ù hoặc người có số điểm thấp nhất sau 4
vòng đánh.
Người vnhất sẽ được ăn tiền của người về nhì, ba, lần lượt 20.000
đồng, 40.000 đồng, 60.000 đồng. Người bị "cháy" sẽ mất 80.000 đồng. Trong
khi chơi, người bị người khác ăn mất 01 quân bài sẽ mất 10.000 vào giữa, gọi
tiền "gà". Người "ù" được tổng số 120.000 đồng của 03 người còn lại, được cả
tiền "gà" bỏ ra 10.000 đồng để bên ngoài cho Y gọi tiền "hồ". Khi đánh
bạc, Y ngồi gần giường, bên tay phải là D, bên tay trái là T, đối diện là Đ.
Các đối tượng đánh bạc đến khoảng 14 giờ 40 phút cùng ngày thì bị bắt quả
tang. Vật chứng thu giữ gồm:
- 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân
- Thu giữ tại chiếu bạc 200.000 đồng tiền "gà", 30.000 đồng tiền "hồ" số
tiền các đối tượng bỏ ra đánh bạc, gồm: Thu giữ của Y 4.700.000 đồng, thu giữ
của Đ 2.730.000 đồng, thu giữ của T 1.110.000 đồng, thu giữ của D 800.000
đồng. Các đối tượng không nhớ số tiền ban đầu bỏ ra đánh bạc bao nhiêu,
và đã được thua như thế nào. Tổng số tiền bị thu giữ là 9.570.000 đồng.
Tại cơ quan điều tra các bị cáo Y, Đ, T, D đều khai nhận hành vi phạm tội của
mình.
Với nội dung trên, tại bản Cáo trạng số: 185/Ctr -VKSTPBN ngày 17 tháng 8
năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh đã truy tố các bị cáo
về tội “Đánh bạc” theo khoản 1, Điều 321 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà hôm nay các bị cáo khai nhận: Vào khoảng 14 giờ 40 phút
ngày 31 tháng 5 năm 2018 tại nhà Hoàng Thị Y, các đối tượng Y, Đ, T D
cùng rủ nhau đánh phỏm với hình thức ăn tiền. Khi các đối tượng đang đánh bạc
4
thì bị đội cảnh sát trật tự Công an thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh bắt quả
tang thu giữ vật chứng như đã nêu ở trên.
Các bị cáo thừa nhận bản cáo trạng của VKSND thành phố Bắc Ninh truy
tố các bị cáo về tội “Đánh bạc” là đúng.
Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc
Ninh giữ quyền công tố tại phiên toà sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức
độ hành vi phạm tội của các bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ đối với các bị cáo giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo Y, D,
Đ T về tội “Đánh bạc” theo Khoản 1 Điều 321 và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Áp dụng: Khoản 1, khoản 3, Điều 321; điểm s,i khoản 1 Điều 51; Điều
65 Bộ luật hình sự.
Xphạt bị cáo Hoàng Thị Y từ 10 đến 12 tháng nhưng cho hưởng án
treo thời gian thử thách 20 tháng đến 24 tháng.
Đề nghị phạt bổ sung Hoàng Thị Y từ 10.000.000đồng đến
13.000.000đồng.
- Áp dụng: Khoản 1, Điều 321; điểm s, i khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều
65 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ từ 08 đến 10 tháng tù nhưng cho hưởng án
treo thời gian thử thách 16 đến 20 tháng .
- Áp dụng: Khoản 1, khoản 3, Điều 321; điểm s, i khoản 1 Điều 51; Điều
65 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Vương Thị T t06 đến 08 tháng nhưng cho hưởng án
treo thời gian thử thách 12 đến 16 tháng.
Đề nghị phạt bổ sung Vương Th T từ 10.000.000đồng đến
13.000.000đồng.
- Áp dụng: Khoản 1, Điều 321; điểm s, i, x khoản 1, khoản 2 Điều 51;
Điều 65 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Vũ Hữu D từ 06 đến 08 tháng tù nhưng cho hưởng án treo
thời gian thử thách 12 đến 16 tháng.
Miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo Nguyễn Văn Đ và Vương Hữu D.
Áp dụng: 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự.
Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân.
Tịch thu sung công quỹ Nhà nước tổng số tiền 9.570.000 đồng.
Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như bản cáo trạng truy tố các b
cáo đúng, không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, mà chỉ đề
nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
5
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ
vào kết quả tranh luận tại phiên toà; trên sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng
cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, ý kiến của các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã
được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với không gian, phù hợp với
thời gian, địa điểm, cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ thấy đã có đủ
sở để kết luận: Khoảng 14 giờ 40 phút ngày 31 tháng 5 năm 2018 tại sảnh
tầng 1 nhà Hoàng Thị Y khu 4, phường M, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc
Ninh, Công an thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh bắt quả tang Y đang cùng các
đối tượng Hữu D, Nguyễn Văn Đ, Vương Thị T đánh bạc được thua tiền
bằng hình thức chơi “Phỏm. Vật chứng thu giữ trên bàn bạc gồm 9.570.000
đồng 01 bộ bài khơ mỗi bộ 52 quân. Hành vi của các bị cáo Y, Đ, T, D đã
cấu thành tội "Đánh bạc". Tội phạm được quy định tại khoản 1, Điều 321 Bộ
luật hình sự đúng như bản cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố.
Hành vi phạm tội của các bị cáo nguy hiểm cho hội, đã xâm phạm
đến trật tự công cộng, gây mất trật tự trị an tại địa phương đồng thời nguyên
nhân dẫn các gia đình vào cảnh túng quẫn, mâu thuẫn vợ chồng. Mặt khác
còn nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác, gây luận bất bình
trong quần chúng nhân dân. Xét thấy cần phải xử lý nghiêm các bị cáo bằng luật
hình sự nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[2] Xét vai trò của từng bị cáo trong vụ án thì thấy: Các bị cáo Hoàng Thị
Y, Nguyễn Văn Đ, Hữu D Vương Thị T tham gia đánh bạc với vai trò
đồng phạm giản đơn, nhất thời phạm tội, giữa các bị cáo không sự thống
nhất, bàn bạc chặt chẽ. Các bị cáo vai trò ngang nhau, riêng bị cáo Y vai
trò cao hơn người trực tiếp chuẩn bị bài, địa điểm đánh bạc cho các bị cáo,
do vậy khi xem xét quyết định hình phạt thì bị cáo Y phải chịu mức hình phạt
cao hơn. Trong khi tham gia đánh bạc các bị cáo sử dụng tiền ngân hàng nhà
nước Việt Nam dùng vào mục đích đánh bạc với số lượng từ nhiều đến ít lần
lượt Y 4.700.000 đồng; Đ 2.730.000 đồng; T 1.100.000 đồng D là 800.000
đồng, do vậy các bị cáo phải chịu trách nhiệm với hình phạt tương xứng với số
tiền các bị cáo tham gia đánh bạc.
[3] Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS của các bị
cáo thì thấy: Các bị cáo Y, D, T đều là người có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội,
thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Riêng bcáo Đ người nhân thân xấu,
năm 2014 đã bị Công an thành phBắc Ninh xử phạt hành chính về hành vi “Cố
ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác. Các bị cáo Y, Đ,
6
D T đang tham gia đánh bạc bị bắt quả tang. Tại quan điều tra các bị cáo
đều nhận thức được hành vi đánh bạc trái phép, vi phạm pháp luật song
ham lợi nên ngày 31/5/2018 các bị cáo đã hành vi phạm tội. Tuy nhiên số
tiền các bcáo dùng vào việc đánh bạc không lớn. Tại phiên toà hôm nay các bị
cáo đều có thái độ khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội
của mình, do vậy các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại
điểm i, s khoản 1, Điều 51 BLHS. Bị cáo Đ Bố đthương binh, nhiều lần
được tặng thưởng Huân chương, huy chương nên bị cáo được hưởng tình tiết
giảm nhẹ TNHS quy định tại Khoản 2 Điều 51 BLHS. Bị cáo Vương Hữu D
con liệt sỹ, Gia đình công với cách mạng, Bố đẻ được tặng thưởng nhiều
huân huy chương nên bcáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
quy định tại điểm x, khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS. Các bị cáo không tình
tiết tăng nặng TNHS. Do vậy HĐXX xem xét cần giảm nh một phần trách
nhiệm hình sự cho các bị cáo khi lượng hình thể hiện chính sách khoan hồng
của Đảng và Nhà nước.
Sau khi xem xét, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, cũng như
vai trò, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS của các bị cáo; đối
chiếu với các quy định pháp luật và xét đề nghị của đại điện VKS thành phố Bắc
Ninh, Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi
xã hội mà xử cho các bị cáo được cải tạo tại địa phương cũng đủ giáo dục các bị
cáo trở thành người công dân tốt, có ích cho xã hội.
[4] Về hình phạt bổ sung: Cần phạt các bị cáo Y, Đ, D T một khoản
tiền sung công quỹ Nhà nước để thể hiện snghiêm minh của pháp luật Nhà
nước. Tuy nhiên, đối với bị cáo Nguyễn Văn Đ thuộc gia đình chính sách, nhiều
năm liền thuộc hộ nghèo địa phương nay cũng trong diện gia đình khó
khăn, bị cáo Vương Hữu D con liệt sỹ, đơn xin miễn giảm xác nhận
của chính quyền địa phương, do vậy cần xem xét miễn hình phạt tiền cho các bị
cáo Đ, D.
[5] Về vật chứng của vụ án:
Đối với 01 bộ bài khơ 52 quân công cụ các bị cáo đã sử dụng
trong việc thực hiện tội phạm cần tịch thu tiêu hủy.
Đối với số tiền 9.570.000đ thu giữ tại chiếu bạc là tiền các bị cáo dùng để
thực hiện tội phạm vì vậy cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước.
Đối với chị Nguyễn Thị L anh Nguyễn L mặt lúc các bị cáo bị
bắt. Tuy nhiên quan điều tra xác định các đối tượng chỉ ngồi xem không
tham gia đánh bạc. Công an thành phố Bắc Ninh đã nhắc nhở, giáo dục đối với
chị L và anh L phù hợp quy định pháp luật.
Các bị cáo phải chịu án phí theo qui định của pháp luật.
7
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố các bị cáo Hoàng Thị Y, Nguyễn Văn Đ, Vƣơng Thị T
Vũ Hữu D phạm tội “Đánh bạc”.
- Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; Điểm i, s khoản 1, Điều 51; Điều
65 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Hoàng Thị Y 10 (Mười) tháng tù nhưng cho hưởng án treo
thời gian thử thách 20 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 27/9/2018.
Phạt bổ sung bcáo Hoàng Thị Y 10.000.000đ (Mười triệu đồng) sung
công quỹ Nhà nước .
- Áp dụng khoản 1, Điều 321; Điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều
65 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bcáo Nguyễn Văn Đ 08 (Tám) tháng nhưng cho hưởng án
treo thời gian thử thách 16 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 27/9/2018.
- Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 321; Điểm i, s khoản 1, Điều 51; Điều
65 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Vương Thị T 07 (Bảy) tháng tù nhưng cho hưởng án treo
thời gian thử thách 14 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 27/9/2018.
Phạt bổ sung b cáo Vương Thị T 10.000.000đ (Mười triệu đồng) sung
công quỹ Nhà nước.
- Áp dụng khoản 1, Điều 321; Điểm i,s,x khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều
65 Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Đỗ Hữu D 06(Sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời
gian thử thách 12 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 27/9/2018.
Giao các bị cáo Hoàng Thị Y, Nguyễn Văn Đ cho Uỷ ban nhân dân
phường M, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh giám sát, giáo dục trong thời
gian thử thách.
Giao bị cáo Vương Thị T cho Uỷ ban nhân dân phường K, thành phố Bắc
Ninh, tỉnh Bắc Ninh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Giao bị cáo Hữu D cho Ủy ban nhân dân G, huyện Y, tỉnh Bắc
Giang giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm
nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án
thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án đã cho
hưởng án treo.
Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi trú thì thực
hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật Thi hành án hình sự.
8
- Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ
luật tố tụng hình sự.
Tịch thu tiêu huỷ: 01 bộ bài tú lơ khơ 52 quân.
Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 9.570.000đ (Chín triệu năm
trăm bảy mươi nghìn đồng).Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 20/8/2018
giữa Công an thành phố Bắc Ninh với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố
Bắc Ninh).
- Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết
326/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về
án phí, lệ phí Tòa án.
Các bị cáo Y, T, Đ D mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự
sơ thẩm.
Các bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND TP Bắc Ninh;
- TAND tỉnh BN; VKSND tỉnh Bắc Ninh;
- THA dân sự TP Bắc Ninh;
- Những người tham gia tố tụng;
- Lưu hồ sơ, văn phòng.
T/M. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
Nguyễn Thị Lan Hƣơng
9
Tải về
Bản án số 281/2018/HS-ST Bản án số 281/2018/HS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất