Bản án số 27/2023/HS-ST ngày 20/04/2023 của TAND huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng về tội trộm cắp tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 27/2023/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 27/2023/HS-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 27/2023/HS-ST ngày 20/04/2023 của TAND huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng về tội trộm cắp tài sản |
|---|---|
| Tội danh: | 138.Tội trộm cắp tài sản (Bộ luật hình sự năm 1999) |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND huyện Bảo Lâm (TAND tỉnh Lâm Đồng) |
| Số hiệu: | 27/2023/HS-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 20/04/2023 |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ án: |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN BẢO LÂM Độc lập- Tự do- Hạnh phúc
TỈNH LÂM ĐỒNG
Bản án số: 27/2023/HS-ST
Ngày : 20.4.2023
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẢO LÂM, TỈNH LÂM ĐỒNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán- Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Bích Thủy
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Nguyễn Văn Cư
2. Bà Phan Thị Hà
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Anh Vương- Thư ký Tòa án, Tòa án nhân
dân huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng tham
gia phiên tòa: Ông Lê Hữu Việt Phú- Kiểm sát viên.
Ngày 20 tháng 4 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bảo Lâm, tỉnh
Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai, theo thụ tục thông thường vụ án hình sự thụ lý
số 14/2023/HSST ngày 28 tháng 02 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử
số 17/2023/QĐXXST- HS ngày 06 tháng 4 năm 2023 đối với bị cáo:
Họ và tên: Thái H; tên gọi khác: Không; sinh năm 1982 tại Lâm Đồng.
Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Thôn 6, xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng; Nghề
nghiệp: Làm vườn; trình độ văn hóa: 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo:
Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Thái D, sinh năm 1955 và bà Trương Thị D,
sinh năm 1959; vợ: Nguyễn Thị H, sinh năm 1983 (đã ly hôn); con: có 03 con, lớn
nhất sinh năm 2006, nhỏ nhất sinh năm 2016.
Tiền án: Tại bản án số 112/2017/HSSTcủa Tòa án nhân dân thành phố Bảo
Lộc, tỉnh Lâm Đồng xử phạt Thái H 06 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” theo
khoản 1 Điều 173 BLHS, chấp hành xong bản án ngày 21/5/2018; Tại bản án số
33/2020/HSST ngày 30/7/2020 của Tòa án nhân dân huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng
xử phạt Thái H 02 năm tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173
BLHS, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 08/4/2020, ngày 30/7/2020 H đã
nộp xong án phí HSST, ngày 08/02/2022 H chấp hành xong hình phạt tù. Tính đến
ngày 14/12/2022 H chưa được xóa án tích.
Tiền sự: Tại Quyết định xử phạt hành chính số 37/QĐ-XPVPHC ngày
21/3/2018 của Công an huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 3.000.000 đồng về

2
hành vi Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và Trộm cắp tài sản, Thái H chưa
chấp hành nộp phạt.
Bị cáo bị bắt và tạm giam từ ngày 14/12/2022. Hiện đang tạm giam tại nhà
tạm giữ Công an huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
+ Người bị hại:
Anh Nguyễn Thanh P, sinh năm 1998 (có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt). Địa
chỉ: Xóm 4, thôn 1, xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng.
+ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Anh Nguyễn Công T, sinh năm 1982 (có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt). Địa
chỉ: Số 68 Tân Phú 2, xã Đ, huyện D, tỉnh Lâm Đồng.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ
án được tóm tắt như sau:
Thái H vừa chấp hành xong hình phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”
vào ngày 08/02/2022, chưa được xóa án tích. Vào khoảng 08 giờ 00 phút ngày
14/12/2022, H đi bộ từ nhà tại thôn 6, xã L, huyện B tìm tài sản để trộm cắp bán lấy
tiền tiêu xài và mua rượu uống. Khi đến nhà anh Nguyễn Thanh P (sinh 1998; cư
trú: Thôn 1, xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng) thấy trước sân nhà có xe máy hiệu LiFan
màu nâu, biển kiểm soát 47L4 -5148, trên cổ xe có cắm chìa khóa, nhà không có
cổng nên vào lấy trộm xe máy đi ra khỏi cổng rồi nổ máy bỏ chạy về hướng huyện
Di Linh. Khi đến thôn Tân Phú 2, xã Đ, huyện D, H vào tiệm thu mua phế liệu của
anh Nguyễn Công T (Sn: 1982, NKTT: Tân Phú 2, xã Đ, huyện D), cân xe lên được
72kg bán được 600.000 đồng. Bán xong, H bắt xe buýt đi về nhà hết 45.000 đồng,
mua rượu, đồ ăn và 01 gói thuốc ngựa đỏ tổng cộng hết 160.000 đồng, còn lại
440.000 đồng H cất giữ trong người. Còn anh Phước khi phát hiện mất xe đã xem
camera của gia đình biết H lấy trộm xe của mình nên đến Công an xã Lộc An trình
báo. Công an xã Lộc An đã mời H lên làm việc thì H thừa nhận hành vi phạm tội
của mình và giao nộp số tiền còn lại là 440.000 đồng. Ngoài ra, Công an xã Lộc An
còn thu giữ và chuyển cho Công an huyện Bảo Lâm: 01 xe máy hiệu LiFan màu nâu,
biển kiểm soát 47L4-5148; 01 USB lưu trữ video ghi lại hành vi phạm tội của H.
Tại Kết luận định giá tài sản số 01/KL-HĐĐGTS ngày 14/12/2022 của Hội đồng
định giá tài sản trong Tố hình tụng hình sự huyện Bảo Lâm kết luận: 01 xe máy nhãn
hiệu Lifan, biển số: 47L4-5148, số khung: 013DL001329, số máy: 30025966, xe
không có giàn yếm (dàn nhựa xe) có giá trị là 2.400.000 đồng.
3
Về tang vật: Cơ quan CSĐT Công an huyện Bảo Lâm đã trả lại xe máy nhãn
hiệu Lifan, biển số: 47L4-5148 cho anh Nguyễn Thanh P (xe anh Phước mua tại cửa
hàng xe gắn máy Văn Khoa, địa chỉ: Thôn 3, xã L, huyện B, chưa sang tên, xe này
của anh Nguyễn Trọng T, Sn; 1964, B.EaRớt, Ea Ô, EaKar, Đắk Lắk, bán lại năm
2016). Đối với số tiền 440.000 đồng đang được tạm giữ tại tài khoản tạm giữ Công
an huyện Bảo Lâm. Đối với 01 USB lưu trữ video ghi lại hành vi phạm tội của Thái
H lưu theo hồ sơ vụ án.
Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại anh Nguyễn Thanh P đã nhận lại được
tài sản và không yêu cầu gì. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn
Công T không yêu cầu bị cáo Thái H phải trả lại số tiền 600.000 đồng đã đưa cho bị
cáo khi mua xe máy.
Quá trình điều tra, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.
Tại Bản cáo trạng số 21/CT-VKSBL ngày 27 tháng 02 năm 2023 của Viện
kiểm sát nhân dân huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng truy tố bị cáo Thái H về tội “Trộm
cắp tài sản” được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 BLHS.
Tại phiên tòa:
+ Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Lâm giữ quyền công tố luận tội
và tranh luận. Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị tuyên bố bị
cáo Thái H phạm tội “Trộm cắp tài sản”; áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173, Điều
38, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 để xử phạt bị cáo Thái H
từ 03 năm tù đến 04 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 14/12/2022.
Về trách nhiệm dân sự anh Nguyễn Thanh P đã nhận lại tài sản của mình và không
yêu cầu gì thêm, anh Nguyễn Công T không yêu cầu bị cáo H trả lại số tiền 600.000
đồng nên không đề cập đến. Về xử lý vật chứng Cơ quan điều tra Công an huyện
Bảo Lâm đã trả lại 01 xe gắn máy nhãn hiệu Lifan, biển số: 47L4-5148 cho chủ sở
hữu là anh Nguyễn Thanh P xong, tịch thu và sung ngân sách Nhà nước số tiền
440.000 đồng do bị cáo phạm tội mà có (đã được chuyển vào tài khoản của Chi cục
thi hành án dân sự huyện Bảo Lâm), đối với 01 USB lưu trữ video ghi lại hành vi
phạm tội của Thái H lưu theo hồ sơ vụ án. Về án phí buộc bị cáo chịu 200.000 đồng
án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
+ Bị cáo Thái H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như Bản cáo
trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Lâm đã truy tố. Lời khai của bị cáo
trùng khớp với lời khai của các bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, phù
hợp với toàn bộ tài liệu có trong hồ sơ vụ án.
+ Chủ tọa công bố lời khai của người bị hại anh Nguyễn Thanh P khai trùng
khớp lời khai của bị cáo và các tài liệu trong hồ sơ vụ án, đã nhận lại tài sản của mình
và không yêu cầu gì thêm.
+ Chủ tọa công bố lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh
Nguyễn Công T khai trùng khớp với lời khai của bị cáo và các tài liệu trong hồ sơ
4
vụ án, không yêu cầu bị cáo H trả lại số tiền 600.000 đồng đã đưa cho bị cáo khi thu
mua xe máy.
+ Bị cáo nói lời sau cùng: Thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, nhận
thức được hành vi phạm tội là sai, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình
phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được
thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bảo
Lâm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Lâm, Kiểm sát viên trong
quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy
định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có
ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là đúng quy định của pháp luật.
[2] Về hành vi của bị cáo Thái H thể hiện:
Thái H là đối tượng nghiện rượu, không có nghề nghiệp ổn định, đã có hai tiền
án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích, có 01 tiền sự về hành vi lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và trộm cắp tài sản nhưng chưa thi hành quyết
định xử phạt. Sau khi chấp hành xong hình phạt tù, về lại địa phương sinh sống, H
không ăn năn, sửa chữa, lo làm ăn mà tiếp tục thực hiện trộm cắp tài sản của người
khác để lấy tiền tiêu xài cá nhân, mua rượu uống, cụ thể như sau: Vào khoảng 08
giờ 00 phút ngày 14/12/2022, H đi bộ từ nhà tại thôn 6, xã L, huyện B tìm tài sản để
trộm cắp bán lấy tiền tiêu xài và mua rượu uống. Khi đến nhà anh Nguyễn Thanh P,
thấy trước sân nhà có xe máy hiệu LiFan màu nâu, biển kiểm soát 47L4 -5148, trên
cổ xe có cắm chìa khóa, nhà không có cổng, không có ai trông coi nên vào lấy trộm
xe máy đi ra khỏi cổng rồi nổ máy bỏ chạy về hướng huyện Di Linh. Khi đến thôn
Tân Phú 2, xã Đ, huyện D, H vào tiệm thu mua phế liệu của anh Nguyễn Công T,
cân xe lên được 72kg bán được 600.000 đồng. Bán xong, H bắt xe buýt đi về nhà,
mua rượu, đồ ăn và 01 gói thuốc ngựa đỏ tổng cộng hết 160.000 đồng, còn lại
440.000 đồng H cất giữ trong người. Còn anh Phước khi phát hiện mất xe đã xem
camera của gia đình biết H lấy trộm xe của mình nên đến Công an xã Lộc An, huyện
Bảo Lâm trình báo. Công an xã L, huyện B đã mời H lên làm việc thì H thừa nhận
việc lấy trộm xe máy như trên của anh Phước và giao nộp số tiền còn lại là 440.000
đồng. Ngoài ra, Công an xã Lộc An còn thu giữ và chuyển cho Công an huyện Bảo
Lâm: 01 xe máy hiệu LiFan màu nâu, biển kiểm soát 47L4-5148; 01 USB lưu trữ
video ghi lại hành vi phạm tội của H.
Tại Kết luận định giá tài sản số 01/HĐĐGTS ngày 14/12/2022 của Hội đồng
định giá tài sản trong Tố hình tụng hình sự huyện Bảo Lâm kết luận: 01 xe máy nhãn
5
hiệu Lifan, biển số: 47L4-5148, số khung: 013DL001329, số máy: 30025966, xe
không có giàn yếm (dàn nhựa xe) có giá trị là 2.400.000 đồng.
Do đó, hành vi của bị cáo Thái H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài
sản” được quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015. Tại bản án hình sự sơ
thẩm số 32/2020/HSST ngày 30/7/2020 của Tòa án nhân dân huyện Bảo Lâm, tỉnh
Lâm Đồng đã áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” tại điểm h
Điều 52 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Thái H khi quyết định hình phạt. Ngày
08/02/2022 H chấp hành xong bản án nhưng chưa được xóa án tích, đến ngày
14/12/2022 H thực hiện hành vi phạm tội như trên nên thuộc trường hợp “tái phạm
nguy hiểm”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ
luật hình sự. Vì vậy, Cáo trạng số 21/CT-VKSBL ngày 27 tháng 02 năm 2023 của
Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng truy tố đối với bị cáo Thái
H là hoàn toàn có căn cứ và đúng pháp luật.
Hành vi phạm tội nêu trên của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm
quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân, thể hiện sự coi thường pháp luật, bị cáo
nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật mà vẫn thực hiện, thể hiện sự
liều lĩnh, gây dư luận xấu về tình hình trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần thiết
phải áp dụng cho bị cáo H một mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi
phạm tội mà bị cáo gây ra, đủ để răn đe, cải tạo, giáo dục và phòng ngừa tội phạm
chung.
[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra cũng như tại
phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần xem xét giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.
[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 30 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 166,
Điều 584 Bộ luật dân sự 2015: Người bị hại ông anh Nguyễn Thanh P đã nhận lại tài
sản của mình là 01 xe gắn máy nhãn hiệu Lifan, biển số: 47L4-5148 và không yêu
cầu gì. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Công T không yêu cầu
bị cáo Thái H trả lại số tiền 600.000 đồng. Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết
về phần dân sự.
[6] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố
tụng hình sự: Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra Công an huyện Bảo Lâm đã thu
giữ và trả lại cho anh Nguyễn Thanh P 01 xe gắn máy nhãn hiệu Lifan, biển số:
47L4-5148 xong nên Hội đồng xét xử không đề cập đến. Đối với 01 USB video ghi
lại hành vi phạm tội của bị cáo Thái H cần lưu theo hồ sơ vụ án. Đối với số tiền
440.000 đồng do bị cáo H nộp lại, xét đây là tài sản do phạm tội mà có nên tịch thu
sung vào ngân sách Nhà nước theo quy định.
[7] Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 147 Bộ luật
tố tụng dân sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về “Mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng
6
án phí và lệ phí Tòa án” buộc bị cáo Thái H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo
quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Tuyên bố bị cáo Thái H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật
hình sự 2015, xử phạt bị cáo Thái H 42 (bốn mươi hai) tháng tù, thời hạn chấp hành
hình phạt tù tính từ ngày 14 tháng 12 năm 2022.
2. Về xử lý vật chứng:
+ Lưu trữ theo hồ sơ vụ án 01 USB lưu trữ video ghi lại hành vi phạm tội của
bị cáo Thái H (được bỏ trong 01 phong bì thư dán kín, có đóng dấu giáp lai dấu tròn
đỏ của Công an xã Lộc An- Công an huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng và Cơ quan
cảnh sát Điều tra- Công an huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng, các chữ ký và chữ viết
họ và tên gồm Trương Quốc Hòa, Nguyễn Thanh P, Trương Hữu Ngọc).
+ Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 440.000 đồng tại tài khoản số
3949.0.9059262.00000 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm
Đồng tại Kho bạc nhà nước huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng theo ủy nhiệm chi ngày
15 tháng 3 năm 2023.
3. Về án phí: Buộc bị cáo Thái H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ
thẩm.
4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong
thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, ngươi có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được
bản án hoặc bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét
xử theo thủ tục phúc thẩm (người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chỉ được quyền
kháng cáo phần có liên quan).
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Lâm Đồng;
- VKSND tỉnh Lâm Đồng;
- VKSND huyện Bảo Lâm;
- Công an huyện Bảo Lâm;
- Chi cục THADS huyện Bảo Lâm;
- Bị cáo, những người tham gia tố tụng;
- Lưu hồ sơ.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Nguyễn Thị Bích Thủy
7
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 28/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 15/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 14/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 14/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 12/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 06/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 05/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 01/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 27/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 23/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 16/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Bản án số 04/2024/HS-PT ngày 05/02/2024 của TAND TP. Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình về tội trộm cắp tài sản
Ban hành: 05/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Bản án số 14/2024/HS-ST ngày 05/02/2024 của TAND huyện Hòa Vang, TP. Đà Nẵng về tội trộm cắp tài sản
Ban hành: 05/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 01/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 31/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 31/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 31/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 31/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 30/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 30/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm