Bản án số 26/DSPT ngày 11/10/2025 của TAND tỉnh Sơn La về tranh chấp đất đai
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 26/DSPT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 26/DSPT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 26/DSPT
| Tên Bản án: | Bản án số 26/DSPT ngày 11/10/2025 của TAND tỉnh Sơn La về tranh chấp đất đai |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp đất đai |
| Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Sơn La |
| Số hiệu: | 26/DSPT |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 11/10/2025 |
| Lĩnh vực: | Dân sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ/việc: | Ngày 22/03/2024, ông Tạ Xuân P và bà Bùi Thị M có đơn khởi kiện gửi Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La khởi kiện lại vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất. Trong trường hợp này ông Tạ Xuân P bà Bùi Thị M có quyền khởi kiện lại vụ án dân sự được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 217, khoản 1 Điều 218 Bộ Luật Tố tụng dân sự. Căn cứ quy định tại khoản 3, khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, Điều 203 Luật đất đai năm 2013. Cấp sơ thẩm đã thụ lý giải quyết và xác định quan hệ pháp luật; Tranh chấp quyền sử dụng đất và tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, xác định thẩm quyền giải quyết vụ án thuộc Tòa án nhân dân huyệ |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH SƠN LA
Bản án số: 26/2025/DS-PT
Ngày 11 - 9 - 2025
V/v: Tranh chấp quyền sử
dụng đất và Tranh chấp hợp
đồng tặng cho quyền sử
dụng đất.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SƠN LA
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Ông Đỗ Tuấn Long.
Ông Phạm Tuấn Minh - Bà Tòng Thị Hiền.
- Thư ký phiên tòa: Bà Phạm Thị Hồng Anh - Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Sơn La.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La tham gia phiên tòa: Ông
Phạm Quốc Đức - Kiểm sát viên.
Ngày 11 tháng 9 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La xét
xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự phúc thẩm thụ lý số: 40/2025/TLPT-DS
ngày 21 tháng 7 năm 2025 về việc; Tranh chấp quyền sử dụng đất và Tranh
chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất. Do bản án dân sự sơ thẩm số:
09/2025/DS-ST ngày 29 tháng 5 năm 2025 của Tòa án nhân dân huyện Mai
Sơn, tỉnh Sơn La (nay là Tòa án nhân dân khu vực 4 - tỉnh Sơn La) bị kháng
cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 42/2025/QĐ-PT ngày
18 tháng 8 năm 2025, Quyết định hoãn phiên tòa số: 45/2025/QĐ-PT ngày 27
tháng 8 năm 2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Tạ Xuân P (Tạ Văn P) sinh năm 1971 và bà Bùi Thị
Mỵ, sinh năm 1973, cùng địa chỉ: Xóm 3, tiểu khu NS, xã CM, huyện M S, tỉnh
Sơn La (nay là xóm 3, tiểu khu NS, xã CM, tỉnh Sơn La). Có mặt.
: Ông Tạ Xuân P, sinh
năm 1971, địa chỉ: Xóm 3, tiểu khu NS, xã CM, huyện M S, tỉnh Sơn La
(nay là xóm 3, tiểu khu NS, xã CM, tỉnh Sơn La). Có mặt.
Ông Dương
Đức Tg - Luật sư Công ty Luật TNHH Blacktone. Địa chỉ: Số 86 Hạ Yên
Quyết, phường Yên Hòa, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội (nay là số 86 Hạ
Yên Quyết, phường Yên Hoà, thành phố Hà Nội). Vắng mặt.
2. Bị đơn có yêu cầu phản tố: Ông Trần Văn H, sinh năm 1962 và bà Tạ
2
Thị X, sinh năm 1963. Cùng địa chỉ: Bản MT, xã MB, huyện MS, tỉnh Sơn La
(nay là bản MT, xã CM, tỉnh Sơn La). Có mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Ông Tạ Xuân Đ, sinh năm 1982, địa chỉ: Bản MT, xã MB, huyện MS, tỉnh
Sơn La (nay là bản MT, xã CM, tỉnh Sơn La). Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng
mặt.
- Ông Tạ Văn T, sinh năm 1974, địa chỉ: Tiểu khu NS, xã CM, huyện MS,
tỉnh Sơn La (nay là Tiểu khu NS, xã C M, tỉnh Sơn La). Vắng mặt, có đơn xin xét
xử vắng mặt.
- Bà Bùi Thị P, sinh năm 1937, địa chỉ: Bản MT, xã MB, huyện MS, tỉnh Sơn
La (nay là bản MT, xã CM, tỉnh Sơn La). Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.
- Bà Nguyễn Thị A, sinh năm 1968, địa chỉ: Tổ 01, phường MC, thị xã M C,
tỉnh Sơn La (nay là tổ 1, phường MC, tỉnh Sơn La). Vắng mặt, có đơn xin xét xử
vắng mặt.
- Anh Đào Văn C, sinh năm 1989 và chị Đào Thị T, sinh năm 1991, địa chỉ:
Tổ dân phố số 01, phường MC, thị xã MC, tỉnh Sơn La (nay là tổ dân phố số 01,
phường MC, tỉnh Sơn La). Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.
4. Người làm chứng:
- Ông Phạm Ngọc Đ, trú tại Bản MT, xã MB, huyện M S, tỉnh Sơn La (nay là
bản MT, xã CM, tỉnh Sơn La). Có mặt.
- Ông Hà Thanh V, trú tại bản M, xã MB, huyện MS, tỉnh Sơn La (nay là bản
M, xã CM, tỉnh Sơn La). Có mặt.
5. Người kháng cáo: Nguyên đơn Ông Tạ Xuân P.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Bố mẹ ông Tạ Xuân P là cụ Tạ Quang G và cụ Bùi Thị P có 04 người con
là bà Tạ Thị X, ông Tạ Xuân P, ông Tạ Văn T và ông Tạ Xuân Đ. Năm 2000
ông G mất không để lại di chúc, bà P ở cùng ông Tạ Xuân Đ tại bản M T, xã M
B (hiện nay đã già).
Ông Tạ Xuân P đi khai hoang tại bản MT, xã MB và đến năm 1998 được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Tạ Xuân P (Tạ Văn P) số
00445 QSDD/627/QĐ-UB do Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh
Sơn La cấp giấy ngày 21/12/1998 bao thửa đất số 30(2), tờ bản đồ số 124-12
và thửa đất số 226, tờ bản đồ 124-9, địa chỉ thửa đất bản M T, xã MB, huyện
MS, tỉnh Sơn La. Thời điểm này ông Ph đã kết hôn với bà Bùi Thị M và đã ra
ở riêng, không còn chung sống với bố mẹ. Năm 2001, ông P đã chuyển lên
Tiểu khu NS, xã CM sinh sống, không có nhu cầu sử dụng. Vì vậy, ông P đã
3
cho bà X mượn lại thửa đất số 30(2), tờ bản đồ số 124-12 và thửa đất số 226,
tờ bản đồ 124-9, địa chỉ thửa đất bản MT, xã MB cho bà X trồng rau. Việc
mượn đất chỉ thỏa thuận miệng, không có người chứng kiến, không lập thành
văn bản. Năm 2007, ông P yêu cầu trả lại đất nhưng bà X không trả, năm 2011,
khi bà X làm nhà, ông P đã yêu cầu bà X dừng lại, không được xây dựng nhà
kiên cố nhưng bà X vẫn tiếp tục xây dựng. Việc này ông P chỉ trao đổi trong
gia đình, không có người chứng kiến.
Từ năm 2001, khi chuyển lên NS sinh sống đã giấu giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất tại nhà ông Tạ Xuân Đ. Năm 2017, ông P chuyển nhượng
một phần thửa đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên
ông P(diện tích đất khác, không phải thửa đật tranh chấp) cho ông Tạ Xuân Đ,
vì vậy, ông P đã giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Đ. Năm
2016, bà X cho ông P sử dụng thửa đất có chiều rộng 05m, chiều sâu hết đất tại
Tiểu khu NS, xã CM (thể hiện tại Hợp đồng tặng cho của bà X cho ông P năm
2016). Nguồn gốc thửa đất tại NS là do bà X được bà P chia cho năm 2003.
Lúc đó, bà X đã lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông P từ ông
Đ để làm thủ tục sang tên. Tuy nhiên, trên giấy chứng nhận mang tên Tạ Văn P
nên chưa thực hiện được thủ tục sang tên đổi chủ.
Đối với yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
tại bản MT, xã MB, ông P không nhất trí với những lý do sau:
- Diện tích đất bà X đang ở hiện vẫn đang được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất mang tên Tạ Xuân P(Tạ Văn P), chưa được đăng ký biến động
quyền sử dụng đất cho bà X.
- Giữa ông Pvà bà X không có hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho quyền
sử dụng đất tại bản M T, xã MB, huyện Mai Sơn.
- Không có việc giao tiền giữa bà X cho ông P trên thực tế.
- Lời làm chứng của ông Tạ Văn T xác định có việc nhận tiền của bà X chứ
không có nghĩa ông Tạ Xuân P là người chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho
bà X.
Đối với yêu cầu đòi lại đất tại xã CM, ông P không nhất trí với yêu cầu của
bà X do bà X tự nguyện tặng cho quyền sử dụng đất, hiện ông đang là người
quản lý sử dụng thửa đất.
Theo quy định của pháp luật, ông P là người sử dụng đất hợp pháp đối với
thửa đất số 30(2), tờ bản đồ số 124-12 và thửa đất số 226, tờ bản đồ 124-9, địa
chỉ thửa đất BM T, xã MB, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.
Vì vậy, ông Tạ Xuân P và bà Bùi Thị M khởi kiện đề nghị Tòa án buộc
vợ chồng bà Tạ Thị X, ông Trần Văn H trả lại cho ông bà thửa đất số 30(2), tờ
bản đồ số 124-12 và thửa đất số 226, tờ bản đồ 124-9, địa chỉ thửa đất Bản M
T, xã MB, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La trong giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số M283438, số vào sổ cấp giấy chứng nhận số 00445 QSDD/627/QĐ-UB

4
do Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La cấp giấy ngày
21/12/1998. Buộc vợ chồng bà Tạ Thị X, ông Trần Văn H phải chuyển, di dời
toàn bộ tài sản trên đất để trả lại nguyên trạng hai thửa đất trên. Đồng thời,
không nhất trí với yêu cầu phản tố của bị đơn.
Tháng 10/1999 vợ chồng ông bà có mua 4 thửa đất có diện tích 2.485m
2
đất ruộng tại bản MTi, xã MB, huyện M S, tỉnh Sơn La với số tiền 8.000.000đ,
cụ thể:
- 02 thửa diện tích là 1.320m
2
(mua lại của bố mẹ bà X), đất đã được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên bà Bùi Thị P (là bố mẹ đẻ của bà
X) với giá 4.000.000đ.
- 02 thửa diện tích 1.165m
2
(gồm thửa 26, diện tích 880m
2
thuộc tờ bản
đồ 124-9 và thửa 30(2), diện tích 285m
2
thuộc tờ bản đồ 124-12) (mua của ông
Tạ Xuân P), đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Tạ
Xuân P(Tạ Văn P) với giá 4.000.000đ. Thời điểm nhận chuyển nhượng không
lập văn bản chuyển nhượng do là chị em trong gia đình nên tin tưởng. Ông bà đã
giao đủ số tiền chuyển nhượng, có sự chứng kiến là ông Tạ Văn T. Ông P đã chỉ
mốc giới, bàn giao đất có sự chứng kiến của những người có đất liền kề và giao
cho vợ chồng ông bà giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông bà. Do đó, vợ
chồng ông bà đã sử dụng ổn định các thửa đất sau khi nhận chuyển nhượng,
không có tranh chấp với các hộ khác liền kề, ông bà đã thực hiện nghĩa vụ nộp
thuế với nhà nước từ khi nhận chuyển nhượng đất.
Năm 2010, khi vợ chồng ông bà chuẩn bị xây nhà, ông P đã đưa chứng
minh thư nhân dân, sổ hộ khẩu của ông P để làm thủ tục sang tên nhưng chưa
hoàn thiện thủ tục sang tên. Năm 2011 vợ chồng ông bà làm nhà xây 02 tầng
kiên cố trên thửa đất nhận chuyển nhượng của ông P. Trong quá trình làm nhà
ông P vẫn vào giúp đỡ và giám sát thợ làm cho vợ chồng ông bà, ăn cơm, uống
rượu cùng thợ và gia đình ông bà trong những lần như: Đổ móng, đổ cột, đổ mái
và không có ý kiến phản đối gì.
Nay ông P khởi kiện vợ chồng ông bà đòi lại 02 thửa đất đã chuyển
nhượng vì cho rằng chỉ cho vợ chồng ông bà mượn đất nông nghiệp để canh tác.
Ông bà khẳng định không có việc mượn đất canh tác, việc ông bà sử dụng đất
xuất phát từ giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên thực tế. Ông bà đã
giao tiền cho ông P dưới sự chứng kiến của ông T, và ông bà đã sử dụng đất từ
năm 2000 đến năm 2022 và đã được giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
gốc. Khi ông bà làm nhà kiên cố trên đất, ông P không có ý kiến phản đối.
Đối với thửa đất trên tiểu khu NS, xã CM là do Bùi Thị P phân chia bằng
văn bản cho các con trong gia đình. Trong đó, bà Tạ Thị X được chia cho 10m
mặt đường quốc lộ 6 và chiều sâu hết thổ đất tại tiểu khu NS, xã CM; ông Tạ
Xuân P cũng được chia 15m mặt đường. Đầu năm 2004 vợ chồng ông bà có

5
dựng một căn nhà gỗ trên phần đất mà bà P đã chia cho, năm 2016, ông P đã có
những hành vi: Chửi bới, hăm dọa, hành hung bà và con gái, yêu cầu phải cắt
5m trong phần đất mà bà Bùi Thị P chia ở CM cho ông P thì khi đó ông P mới
ký các giấy tờ hoàn thiện làm thủ tục sang tên 02 thửa đất ở MB. Do lo sợ bị đe
dọa, bà đã nhờ con dâu viết Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất cho ông Tạ
Xuân P 5m đất ở tiểu khu NS, xã CM, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Tuy nhiên,
ông P đã không thực hiện đúng giao ước ban đầu, không ký các giấy tờ cần thiết
để hoàn thiện thủ tục để bà tách hai thửa đất tại M B và làm đơn khởi kiện đối
với mảnh đất tại MB, huyện Mai Sơn.
Do vậy, ông bà không nhất trí với yêu cầu khởi kiện và giữ nguyên yêu
cầu phản tố, đề nghị Tòa án công nhận việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất
của ông Tạ Xuân P cho ông bà Tạ Thị X và Trần Văn H hai thửa đất: 30(2) tờ
bản đồ 124-12 và thửa 226 tờ bản đồ 124-9 địa chỉ tại bản MT, xã MB, huyện
Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
mang tên Tạ Xuân P(Tạ Văn P); Tuyên hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất
ngày 09/6/2016 của bà Tạ Thị X tặng cho 5m đất chiều rộng đường QL6, chiều
sâu hết đất tại tiểu khu NS, xã CM, huyện MS, tỉnh Sơn La là vô hiệu.
Ông xác nhận cuối năm 1999, bố mẹ đẻ ông có thống nhất với cả gia đình
và được sự đồng ý của ông P có chuyển nhượng diện tích đất nông nghiệp ở
trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà Bùi Thị P và ông Tạ Xuân P
(Tạ Văn P) ở bản MT, xã MB, huyện MS, tỉnh Sơn La cho nhà ông bà X H để
mua đất ở bản BC, xã CM, huyện Mai Sơn (nay là tiểu khu NS, xã Chiềng Mung)
để sinh sống.
Cụ thể: Ông G, Bà P và anh P đã bán cho nhà bà XH 04 thửa ruộng với
tổng diện tích là 2.845m
2
đất ở bản MaT, xã MB, Mai Sơn, Sơn La: Trong đó
có 02 thửa (29+226(1) trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà Bùi
Thị P có diện tích là 1.320m
2
với giá 4.000.000 đồng, 02 thửa trong giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất của ông Tạ Xuân P (Tạ Văn P) (thửa 29+226) có diện
tích 1.165m
2
với giá 4.000.000 đồng. Ông T là người trực tiếp chứng kiến việc
ông bà XH trả tiền mua đất 8.000.000 đồng cho bố mẹ và cho vay thêm
6.000.000 đồng để có tiền mua đất ở tiểu khu NS, xã CM, huyện Mai Sơn.
Ngoài ra, sau khi cưới chú Đ thì ông P có yêu cầu mẹ ông là bà P phải trả tiền
ông P lo đám cưới cho em là 2.700.000 đồng và tiền bán đất của ông P cho nhà
ông bà X 3.000.000 đồng nên bà P đã cắt thêm 5m mặt đường trong phần của bà
P giữ lại cho ông P. Ông Tạ Văn T không đề nghị Tòa án giải quyết đến quyền
lợi trong vụ án.
Diện tích đất đang tranh chấp tại bản M T, xã M B, huyện Mai Sơn do
ông Trần Văn H và bà Tạ Thị X đang sử dụng có nguồn gốc là do ông Tạ Quang
G (bố của ông P và bà X) chuyển nhượng cho bà X và ông H. Sau đó, hai bên đã
6
thỏa thuận bà X cắt cho ông P 5m đất mặt đường ở tiểu khu NS trong phần đất
được mẹ chia cho để được quyền sử dụng 02 thửa đất ở bản M T, MB trong giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất của ông P dưới hình thức giấy tặng cho. Sau đó
khi ông P đi làm thủ tục cấp bìa đất ở CM thì bà X có đơn gửi là đất có tranh
chấp nên ông P cũng không ký giấy tờ cho bà X đối với hai thửa đất ở MB dẫn
đến tranh chấp kéo dài đến nay. Hiện bà P tuổi cao, đã bị lẫn không đủ tỉnh táo
để làm việc được, tranh chấp giữa bà X và ông P không liên quan đến ông nên
ông không đề nghị giải quyết trong vụ án.
Bà Anh là vợ của ông Đào Duy K, chị C và anh C là con của ông K và bà
A. Việc ông K chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại tiểu khu NS, xã C M,
huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La cho ông Tạ Quang G và và bà Bùi Thị P, bà và các
con không được biết và cũng không có ý kiến gì. Vì vậy, bà và anh chị từ chối
tham gia tố tụng trong vụ án và đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt.
* Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 09/2025/DS-ST ngày 29 tháng 5 năm
2025 của Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La đã xét xử và Quyết định:
Căn cứ khoản 3, khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1
Điều 39, Điều 147, 157, 158, 165, 166, khoản 1 Điều 228, 271 và 273 của Bộ luật
Tố tụng dân sự; Điều 3, Điều 30, 31 Luật Đất đai năm 1993; Điều 126 của Luật Đất
đai năm 2003; Điều 167 của Luật Đất đai năm 2013; Điều 122, 124, 127, 131, Điều
688, Điều 697, Điều 798, Điều 699, Điều 700 và Điều 701, 702 của Bộ luật Dân sự
năm 2005; Điều 129, từ Điều 500 đến Điều 503 của Bộ luật Dân sự năm 2015;
Khoản 1 Điều 26 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản
lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Tạ Xuân P, bà Bùi Thị M về
việc yêu cầu bà Tạ Thị X, ông Trần Văn H phải trả lại hai thửa đất số 30
(2)
tờ bản
đồ 124-12 và thửa 226 tờ bản đồ 124-9, mục đích sử dụng đất màu đã được cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số M283438 theo quyết định cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số 627/QĐ-UB ngày 21/12/1998 mang tên người sử dụng
đất là hộ ông Tạ Xuân P.
Chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Tạ Thị X, ông Trần Văn H. Công nhận
việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông Tạ Quang G, bà Bùi Thị P, ông Tạ
Xuân P đối với 02 thửa đất: số 30
(2)
tờ bản đồ 124-12 và thửa 226 tờ bản đồ 124-9,
mục đích sử dụng đất màu đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
M283438 theo quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 627/QĐ-UB
ngày 21/12/1998 mang tên người sử dụng đất là hộ ông Tạ Xuân P (Tạ Văn P) cho
ông Trần Văn H, bà Tạ Thị X. Ông Trần Văn H và bà Tạ Thị X được quyền tiếp
tục quản lý và sử dụng thửa đất số 30
(2)
tờ bản đồ 124-12 và thửa 226 tờ bản đồ
7
124-9 cùng toàn bộ tài sản trên đất tại Bản MT, xã MB, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn
La.
Cụ thể: - Thửa 30
(2)
tờ bản đồ 124-12 có diện tích sử dụng là 320,8 m
2
(trong đó diện tích nằm trong hành lang giao thông đường nhánh từ nhà máy
tinh bột đến UBND xã Mường Bon 9,5m là 20,3m
2
; đường nhánh từ Ngã tư Mai
Tiên đến điểm tái định cư bản Mai Quỳnh 7,5m là 46,3 m
2
). Tứ cạnh như sau:
Phía Đông bắc giáp với đất ông H, bà X đang sử dụng (nhận chuyển nhượng từ
bà Bùi Thị P) là 15,64m; Phía Tây bắc giáp đường nhánh từ ngã tư Mai Tiên đến
điểm tái định cư bản Mai Quỳnh, dài 13,10 m; Phía Tây nam giáp đường nhánh
từ nhà máy tinh bột đến UBND xã Mường Bon, dài 4,11m + 4,09m + 5,11m +
4,81m + 5,60m; Phía Đông nam giáp đất ông Lương Văn X 26,23m.
- Thửa 226 tờ bản đồ 124-9 có diện tích 880,0m
2
(đất đã được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Tạ Xuân P) và 23,2m
2
đất nằm trong
phần đất đường nội đồng kề mương nước. Tứ cạnh diện tích đất 880,0m
2
cụ thể:
Phía Đông bắc giáp đất ông Nguyễn Văn S dài 14,97m, giáp đất ông Bùi Văn Q
(do nhận chuyển nhượng của ông Vương Đức C) dài 9,52m; giáp đất ông Tạ
Văn M dài 8,01m; giáp đất ông Phạm Ngọc Đ dài 28,0m (xây gạch 110mm cao
20cm); Phía Tây bắc giáp đường nội đồng 15,74m; Phía Tây nam giáp đất ông H,
bà X đang sử dụng: 60,95m; Phía Đông nam giáp đất hộ ông Đỗ Duy Tn 13,20m
(giáp tường nhà ông T).
Bà Tạ Thị X, ông Trần Văn H được quyền liên hệ với các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc phải trao trả
lại phần diện tích đất được sử dụng cho nhà nước trong trường hợp Nhà nước thu
hồi đất. Quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất được thực hiện theo quy định
của Luật đất đai về đăng ký đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; thu
hồi đất, bồi thường hỗ trợ và tái định cư.
2. Tuyên hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 09/6/2016 giữa bà Tạ
Thị X và ông Tạ Xuân P đối với 05m đất mặt đường quốc lộ 6, sâu vào hết đất tại
tiểu khu NS, xã CM, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La là vô hiệu.
Giao diện tích đất 717,6m
2
(trong đó diện tích nằm trong hành lang giao
thông đường quốc lộ 6 dài 21m là 66,7m
2
) thuộc một phần thửa 417 và 413,
thuộc tờ bản đồ số 101-97 cùng toàn bộ tài sản trên đất tại Tiểu khu NS, xã C M,
huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La (đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất mang tên Đào Duy K do UBND huyện Mai Sơn cấp theo Quyết định số
628/QĐ-UB ngày 21/12/1998) cho bà Tạ Thị X và ông Trần Văn H quản lý, sử
dụng. Tứ cạnh cụ thể như sau: Phía Đông bắc giáp đất hộ ông T, dài 5,07m
(chưa có hàng rào, ngăn cách bằng con đường mòn). Phía Tây bắc giáp đất hộ
ông K, dài 51,56m; giáp nhà bà Lữ (hiện ông, V thuê sử dụng) dài 77,65m (đã
có hàng xây cao khoảng 02m) + 13,41m (nằm trong hành lang giao thông). Phía
8
Tây nam giáp đường quốc lộ 6, dài 5,09mm; Phía Đông nam giáp với đất ông H,
bà X đang sử dụng là 13,27m (nằm trong hành lang giao thông) + 78,79m +
52,38m (không có hàng rào ngăn cách với phần đất còn lại).
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí và chi phí tố tụng khác, quyền kháng
cáo cho các đương sự.
* Sau khi xét xử sơ thẩm: Ngày 09/6/2025, nguyên đơn ông Tạ Xuân P có
đơn kháng cáo không nhất trí với toàn bộ bản án sơ thẩm, đề nghị sửa bản án sơ
thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; không chấp
nhận yêu cầu phản tố của bị đơn.
* Tại phiên tòa phúc thẩm:
Ý kiến của nguyên đơn: Ông Tạ Xuân P, giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và
nội dung kháng cáo, đề nghị sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn; không chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn.
Ý kiến của bị đơn: Bà Tạ Thị X, ông Trần Văn H đều không nhất trí đối
với kháng cáo của bị đơn, đề nghị giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm.
* Quan điểm giải quyết của Kiểm sát viên: Việc tuân theo và chấp hành
pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những
người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án
cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã thực hiện và chấp hành đầy
đủ, đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về quan điểm giải quyết vụ án: Xét đơn kháng cáo của nguyên đơn ông
Tạ Xuân P trong hạn luật định đảm bảo về hình thức, không có căn cứ chấp
nhận về nội dung.
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự, đề nghị không chấp
nhận nội dung kháng cáo của nguyên đơn, đề nghị giữ nguyên bản án dân sự sơ
thẩm số: 09/2025/DS-ST ngày 29/5/2025 của Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn,
tỉnh Sơn La (nay là Tòa án nhân dân khu vực 4 - tỉnh Sơn La).
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem
xét tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử
nhận định như sau:
[1] Về tụng:
1. Về quan hệ pháp luật, thẩm quyền giải quyết vụ án:
9
Năm 2022, nguyên đơn ông Tạ Xuân P, bà Bùi Thị M khởi kiện yêu cầu
bị đơn ông Trần Văn H bà Tạ Thị X (cùng địa chỉ: Bản MT, xã CM, tỉnh Sơn La)
trả lại cho ông bà thửa đất số 30(2), tờ bản đồ số 124-12 và thửa đất số 226, tờ
bản đồ 124-9, địa chỉ thửa đất bản M, xã MB, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La
trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: M283438, số vào sổ cấp giấy
chứng nhận số: 00445 QSDD/627/QĐ - UB do Chủ tịch Ủy ban nhân dân
huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La cấp giấy ngày 21/12/1998. Buộc vợ chồng bà Tạ
Thị X, ông Trần Văn H phải chuyển, di dời toàn bộ tài sản trên đất để trả lại
nguyên trạng hai thửa đất trên. Trước khi khởi kiện tại Tòa án, UBND xã Ch M,
huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La đã tiến hành hòa giải giữa ông Tạ Xuân P và bà Tạ
Thị X, nhưng hòa giải không thành vào ngày 13/3/2020. Tòa án nhân dân huyện
Mai Sơn đã thụ lý giải quyết vụ án theo thẩm quyền, đã xét xử quyết định tại
bản án số: 13/2023/DS - ST ngày 14/7/2023. Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày
21/7/2023, nguyên đơn ông Tạ Xuân P có đơn kháng cáo không nhất trí với toàn
bộ Bản án dân sự sơ thẩm số: 13/2023/DS - ST ngày 14/7/2023 của Tòa án nhân
dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Ngày 05/9/2023, Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La
đã thụ lý vụ án dân sự phúc thẩm số: 51/2023/TLPT - DS về việc; Tranh chấp
quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, ngày 27/9/2023, nguyên đơn ông Tạ Xuân P
và
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn ông Dương Đức T có
đơn xin rút yêu cầu khởi kiện gửi Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La. Xét việc rút đơn
khởi kiện của nguyên đơn và việc bị đơn đồng ý yêu cầu rút đơn khởi kiện của
nguyên đơn là hoàn toàn tự nguyện, không ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp
pháp của người khác, Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La đã ban quyết định số:
12/2023/QĐ - PT ngày 28/9/2023 hủy Bản án dân sự sơ thẩm số: 13/2023/DS - ST
ngày 14/7/2023 của Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La và đình chỉ
giải quyết vụ án.
Ngày 22/03/2024, ông Tạ Xuân P và bà Bùi Thị M có đơn khởi kiện gửi
Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La khởi kiện lại vụ án tranh chấp
quyền sử dụng đất. Trong trường hợp này ông Tạ Xuân P bà Bùi Thị M có
quyền khởi kiện lại vụ án dân sự được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 217,
khoản 1 Điều 218 Bộ Luật Tố tụng dân sự. Căn cứ quy định tại khoản 3, khoản
9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015, Điều 203 Luật
đất đai năm 2013. Cấp sơ thẩm đã thụ lý giải quyết và xác định quan hệ pháp
luật; Tranh chấp quyền sử dụng đất và tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử
dụng đất, xác định thẩm quyền giải quyết vụ án thuộc Tòa án nhân dân huyện
10
Mai Sơn, tỉnh Sơn La và xác định quan hệ tranh chấp là có căn cứ, đúng quy
định của pháp luật.
2. Xét đơn kháng cáo của nguyên đơn ông Tạ Xuân P, đơn kháng cáo
ngày 09/6/2025 của nguyên đơn trong thời hạn luật định, đã thực hiện đúng theo
quy định tại Điều 271, Điều 272, khoản 1 Điều 273, Điều 276 Bộ luật Tố tụng
dân sự, do đó kháng cáo của nguyên đơn được chấp nhận xem xét, giải quyết
theo trình tự phúc thẩm.
3. Tại phiên tòa phúc thẩm, những người có quyền lợi liên quan đều có
đơn xin xét xử vắng mặt, đã được triệu tập hợp lệ; người bảo vệ quyền lợi ích
hợp pháp của nguyên đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần. Tòa án
nhân dân tỉnh Sơn La, căn cứ vào khoản 2 Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự xét
xử vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người bảo vệ quyền lợi ích
hợp pháp của nguyên đơn tại phiên tòa.
[2] Xét nội dung kháng cáo của nguyên đơn ông Tạ Xuân P:
[2.1] Về nguồn gốc đất và quá trình sử dụng tài sản có tranh chấp:
Về nguồn gốc đất tranh chấp: Nguyên đơn, bị đơn và những người có
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đều thống nhất xác định nguồn gốc phần đất
tranh chấp trong vụ án thuộc một phần trong tổng số diện tích đất hộ ông Tạ
Văn P (Tạ Xuân P) đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
M283438 theo quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 627/QĐ-
UB ngày 21/12/1998. Cụ thể là thửa đất số 30 (2) tờ bản đồ 124-12 và thửa 226
tờ bản đồ 124-9, mục đích sử dụng đất màu (
), địa chỉ tại bản M T,
xã MB, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La
Quá trình sử dụng diện tích đất tranh chấp: Gia đình bà Tạ Thị X sử dụng
02 thửa đất nêu trên ổn định, có ranh giới cụ thể và không có tranh chấp đất với
các hộ liền kề từ năm 2000 đến năm 2022.
Tòa án cấp sơ thẩm đã tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ đối với diện
tích đất tranh chấp ngày 26/4/2025, kết quả xác định:
Thửa thứ nhất: Thửa số 30 (2) tờ bản đồ 124-12 có diện tích 320,8m
2
(trong đó diện tích nằm trong hành lang giao thông đường nhánh từ nhà máy
tinh bột đến UBND xã Mường Bon 9,5m là 20,3m
2
; đường nhánh từ ngã tư Mai
Tiên đến điểm tái định cư bản Mai Quỳnh 7,5m là 46,3 m
2
). Trên diện tích đất,
ông Hbà X đã làm nhà ở kiên cố từ năm 2011, gồm 01 nhà ở xây hai tầng, mái
bằng và quán, công trình vệ sinh, bán mái, sân bê tông, tường rào, kè đá và cây
ăn quả trên đất trồng từ 03 đến trên 10 năm.
Thửa thứ hai: Thửa số 226 tờ bản đồ 124-9 có diện tích 880,0m
2
(đất đã
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Tạ Xuân P) và 23,2m
2
11
đất nằm trong phần đất đường nội đồng kề mương nước. Trên đất trông 51 cây
nhãn ghép cho quả trên 10 năm.
Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, các đương sự không có ý kiến
kiến nghị gì đối với quá trình xem xét thẩm định tại chỗ; nhất trí với kết quả
xem xét thẩm định tại chỗ của Tòa án cấp sơ thẩm. Do đó, Hội đồng xét xử phúc
thẩm xét thấy kết quả xác định diện tích đất và tài sản có tranh chấp tại Biên bản
xem xét thẩm định tại chỗ ngày 26/4/2025 là đúng quy định của pháp luật.
[2.2] Về việc xác định quyền sử dụng đối với diện tích đất đang tranh
chấp:
Quá trình giải quyết vụ án xác định, nguồn gốc diện tích đất đang tranh
chấp nằm trong diện tích đất nông nghiệp cấp cho hộ ông Tạ Văn P từ năm 1994
(cấp lần đầu), cấp bổ sung năm 1998 khi đó hộ khẩu gia đình của ông Tạ Văn P
gồm 05 khẩu: Ông G, bà P, ông P, ông T và ông Đ. Gia đình được cấp 02 giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, 01 giấy mang tên Bùi Thị P, 01 giấy mang tên
Tạ Văn P. Bị đơn bà X, ông H khẳng định diện tích đất đang tranh chấp là do
ông bà X H nhận chuyển nhượng từ ông Tạ Văn G, bà Bùi Thị P (là bố đẻ của
bà X, ông P) và ông Tạ Xuân P; Việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất không
được lập thành văn bản. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xét thấy, căn cứ lời khai
của nguyên đơn, bị đơn, những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, ý kiến
của những người làm chứng xác định:
Thứ nhất, ông bà X H đã giao đủ tiền chuyển nhượng trước sự chứng kiến
của ông Tạ Văn T (em trai bà X, ông P), lời trình bày của ông Tạ Xuân Đ với
tổng số tiền 04 thửa đất là 8.000.000 đồng (gồm 02 thửa: thửa số 30 diện tích
285m
2
và thửa số 226 diện tích 880m
2
nằm trong giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất mang tên Tạ Văn P; 02 thửa: 29 diện tích 440m
2
và thửa 226(1) diện
tích 880m
2
nằm trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên bà Bùi Thị
P) và cho ông G, bà P vay thêm 6.000.000 đồng để mua đất tại CM, Mai Sơn
(Ông T xác nhận trực tiếp là người nhận tiền và đếm hộ cho bố mẹ). Việc
chuyển nhượng đất giữa ông bà GP và ông bà XH chỉ có những người trong gia
đình biết; hiện ông G đã chết năm 2000, bà P do tuổi cao nên lúc nhớ lúc quên
không còn đủ tỉnh táo, minh mẫn để làm chứng).
Thứ hai, sự việc ông bà G bà P đứng ra chuyển nhượng đất cho ông bà X
H, ông P cũng biết vì là người trực tiếp sống cùng ông G, bà P và không có ý
kiến phản đối gì. Khi nhận đất trực tiếp ông P là người ra chỉ mốc giới cho bà X,
ông H có sự làm chứng của những người có đất liền kề, giáp ranh.
Thứ ba gia đình bà X ông H hiện đang sử dụng đất ổn định 02 thửa đất số
30 (2) và thửa số 226 từ khi nhận chuyển nhượng là cuối năm 1999 đến năm
2010 thì làm nhà ở kiên cố trên đất. Số tiền chuyển nhượng đất được ông bà G P
sử dụng để trả tiền mua đất ở tiểu khu NSn, xã CM để cả gia đình chuyển ra sinh
sống tại đó.
Xét thời điểm chuyển nhượng quyền sử dụng đất, người tham gia giao kết
ông G, bà P, bà X, ông T và ông Pđều đủ năng lực hành vi dân sự, hoàn toàn tự
12
nguyện, mục đích và nội dung của việc chuyển nhượng không trái quy định của
pháp luật và đạo đức xã hội. Tuy lời khai của các bên không thống nhất về số
tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất, không có người làm chứng khác ngoài
ông Tạ Văn T nhưng đều xác nhận việc giao nhận tiền và quyền sử dụng đất đã
hoàn thành trên thực tế từ cuối năm 1999. Do đó, có đủ căn cứ xác định có sự
việc bị đơn bà Tạ Thị X, ông Trần Văn H nhận chuyển nhượng 02 thửa đất số 30
diện tích 285m
2
và thửa số 226 diện tích 880m
2
nằm trong giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất mang tên Tạ Văn P từ ông bà G, P, ông P trên thực tế.
Đối với giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất: Quá trình xác lập
giao dịch, các bên không tuân thủ quy định về hình thức, không lập hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất bằng văn bản có công chứng của Nhà nước
hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân có thẩm quyền là vi phạm quy định tại
Điều 701 đến 708 Bộ luật Dân sự năm 1995. Theo hướng dẫn tại điểm b.3 tiểu
mục 2.3 mục 2 phần II Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 của Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong
việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình thì: “
Căn cứ Biên bản xem
xét thẩm định tại chỗ ngày 26/4/2025 xác định hiện nay ông bà X H đã xây dựng
nhà, công trình xây dựng khác và trồng cây trên đất. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm
công nhận quyền sử dụng đất của bà Tạ Thị X ông Trần Văn H đối với 02 thửa
đất đang tranh chấp là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
[2.3] Xét yêu cầu của nguyên đơn ông Tạ Xuân P, bà Bùi Thị M buộc bị
đơn bà Tạ Thị X, ông Trần Văn H trả lại hai thửa đất số 30 (2) tờ bản đồ 124-12
và thửa 226 tờ bản đồ 124-9, mục đích sử dụng đất màu tại bản MT, xã Mường
Bon, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số M283438 theo quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 627/QĐ-
UB ngày 21/12/1998 mang tên người sử dụng đất hộ ông Tạ Văn P:
Thứ nhất, đối với ý kiến nguyên đơn cho rằng việc bà X, ông H sử dụng 02
thửa đất trên là do được ông P cho mượn đất để canh tác khi gia đình ông P
chuyển lên sinh sống tại tiểu khu N, xã CM, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Ông P
đã nhiều lần đến đòi đất nhưng bà X không trả; khi gia đình bà X làm nhà trên
đất ông tiếp tục có yêu cầu đòi đất nhưng bà X, ông H vẫn xây dựng trên đất,
Hội đồng xét xử xét thấy:
Căn cứ lời khai của nguyên đơn ông Tạ Xuân P trong quá trình giải quyết
vụ án và tại phiên tòa xác định: Ông P có biết việc ông bà GP chuyển nhượng
đất cho ông bà XH và sử dụng tiền để đi mua đất ở tiểu khu NS, xã CM; thời
điểm chuyển nhượng, ông P không có ý kiến phản đối gì.
Căn cứ vào lời khai của những người làm chứng là các hộ liền kề với hai
thửa đất đang có tranh chấp đều xác nhận gia đình bà X, ông H đã sử dụng đất
13
ổn định từ cuối năm 1999. Từ khi gia đình bà X sử dụng đất thì ông P vẫn
thường xuyên về thăm mẹ đẻ tại bản Mai Tiên, không có ý kiến gì về việc đòi lại
đất. Khi gia đình bà X làm nhà ông P cũng không cản trở hay báo cáo lại với
chính quyền địa phương.
Thực tế, 02 thửa đất số 29 và thửa số 226
(1)
nằm trong giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất mang tên bà Bùi Thị P (mẹ đẻ ông P, bà X) mà ông bà X H
nhận chuyển nhượng cùng 02 thửa đất đang tranh chấp, hiện nay gia đình bà X
đã thực hiện sang tên đổi chủ theo quy định, nhưng chưa được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất.
Căn cứ tài liệu trong hồ sơ vụ án và lời khai của ông Tạ Văn Đ xác định:
Ông P là người chủ động đưa giấy tờ gồm chứng minh thư nhân dân, sổ hộ khẩu
gia đình, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà X để làm thủ tục sang tên
đổi chủ (bản sao chứng minh thư nhân dân mang tên ông Tạ Xuân P; sổ hộ khẩu
gia đình ông Tạ Văn G và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được chứng thực
vào năm 2010, do bị đơn bà X cung cấp).
Ngoài lời trình bày, nguyên đơn ông Tạ Xuân P, bà Bùi Thị M không
cung cấp được tài liệu khác chứng minh ý kiến của mình về việc ông bà chỉ cho
ông bà X H mượn 02 thửa đất đang tranh chấp để canh tác. Do đó, không có căn
cứ công nhận lời khai trên của nguyên đơn là sự thật.
Thứ hai, có căn cứ xác định quyền sử dụng đối với 02 thửa đất đang tranh
chấp là do ông bà X nhận chuyển nhượng từ ông Tạ Văn G bà Bùi Thị P (như đã
phân tích tại mục 2.2) Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu của nguyên
đơn ông Tạ Xuân P, bà Bùi Thị M buộc bị đơn bà Tạ Thị X, ông Trần Văn H trả
lại hai thửa đất số 30
(2)
tờ bản đồ 124-12 và thửa 226 tờ bản đồ 124-9 tại bản M T,
xã MB, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La là có căn cứ.
[3] Đối với yêu cầu phản tố của bị đơn đề nghị công nhận hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Tạ Xuân P và bà Tạ Thị X tại bản
MT, xã Mường Bon và đề nghị tuyên hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất xác
lập ngày 09/6/2016 của bà Tạ Thị X tặng cho 5m đất chiều rộng đường quốc lộ
6, chiều sâu hết đất tại tiểu khu NS, xã CM, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La là vô
hiệu, Hội đồng xét xử xét thấy:
Thứ nhất, đối với đề nghị công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất giữa ông Tạ Xuân P và bà Tạ Thị X tại bản MT, xã Mường Bon: Như
nhận định ở trên, mặc dù bà X ông H không cung cấp được hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất nhưng có căn cứ xác định ông Tạ Xuân P đã chuyển
giao quyền sử dụng đất tại thửa 30
(2)
tờ bản đồ 124-12 và thửa 226 tờ bản đồ
124-9 cho bà Tạ Thị X thông qua giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất
trên thực tế. Do đó, cần chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn về yêu cầu công
nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với diện tích đất tranh
chấp.
Thứ hai, đối với đề nghị tuyên hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày
09/6/2016 của bà Tạ Thị X tặng cho 5m đất chiều rộng đường quốc lộ 6, chiều
14
sâu hết đất tại tiểu khu NS, xã CM, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La là vô hiệu, Hội
đồng xét xử xét thấy:
Về nguồn gốc thửa đất: Diện tích đất 717,6m
2
(trong đó diện tích nằm
trong hành lang giao thông đường quốc lộ 6 dài 21m là 66,7m
2
) tại tiểu khu N S,
xã C, huyện Mai Sơn do gia đình ông Tạ Xuân P đang sử dụng. Các đương sự
xác định thửa đất là do ông Tạ Quang G và bà Bùi Thị P nhận chuyển nhượng
của ông Đào Duy K theo đơn xin chuyển nhượng đất ngày 06/11/1999 có xác
nhận của UBND xã C. Qua xác minh, xác định diện tích đất 717,6m
2
thuộc phần
thửa đất 417 và 413, tờ bản đồ số 101-97 đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất mang tên Đào Duy K do UBND huyện Mai Sơn cấp theo Quyết định
số: 628/QĐ-UB ngày 21/12/1998. Sau khi ông G mất không để lại di chúc, ngày
15/8/2003 bà Bùi Thị P lập văn bản chia tài sản cho các con, trong đó thửa đất
tại tiểu khu NS, xã CM huyện Mai Sơn được phân chia như sau: Bà Bùi Thị Pg
18m mặt đường, con gái Tạ Thị X 10m mặt đường, con trai Tạ Xuân P15m mặt
đường, con trai Tạ Văn T 15m mặt đường, con trai Tạ Xuân Đi 05m mặt đường.
Sau khi phân chia, bà Tạ Thị X làm 01 nhà gỗ lợp ngói đỏ và sử dụng đất một
thời gian, sau đó các anh em thống nhất cho ông Tạ Xuân P mượn đất để canh
tác do bà X, ông T và ông Đ đều ở xa, chưa có nhu cầu sử dụng đất. Ngày
09/3/2004, bà X đã lập giấy xác nhận hợp nhất tài sản đối với diện tích đất 10m
mặt đường tại tiểu khu NS, xã C, huyện Mai Sơn thành tài sản chung vợ chồng
của bà X và ông Trần Văn H, có xác nhận của UBND xã MB, huyện Mai Sơn.
Xét hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất: Ngày 09/6/2016, bà Tạ Thị X
lập hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất đối với 05m mặt đường quốc lộ 6,
chiều sâu hết đất tại xóm 3, tiểu khu N, xã C, huyện Mai Sơn cho ông Tạ Xuân
P. Hợp đồng được lập thành văn bản, viết tay không theo mẫu, có chữ ký của bà
X và ông P, không có người làm chứng. Bà X cho rằng bà buộc lập hợp đồng
tặng cho trên do ông P nhiều lần chửi bới, đe dọa và không ký hồ sơ chuyển
nhượng quyền sử dụng đất tại bản M, xã M, huyện Mai Sơn cho bà X. Do đó, bà
đề nghị Tòa án tuyên bố hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 09/6/2016
là vô hiệu do bị ép buộc, đồng thời chồng bà là ông Trần Văn H không biết và
không ký vào hợp đồng tặng cho tài sản. Trong quá trình giải quyết vụ án, bà Xn
không cung cấp được tài liệu chứng minh ông P có ép buộc bà X lập hợp đồng
tặng cho. Tuy nhiên, ông Trần Văn H khẳng định cho ông P mượn thửa đất trên
NS, ngoài vợ chồng ông bà cho mượn thì anh Tạ Văn Đ và anh Tạ Văn T cũng
cho ông P mượn đất và không lập thành văn bản. Đối với việc bà X lập hợp
đồng tặng cho đất ông H không biết và cũng không đồng ý, đề nghị Tòa án
tuyên hợp đồng tặng cho đất vô hiệu do bà X định đoạt tài sản chung vợ chồng
mà không có ý kiến của ông Trần Văn H.
Hội đồng xét xử xét thấy: Theo giấy xác nhận hợp nhất tài sản ngày
09/3/2004, bà Tạ Thị X và ông Trần Văn H đã thống nhất sát nhập phần đất 10m
đất mặt đường tại tiểu khu NS, xã C, huyện Mai Sơn được bà Bùi Thị P phân
chia cho bà X được xác lập thành tài sản chung vợ chồng. Ông P sử dụng đất
15
trước thời điểm bà X lập hợp đồng tặng cho, tại hợp đồng tặng cho ngày
09/6/2016 không có chữ ký của ông Trần Văn H. Do đó, có căn cứ chấp nhận
thời điểm tặng cho quyền sử dụng đất, ông Trần Văn H không biết việc tặng,
cho. Mặt khác, diện tích đất đang tranh chấp hiện đang được cấp quyền sử dụng
đất mang tên Đào Duy K, chưa được đăng ký biến động về quyền sử dụng đất.
Việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Đào Duy K và ông Tạ Quang
G, bà Bùi Thị P chưa được thực hiện theo quy định của Luật đất đai. Năm 2000,
ông G chết không để lại di chúc, ngày 15/8/2003, bà Bùi Thị P lập văn bản phân
chia tài sản của mẹ cho các con trong gia đình, văn bản có chữ ký của các thành
viên và được các thành viên trong gia đình thừa nhận. Hội đồng xét xử xét thấy,
ông G chết không để lại di chúc, những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của
ông G chưa có biên bản thống nhất phân chia di sản của ông G, bà P chưa có
quyền phân chia tài sản cho các con, từ đó bà Tạ Thị X cũng chưa có quyền của
người sử dụng đất nên không có quyền định đoạt đối với quyền sử dụng đất đã
được phân chia. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án, ông Tạ Xuân P, ông
Tạ Văn Đ, ông Tạ Văn T, bà Tạ Thị X đều công nhận việc bà Bùi Thị P chia đất
cho các con, không ai đề nghị xem xét đến tính hợp pháp của văn bản chia tài
sản cho các con của bà Bùi Thị P, không ai đề nghị xem xét chia thừa kế của
ông Tạ Quang G.
Tòa cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn đề nghị tuyên bố
hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất được xác lập ngày 09/6/2016 của bà Tạ
Thị X tặng cho ông Tạ Xuân P vô hiệu là có căn cứ đúng quy định của pháp luật.
Về giải quyết hậu quả pháp lý của hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất
ngày 09/6/2016 vô hiệu: Trong quá trình giải quyết vụ án, bà Tạ Thị X và ông
Trần Văn H đề nghị ông Tạ Xuân P phải trả lại diện tích đất 05m đất mặt đường
quốc lộ 6 đã được đo đạc thực tế là 717,6m
2
thuộc một phần thửa 417 và 413, tờ
bản đồ 101-97 tại Tiểu khu NS, xã C, huyện Mai Sơn cho ông bà sử dụng;
không đề nghị xem xét tài sản trên đất do trước khi nhận chuyển nhượng quyền
sử dụng đất của ông Đào Duy K trên đất đã có cây nhãn trên đất. Trong quá
trình canh tác, ông Tạ Văn P đã hưởng hoa lợi từ việc khai thác đất. Bà Tạ Thị X
ông Trần Văn H, ông Tạ Văn P không đề nghị giải quyết hậu quả của hợp đồng
vô hiệu. Tòa án cấp sơ thẩm giao diện tích đất đã đo đạc thực tế là là 717,6m
2
thuộc một phần thửa 417 và 413, tờ bản đồ 101-97 tại tiểu khu N, xã C, huyện
Mai Sơn cho bà Tạ Thị X và ông Trần Văn H quản lý và sử dụng và có quyền
liên hệ đến cơ quan có thẩm quyền Nhà nước đăng ký, cấp quyền sử dụng đất
theo đúng quy định là có căn cứ.
[4] Đối với các kiến nghị của Tòa án cấp sơ thẩm, Hội đồng xét xử phúc
thẩm xét thấy là phù hợp, đúng quy định của pháp luật:
Thứ nhất, việc ông bà XH xây dựng nhà ở trên đất nông nghiệp là hành vi
sử dụng đất sai mục đích nên cần bị xử phạt theo quy định tại khoản 2, khoản 4
Điều 11 nghị định 91/2014. Do đó kiến nghị UBND xã có trách nhiệm lập hồ sơ
16
xử lý vi phạm theo quy định, trường hợp vượt quá thẩm quyền thì chuyển hồ sơ
xử lý vi phạm lên UBND tỉnh Sơn La để xử lý theo quy định.
Thứ hai, theo Quyết định số 1025/QĐ-UBND ngày 08/6/2022 của UBND
tỉnh Sơn La về việc phê duyệt Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2030 và kế
hoạch sử dụng đất năm 2022 huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La và Quyết định số
139/QĐ-UBND ngày 19/01/2023 của UBND huyện Mai Sơn về việc phê duyệt
kế hoạch sử dụng đất năm 2023 của huyện Mai Sơn thì toàn bộ khu vực tại ngã
tư bản Mđược quy hoạch là đất ở nông thôn. Do vậy, hộ bà Tạ Thị X có nghĩa
vụ thực hiện việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất theo quy định của pháp luật
đất đai
[5] Tại cấp phúc thẩm, nguyên đơn ông Tạ Xuân P không cung cấp thêm
tài liệu, chứng cứ mới bổ sung cho đơn kháng cáo và yêu cầu khởi kiện.
Từ những nhận định phân tích nêu trên, không có cơ sở chấp nhận đơn
kháng cáo của nguyên đơn ông Tạ Xuân P, cần giữ nguyên Bản án dân sự sơ
thẩm số: 09/2025/DS-ST ngày 29/5/2025 của Tòa án nhân dân huyện Mai Sơn,
tỉnh Sơn La.
[6] Về án phí:
Án phí dân sự sơ thẩm: Do khởi kiện không được chấp nhận ông Tạ Xuân
P, bà Bùi Thị M phải chịu án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch theo quy
định của pháp luật.
Án phí dân sự phúc thẩm: Người kháng cáo nguyên đơn ông Tạ Xuân P
phải chịu án phí dân sự phúc thẩm do kháng cáo không được chấp nhận.
[7] Về chi phí tố tụng:
Theo yêu cầu của nguyên đơn, Tòa án cấp sơ thẩm tiến hành xem xét thẩm
định tại chỗ và định giá đối với phần diện tích đất và tài sản trên đất có tranh
chấp. Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn không được Tòa án chấp nhận nên
Tòa án cấp sơ thẩm buộc nguyên đơn ông Tạ Xuân P và bà Bùi Thị M phải chịu
toàn bộ chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản là đúng quy định
tại khoản 1 Điều 157 và khoản 1 Điều 165 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308, khoản 1 Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm
e khoản 5 Điều 27, khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14
ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về án phí,
lệ phí Tòa án:
Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Tạ Xuân P; giữ nguyên
Bản án dân sự sơ thẩm số: 09/2025/DS - ST ngày 29/5/2025 của Tòa án nhân dân
huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La (nay là Tòa án nhân dân khu vực 4 - tỉnh Sơn La)
như sau:
17
1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Tạ Xuân P, bà Bùi Thị M về
việc yêu cầu bà Tạ Thị X, ông Trần Văn H phải trả lại hai thửa đất số 30
(2)
tờ bản
đồ 124-12 và thửa 226 tờ bản đồ 124-9, mục đích sử dụng đất màu đã được cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số M283438 theo quyết định cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số: 627/QĐ-UB ngày 21/12/1998 mang tên người sử dụng
đất là hộ ông Tạ Xuân P.
Chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Tạ Thị X, ông Trần Văn H. Công nhận
việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất của ông Tạ Quang G, bà Bùi Thị P, ông Tạ
Xuân P đối với 02 thửa đất: Số 30
(2)
tờ bản đồ 124-12 và thửa đất số 226 tờ bản đồ
124-9, mục đích sử dụng đất màu đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số M283438 theo quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: 627/QĐ-
UB ngày 21/12/1998 mang tên người sử dụng đất là hộ ông Tạ Xuân P (Tạ Văn P)
cho ông Trần Văn H, bà Tạ Thị X. Ông Trần Văn H và bà Tạ Thị X được quyền
tiếp tục quản lý và sử dụng thửa đất số 30
(2)
tờ bản đồ 124-12 và thửa 226 tờ bản đồ
124-9 cùng toàn bộ tài sản trên đất tại Bản M, xã M, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La
(nay là xã Mường Bon, tỉnh Sơn La). Cụ thể như sau:
- Thửa đất số 30
(2)
tờ bản đồ 124-12 có diện tích sử dụng là 320,8 m
2
(trong
đó diện tích nằm trong hành lang giao thông đường nhánh từ nhà máy tinh bột
đến UBND xã Mường Bon 9,5m là 20,3m
2
; đường nhánh từ ngã tư Mai Tiên
đến điểm tái định cư bản Mai Quỳnh 7,5m là 46,3 m
2
). Thửa đất có tứ cạnh như
sau:
Phía đông bắc giáp với đất ông H, bà X đang sử dụng (nhận chuyển
nhượng từ bà Bùi Thị P), dài 15,64m;
Phía tây bắc giáp đường nhánh từ ngã tư bản Mai Tiên đến điểm tái định cư
bản Mai Quỳnh, dài 13,10 m;
Phía tây nam giáp đường nhánh từ nhà máy tinh bột đến UBND xã Mường
Bon, dài 4,11m + 4,09m + 5,11m + 4,81m + 5,60m;
Phía đông nam giáp đất ông Lương Văn X, dài 26,23m.
- Thửa đất số 226 tờ bản đồ 124-9 có diện tích 880,0m
2
(đất đã được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Tạ Xuân P) và 23,2m
2
đất nằm
trong phần đất đường nội đồng kề mương nước. Tứ cạnh diện tích đất 880,0m
2
cụ thể như sau:
Phía đông bắc giáp đất ông Nguyễn Văn S dài 14,97m, giáp đất ông Bùi
Văn Q (do nhận chuyển nhượng của ông Vương Đức C) dài 9,52m; giáp đất ông
Tạ Văn M dài 8,01m; giáp đất ông Phạm Ngọc Đ dài 28,0m (xây gạch 110mm
cao 20cm);
Phía tây bắc giáp đường nội đồng, dài 15,74m;
18
Phía tây nam giáp đất ông H, bà X đang sử dụng, dài 60,95m;
Phía đông nam giáp đất hộ ông Đỗ Duy T dài 13,20m (giáp tường nhà ông
T).
2. Tuyên hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất xác lập ngày 09/6/2016 giữa
bà Tạ Thị X và ông Tạ Xuân P đối với 05m đất mặt đường quốc lộ 6, sâu vào hết
đất tại tiểu khu N, xã C, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La (nay là xã CM, tỉnh Sơn La)
là vô hiệu.
Giao diện tích đất 717,6m
2
(trong đó diện tích nằm trong hành lang giao
thông đường quốc lộ 6 dài 21m là 66,7m
2
) thuộc một phần thửa 417 và 413,
thuộc tờ bản đồ số 101-97 cùng toàn bộ tài sản trên đất tại tiểu khu N, xã C,
huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La (nay là xã C, tỉnh Sơn La) (đất đã được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Đào Duy K do UBND huyện Mai Sơn
cấp theo Quyết định số: 628/QĐ-UB ngày 21/12/1998) cho bà Tạ Thị X và ông
Trần Văn H quản lý, sử dụng. Tứ cạnh thửa đất cụ thể như sau:
Phía đông bắc giáp đất hộ ông T, dài 5,07m (chưa có hàng rào, ngăn cách
bằng con đường mòn).
Phía tây bắc giáp đất hộ ông K, dài 51,56m; giáp nhà bà L (hiện ông, V
thuê sử dụng) dài 77,65m (đã có hàng xây cao khoảng 02m) + 13,41m (nằm
trong hành lang giao thông).
Phía tây nam giáp đường quốc lộ 6, dài 5,09m;
Phía đông nam giáp với đất ông H, bà X đang sử dụng là 13,27m (nằm
trong hành lang giao thông) + 78,79m + 52,38m (không có hàng rào ngăn cách
với phần đất còn lại).
3. Bà Tạ Thị X, ông Trần Văn H được quyền liên hệ với các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Quyền và
nghĩa vụ của người sử dụng đất được thực hiện theo quy định của Luật đất đai
về đăng ký đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
4. Về án phí: Ông Tạ Xuân P, bà Bùi Thị M phải chịu án phí dân sự sơ thẩm
không có giá ngạch là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) và án phí dân sự phúc
thẩm là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án
phí dân sự sơ thẩm, phúc thẩm đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng theo
biên lai thu số 0001375 ngày 04/10/2024 và 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng)
theo biên lai thu số 0002847 ngày 9/6/2025 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện
Mai Sơn, tỉnh Sơn La.
5. Về chi phí tố tụng: Tổng chi phí tố tụng là 12.000.000 đồng (mười hai triệu
19
đồng). Ông Tạ Xuân P, bà Bùi Thị M phải chịu toàn bộ chi phí xem xét, thẩm định
tại chỗ và định giá tài sản. Nguyên đơn đã nộp tạm ứng chi phí tố tụng 10.000.000đ
(Mười triệu đồng), bị đơn đã nộp tạm ứng chi phí tố tụng sau khi quyết toán là
2.000.000 đồng (hai triệu đồng). Do đó, nguyên đơn có nghĩa vụ thanh toán cho
bị đơn có yêu cầu phản tố số tiền 2.000.000 đồng (hai triệu đồng) chi phí đã chi.
6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án (11/9/2025).
THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Phạm Tuấn Minh - Tòng Thị Hiền
THẨM PHÁN
CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đỗ Tuấn Long
20
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Sơn La;
- VKSND khu vực 4;
- Tòa án nhân dân khu vực 4;
- Chi cục THADS khu vực ;
- Các đương sự;
- Phòng KTNV-THADS;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đỗ Tuấn Long
Tòng Thị Hiền
21
THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Phạm Tuấn Minh Tòng Thị Hiền
THẨM PHÁN
CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đỗ Tuấn Long
Nơi nhận:
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
22
- VKSND tỉnh Sơn La;
- VKSND huyện Thuận Châu;
- Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu;
- Chi cục THADS huyện Thuận Châu;
- Các đương sự;
- Phòng KTNV-THADS;
- Lưu hồ sơ vụ án.
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Tòng Thị Hiền
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 13/10/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 30/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 29/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 28/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 26/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 24/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 23/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 22/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 21/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 20/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 19/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 19/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 18/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 18/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 18/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 17/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 17/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 17/09/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm