Bản án số 254/2024/DS-PT ngày 30/09/2024 của TAND tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 254/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 254/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 254/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 254/2024/DS-PT ngày 30/09/2024 của TAND tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng vay tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Sóc Trăng |
Số hiệu: | 254/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 30/09/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Ngân hàng TMCP Á Châu khởi kiện yêu cầu ông Đặng Hoàng Dũ trả tiền vay. Trường ợp không trả hoặc không khả năng trả thì phát mãi tài sản thế chấp. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH SÓC TRĂNG
Bản án số: 254/2024/DS-PT.
Ngày: 30 - 9- 2024
V/v Tranh chấp hợp đồng
tín dụng.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SÓC TRĂNG
Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Tôn Thị Thanh Thúy.
Các thẩm phán: 1. Ông Nguyễn Hoàng Thành.
2. Ông Hồ Văn Phụng.
- Thư ký phiên tòa: Ông Kim Mộc Nam - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Sóc Trăng.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng tham gia phiên tòa:
Bà Nguyễn Thị Thanh Quyên - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 20, 24 và 30 tháng 9 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân
tỉnh Sóc Trăng xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 145/2024/TLPT-DS
ngày 01/8/2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 102/2024/DS-ST, ngày 21 tháng 6 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 195/2024/QĐ-PT ngày
12 tháng 8 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ngân hàng Thương mại cổ phần Á (A), địa chỉ trụ sở: D N,
Phường E, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Ông Trần Thanh T, chức vụ:
Nhân viên xử lý nợ A, địa chỉ: D Đường C, phường T, quận N, thành phố Cần
Thơ (có mặt).
- Bị đơn: Ông Đặng Hoàng D. Địa chỉ: Ấp C, xã T, huyện K, tỉnh Sóc
Trăng (vắng mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Nguyễn Thị D1, sinh năm 1975. Địa chỉ: A Khu V, phường T, quận
C, thành phố Cần Thơ (có mặt).
2. Ông Đỗ Quốc S, sinh năm 1968. Địa chỉ: A Khu V, phường T, quận C,
thành phố Cần Thơ (có mặt).
2
3. Ông Đỗ Quốc B, sinh năm 1997. Địa chỉ: A Khu V, phường T, quận C,
thành phố Cần Thơ (có mặt).
- Người kháng cáo: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn
Thị Diễm .
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, nội dung vụ án được tóm
tắt như sau:
Theo đơn khởi kiện ngày 31 tháng 8 năm 2022 và các lời khai trong quá
trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện nguyên đơn ông
Trần Thanh T trình bày: Trước đây, giữa Ngân hàng Thương mại cổ phần Á (sau
đây gọi là Ngân hàng) với ông Đặng Hoàng D có thỏa thuận Hợp đồng cấp tín
dụng số ANT.CN.1031.281220 ngày 28/12/2020 với số tiền Ngân hàng cho ông
D vay là 490.000.000 đồng; mục đích vay: Mua nhà, đất không thuộc dự án -
Nhà ở - Mua bất động sản (thửa đất số 1995, tờ bản đồ số 06, khu vực T, phường
T, quận C, thành phố Cần Thơ); thời hạn cho vay là 120 tháng; lãi suất vay tại
thời điểm giải ngân là 10,30%/năm (có điều chỉnh 03 tháng một lần theo quy
định của ngân hàng); lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn và lãi suất
phạt chậm trả lãi là 10%/năm. Đồng thời Ngân hàng có cấp thẻ tín dụng cho ông
Đặng Hoàng D theo giấy đề nghị cấp thẻ và thỏa thuận lãi suất, phí sử dụng thẻ
của ông D ngày 08/01/2021, Số thẻ: 9704 16** **** 8371; Loại thẻ: A (Thẻ tín
dụng nội địa); Hạn mức thẻ: 10.000.000 đồng. Ông Đặng Hoàng D có thế chấp
tài sản để bảo đảm số tiền vay theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số
ANT.BĐCN.95.281220 ngày 28/12/2020, tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất
theo Giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân quận C, thành phố
Cần Thơ cấp ngày 19/8/2005 gồm thửa đất số 1995, tờ bản đồ số 06, diện tích
76,8 m
2
tọa lạc tại Khu V, phường T, quận C, thành phố Cần Thơ và cập nhật
chuyển nhượng cho ông Đặng Hoàng D ngày 18/12/2020.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng tín dụng, ông D đã vi phạm nghĩa vụ
trả nợ theo các điều khoản của hợp đồng. Tính đến ngày xét xử (ngày 21/6/2024),
ông D còn nợ Ngân hàng đối với hợp đồng cấp tín dụng số tiền vốn gốc
445.087.000 đồng, tiền lãi trong hạn 21.934.773 đồng, lãi quá hạn 155.151.770
đồng, phạt chậm trả lãi 15.340.581 đồng, cộng chung là 637.514.124 đồng. Đối
với Thẻ tín dụng còn nợ vốn gốc 10.608.956 đồng, tiền lãi 7.947.588 đồng, cộng
chung là 18.556.544 đồng. Tổng cộng 02 khoản ông D còn nợ Ngân hàng vốn
gốc 455.695.956 đồng, tiền lãi 200.374.712 đồng, cộng chung là 656.070.668
đồng.
Nay Ngân hàng Thương mại cổ phần Á yêu cầu Tòa án giải quyết buộc
ông Đặng Hoàng D phải trả số tiền vốn gốc, lãi còn nợ nêu trên và tiếp tục tính
lãi phát sinh theo Hợp đồng tín dụng cho đến khi hoàn thành nghĩa vụ trả nợ.
Trường hợp ông D không trả nợ hoặc trả nợ không đầy đủ thì có biện pháp xử lý
tài sản thế chấp để thu hồi nợ.
3
Đối với bị đơn ông Đặng Hoàng D, Tòa án đã tống đạt hợp lệ Thông báo
thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng cho ông D nhưng ông D không có ý kiến trả
lời, cũng không đến Tòa án để cung cấp lời khai và tham gia các phiên họp, hòa
giải và vắng mặt tại phiên tòa.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị D1 trình bày: Vào
năm 2021, bà có nhờ bà Phạm Nguyễn Thu P vay tiền dùm bà và có đưa Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất của bà đứng tên cho bà P cất giữ. Sau đó, bà P có
nhờ người xuống coi nhà bà 02 lần để xem xét có cho vay hay không nhưng sau
đó bà P nói là phía Ngân hàng không cho vay, nhưng vẫn tiếp tục giữ Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất do bà đứng tên thuộc thửa đất số 1995, tờ bản đồ số 06,
đất tọa lạc tại: KV T, Phường T, quận C, thành phố Cần Thơ và không trả lại cho
bà. Sau này, bà mới biết bà P lén lút chuyển nhượng thửa đất trên cho ông Đặng
Hoàng D và đem thế chấp cho Ngân hàng để vay vốn, bà không hề hay biết. Bà
nhớ lại là chỉ có ký giấy ủy quyền cho ông Nguyễn Thông V (là em ruột bà P) để
vay tiền dùm bà và bà không có ký vào giấy tờ gì khác. Đối với Ngân hàng
TMCP Á khởi kiện và yêu cầu phát mãi tài sản là quyền sử dụng đất do bà đứng
tên, đã cất nhà ở ổn định từ năm 2017 đến nay nên bà không đồng ý cho Ngân
hàng xử lý tài sản của bà. Về phần khoản vay thì ông Đặng Hoàng D tự chịu
trách nhiệm thanh toán toàn bộ số tiền và không được xử lý tài sản của bà.
Bà D1 có đơn yêu cầu độc lập và được Tòa án thụ lý với nội dung: (1)
Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà D1 và ông Đặng
Hoàng D đối với thửa đất số 1995, tờ bản đồ số 06, đất tọa lạc tại: KV T, phường
T, quận C, thành phố Cần Thơ là vô hiệu; (2) Yêu cầu Tòa án tuyên bố vô hiệu
Hợp đồng thế chấp tài sản của ông Đặng Hoàng D và Ngân hàng TMCP Á đối
với tài sản thế chấp là phần đất có thửa đất số 1995, tờ bản đồ số 06, đất tọa lạc
tại: KV T, phường T, quận C, thành phố Cần Thơ, với lý do tài sản mà ông D thế
chấp cho Ngân hàng Á là tài sản của bà D1; (3) Yêu cầu Tòa án công nhận phần
đất hiện trạng do bà D1 đang sử dụng được đăng ký kê khai quyền sử dụng đất
mang tên bà Nguyễn Thị D1, đối với thửa đất số 1995, tờ bản đồ số 06, đất tọa
lạc tại: KV T, phường T, quận C, thành phố Cần Thơ. Tuy nhiên, tại phiên họp
công khai chứng cứ và hòa giải ngày 21/5/2024 tại Tòa án, bà D1 được tiếp cận
tài liệu trích lục hồ sơ chuyển nhượng đất của bà do Tòa án thu thập từ Chi
nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai quận C, thành phố Cần Thơ. Trong đó có Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 17/12/2019 giữa bà Nguyễn
Thị D1 với ông Nguyễn Thông V được chứng thực tại Văn phòng C, địa chỉ: I L,
phường A, quận N, thành phố Cần Thơ, từ đó bà D1 tự nguyện rút lại toàn bộ
yêu cầu độc lập của mình để bà có điều kiện tự thương lượng, thỏa thuận giải
quyết với ông Nguyễn Thông V, không yêu cầu Tòa án giải quyết nữa.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 102/2024/DS-ST ngày 21 tháng 6 năm 2024
của Tòa án nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng đã quyết định như sau: Căn
cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, các
Điều 147, 157, 228, 244, 266, 271 và 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các điều
280, 317, 323, 463 và 466 của Bộ luật Dân sự; các điều 90, 91, 94 và 95 của Luật
Các tổ chức tín dụng năm 2010, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017; các điều 7,
8 và 13 của Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP, ngày 11/01/2019 của Hội đồng
4
Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của
pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm và khoản 4 Điều 26 của Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa
án;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc ông Đặng
Hoàng D có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng Thương mại cổ phần Á số tiền nợ gốc
455.695.956 đồng, nợ lãi trong hạn 21.934.773 đồng, nợ lãi quá hạn 163.099.358
đồng và phạt chậm trả lãi 404.926 đồng. Tổng cộng là 641.135.013 (sáu trăm
bốn mươi mốt triệu một trăm ba mươi lăm nghìn không trăm mười ba) đồng.
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, khách hàng vay còn phải
tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức
lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong
khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận
về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì
lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo
quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi
suất của Ngân hàng cho vay.
Ngân hàng Thương mại cổ phần Á được quyền yêu cầu cơ quan Thi hành
án dân sự phát mãi bán đấu giá tài sản thế chấp để thi hành án trong trường hợp
ông D không tự nguyện thi hành. Tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất theo
Giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân quận C, thành phố Cần
Thơ cấp ngày 19/8/2005 và cập nhật chuyển nhượng cho ông Đặng Hoàng D
ngày 18/12/2020, gồm thửa đất số 1995, tờ bản đồ số 06, diện tích 76,8m
2
, tọa
lạc tại Khu V, phường T, quận C, thành phố Cần Thơ.
2. Không chấp nhận phần yêu cầu khởi kiện còn lại của nguyên đơn đối
với khoản nợ phạt chậm trả lãi số tiền 14.935.655 (mười bốn triệu chín trăm ba
mươi lăm nghìn sáu trăm năm mươi lăm) đồng.
3. Đình chỉ giải quyết toàn bộ yêu cầu độc lập của người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị D1 đã rút.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên nghĩa vụ chịu chi phí tố tụng, án phí sơ
thẩm và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 04 tháng 7 năm 2024, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà
Nguyễn Thị D1 kháng cáo một phần bản án số 102/2024/DS-ST ngày 21/6/2024
của Tòa án nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng. Yêu câu cấp phúc thẩm
xem xét sửa Bản án sơ thẩm theo hướng hủy phần tuyên án Ngân hàng được phát
mãi tài sản của bà theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân
quận C cấp ngày 19/8/2005, chỉnh lý ngày 18/12/2020 thuộc thửa đất 1995, tờ
bản đồ số 6, diện tích 76,8m
2
tại Khu V, phường T, quận C, thành phố Cần Thơ.
T1 theo hướng vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữ bà với
ông V ngày 17/12/2019 tại Văn phòng C; vô hiệu đối với hợp đồng thế chấp đối
với tài sản là thửa đất 1995, tờ bản đồ số 6, diện tích 76,8m
2
giữa Ngân hàng với
5
ông D và Công nhận phần đất thửa 1995, tờ bản đồ số 6, diện tích 76,8m
2
, tại
Khu V, phường T, quận C, thành phố Cần Thơ là tài sản của bà và đề nghị chỉnh
lý giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lại cho bà.
Tại phiên tòa phúc thẩm ông Đỗ Quốc S và Đỗ Quốc B là chồng, con của
bà Nguyễn Thị D1 và cũng là người cùng bà D1 sống trong căn nhà xây dựng
trên quyền sử dụng đất nêu trên có mặt tại tòa. Sau khi nghe Hội đồng xét xử
phân tích, giải thích quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng trong giải đoạn phúc
thẩm, sau khi Hội đồng xét xử tuyên án bản án sẽ có hiệu lực và đương sự không
còn quyền kháng cáo thì ông S và ông B thống nhất tham gia tố tụng cùng bà D1,
cam kết không ý kiến và không khiếu nại gì về sau.
Tại phiên nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện; bị đơn vắng mặt
không lý do; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị D1 vẫn giữ
nguyên yêu cầu kháng cáo, ông Đỗ Quốc S, Đỗ Quốc B thống nhất với yêu cầu
kháng cáo của bà D1 và các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc
giải quyết vụ án.
- Vị đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng phát biểu ý kiến của
Viện kiểm sát về việc tuân thủ và chấp hành pháp luật tố tụng của những người
tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án
ở giai đoạn phúc thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm. Đồng thời, phát biểu quan
điểm của Viện kiểm sát về tính có căn cứ và hợp pháp của kháng cáo, từ đó đề
nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự, giữ
nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra các
chứng cứ tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng, ý kiến phát biểu của Kiểm
sát viên và những người tham gia tố tụng, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Người kháng cáo, nội dung và hình thức đơn kháng cáo,
thời hạn kháng cáo là đúng theo quy định tại các Điều 271, 272 và 273 của Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015 nên kháng cáo hợp lệ và đúng theo luật định.
[2] Về việc xác định tư cách tham gia tố tụng của ông Đỗ Quốc S và Đỗ
Quốc B. Xét thấy, tại phiên tòa ông S và ông B có mặt, đồng ý tham gia tố tụng
trong phiên tòa phúc thẩm và ông S, ông B cũng thống nhất với yêu cầu của bà
Nguyễn Thị D1 không có yêu cầu gì khác, khi các ông sống cùng nhà, sự việc
xảy ra bà D1 cũng có nói lại cho gia đình biết. Vì vậy, Hội đồng xét xử đưa ông
S, ông B vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan
để bảo đảm quyền lợi của các đương sự.
[3] Về sự có mặt của những người tham gia tố tụng: Bị đơn Đặng Hoàng D
đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai. Căn cứ
vào khoản 3 Điều 296 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành
xét xử vụ án.
[4] Về nội dung vụ án: Ngân hàng TMCP Á và ông Đặng Hoàng D có ký
kết hợp đồng tín dụng số ANT.CN.1031.281220 ngày 28/12/2020 với số tiền
6
Ngân hàng cho ông D vay là 490.000.000 đồng, mục đích vay: Mua nhà, đất
không thuộc dự án - Nhà ở - Mua bất động sản (thửa đất số 1995, tờ bản đồ số
06, khu vực T, phường T, quận C, thành phố Cần Thơ); thời hạn cho vay là 120
tháng; lãi suất vay tại thời điểm giải ngân là 10,30%/năm (có điều chỉnh 03 tháng
một lần theo quy định của ngân hàng); lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong
hạn và lãi suất phạt chậm trả lãi là 10%/năm và Ngân hàng có cấp thẻ tín dụng
cho ông Đặng Hoàng D theo giấy đề nghị cấp thẻ và thỏa thuận lãi suất, phí sử
dụng thẻ của ông D ngày 08/01/2021 với hạn mức thẻ: 10.000.000 đồng. Để bảo
đảm cho các khoản nợ vay ông Đặng Hoàng D có thế chấp tài sản để bảo đảm số
tiền vay theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số ANT.BĐCN.95.281220
ngày 28/12/2020, tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất theo Giấy Chứng nhận
quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân quận C, thành phố Cần Thơ cấp ngày
19/8/2005, thửa đất số 1995, tờ bản đồ số 06, diện tích 76,8 m
2
tọa lạc tại Khu V,
phường T, quận C, thành phố Cần Thơ và cập nhật chuyển nhượng cho ông Đặng
Hoàng D ngày 18/12/2020. Trong quá trình thực hiện hợp đồng ông D không
thực hiện nghĩa vụ trả nợ như đã cam kết tính đến ngày 21/6/2024 thì ông D còn
nợ Ngân hàng số tiền nợ gốc, lãi trong hạn, lãi quá hạn và lãi phạt chậm thực
hiện nghĩa vụ tổng cộng là tổng cộng là 641.135.013 (sáu trăm bốn mươi mốt
triệu một trăm ba mươi lăm nghìn không trăm mười ba) đồng. Nên cấp sơ thẩm
xử buộc ông Đặng Hoàng D có nghĩa vụ trả số tiền trên và lãi phát sinh đến khi
trả hết nợ là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.
[5] Xét kháng cáo của bà Nguyễn Thị D1, kháng cáo một phần Bản án sơ
thẩm yêu cầu Tòa án xem xét sửa Bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận
yêu cầu của Ngân hàng về việc không phát mãi bán đấu giá tài sản thế chấp để
thi hành án. Trong trường hợp ông D không tự nguyện thi hành đối với quyền sử
dụng đất của bà theo Giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân
quận C, thành phố Cần Thơ cấp ngày 19/8/2005 và cập nhật chuyển nhượng cho
ông Đặng Hoàng D ngày 18/12/2020, gồm thửa đất số 1995, tờ bản đồ số 06,
diện tích 76,8m
2
tọa lạc tại KV T, phường T, quận C, thành phố Cần Thơ vì đây
là tài sản của bà D1. Xét thấy, theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ thể hiện
phần tài sản thế chấp nêu trên bà Nguyễn Thị D1 làm thủ tục chuyển nhượng lại
cho ông Nguyễn Thông V ngày 17/12/2019 và ngày 18/12/2020 ông V đã lập thủ
tục chuyển nhượng cho ông Đặng Hoàng D. Việc lập hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất được thực hiện đúng theo quy định pháp luật và đã được cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền điều chỉnh lý sang tên quyền sử dụng đất cho ông
Đặng Hoàng D đứng tên trang tư giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trong quá
trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa phúc thẩm bà Nguyễn Thị D1 thừa nhận
chữ ký trong hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với ông Nguyễn
Thông V đúng chữ ký của bà, bà có đến văn phòng C ký nhưng bà cho rằng ký
ủy quyền nhờ ông V vay vốn Ngân hàng, sau đó ông V vay không được, chứ bà
không chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông V; bà D1 cũng thừa nhận
Ngân hàng có xuống xem xét, thẩm định tài sản của bà 02 lần nhưng bà cũng
chưa nhận được tiền vay do ông V nói vay không được. Đây chỉ là lời trình bày
một phía từ bà D1, không có chứng cứ chứng minh việc bà ủy quyền nhờ ông V
vay tiền Ngân hàng mà thủ tục bà thực hiện với ông Nguyễn Thông V là hợp
7
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được công chứng và cũng đã chỉnh lý
sang tên cho ông V đúng quy định pháp luật và sau đó ông V chuyển nhượng cho
ông D cũng đã chỉnh lý sang tên cho ông D. Từ khi bà D1 chuyển nhượng quyền
sử dụng đất cho ông V, đến khi ông V chuyển nhượng cho ông D là gần 12 tháng
nhưng bà D1 không có ý kiến gì. Khi ông D thế chấp tài sản vay Ngân hàng thì
Ngân hàng cũng đã thực hiện thủ tục nhận thế chấp tài sản đúng quy định pháp
luật, Ngân hàng xem xét thẩm định tài sản ngày 28/12/2020 thì cũng không ai có
ý kiến và khiếu nại gì nên Hợp đồng thế chấp là hợp pháp nên được bảo vệ và
hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất có hiệu lực kể từ thời điểm xác lập theo
quy định tại khoản 2 Điều 133 của Bộ luật dân sự. Vì vậy, cấp sơ thẩm tuyên
Ngân hàng có quyền yêu cầu phát mãi tài sản thế chấp để Thi hành án là có căn
cứ, đúng quy định pháp luật nên kháng cáo bà D1 là không có căn cứ Hội đồng
xét xử không chấp nhận.
[6] Đối với kháng cáo của bà D1 về việc yêu cầu tuyên bố vô hiệu hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà với ông V ngày 17/12/2019 tại
Văn phòng C, vô hiệu đối với hợp đồng thế chấp tài sản là thửa đất 1995, tờ bản
đồ số 6, diện tích 76,8m
2
giữa Ngân hàng với ông D và Công nhận phần đất thửa
1995, tờ bản đồ số 6, diện tích 76,8m
2
, tại Khu V, phường T, quận C, thành phố
Cần Thơ là tài sản của bà và đề nghị chỉnh lý giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
lại cho bà. Xét thấy, khi cấp sơ thẩm thụ lý giải quyết vụ án bà D1 có yêu cầu
độc lập và Tòa án cấp sơ thẩm đã thụ lý yêu cầu của bà nhưng đến ngày
21/5/2024 bà D1 có đơn rút lại toàn bộ yêu cầu độc lập và Tòa án cấp sơ thẩm đã
đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu độc lập của bà D1 là đúng quy định pháp luật.
Theo quy định tại Điều 293 của Bộ luật tố tụng dân sự quy định Tòa án cấp phúc
thẩm chỉ xem xét lại phần của Bản án sơ thẩm, quyết định của Bản án sơ thẩm
kháng cáo, do yêu cầu của bà D1 cấp sơ thẩm đã đình chỉ giải quyết do bà D1 đã
rút đơn, cấp sơ thẩm chưa xem xét nên Hội đồng phúc thẩm không có thẩm
quyền xem xét. Vì vậy, kháng cáo này của bà D1 không được Hội đồng xét xử
chấp nhận.
[7] Theo biên bản xem xét thẩm định ngày 01/6/2023 (BL73) đối với
quyền sử dụng đất theo hợp đồng thế chấp nêu trên thì hiện trên đất có: 01 căn
nhà cấp 4, khung cột bê tông, vách tường, mái tol, gạch men, trần grima, diện
tích xây dựng 47,18m
2
; công trình phụ khung cột, kèo gỗ, mái tol nền gạch tàu,
diện tích xây dựng 25m
2
. Tại biên bản lấy lời khai ngày 21/11/2023 của Tòa án
nhân dân huyện Kế Sách (BL93) bà Nguyễn Thị D1 trình bày hiện nay bà D1
đang ở cùng chồng là Đỗ Quốc S,và con là Đỗ Quốc B. Tại phiên tòa phúc thẩm,
ông Đỗ Quốc S và ông Đỗ Quốc B cũng thống nhất tham gia tố tụng và thống
nhất với ý kiến bà D1 về việc không đồng ý phát mãi tài sản thế chấp và đại diện
Ngân hàng cũng có ý kiến chỉ yêu cầu phát mãi quyền sử dụng đất, còn tài sản
nhà thuộc quyền sỡ hữu của bà D1, trong quá trình Thi hành án thì nếu bà D1 có
nhu cầu thì dành quyền ưu tiên mua cho bà D1. Xét thấy, như đã phân tích ở
phần [4] Ngân hàng nhận thế chấp tài sản là hợp pháp, ngay tình nên có hiệu lực.
Hiện nay trên đất có tài sản là căn nhà của vợ chồng bà D1, ông S nên căn cứ
theo quy định tại khoản 2 Điều 325 của Bộ luật dân sự và án lệ 11/2017 được
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 14 tháng 12 năm
8
2017 và được công bố theo Quyết định số 299/QĐ-CA ngày 28 tháng 12 năm
2017 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Dành quyền ưu tiên mua cho gia
đình bà Nguyễn Thị D1 nếu họ có nhu cầu mua (chuyển nhượng)
[8] Từ những phân tích trên thấy rằng kháng cáo của bà Nguyễn Thị D1 là
không có căn cứ. Hội đồng xét xử không chấp nhận.
[9] Đề nghị của Vị đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Sóc Trăng tại
phiên tòa về việc áp dụng khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự, giữ
nguyên bản án sơ thẩm là có căn cứ Hội đồng xét xử chấp nhận.
[10] Các phần khác trong quyết định của bản án sơ thẩm không có kháng
cáo, kháng nghị nên có hiệu lực kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.
[11] Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo của đương sự không được
chấp nhận và Bản án sơ thẩm được giữ nguyên nên các đương sự không phải
chịu án phí phúc thẩm quy định khoản 1 Điều 29 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308; khoản 1 Điều 148 và khoản 6 Điều 313 Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015. Áp dụng khoản khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số:
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án, án được tuyên lại như sau:
Tuyên xử: Không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của bà Nguyễn Thị Diễm .
Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 102/2024/DS-ST ngày 21 tháng 6 năm
2024 của Tòa án nhân dân huyện Kế Sách.
Áp dụng khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều
39, các Điều 147, 157 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các điều 317, 323, 463 và 466
của Bộ luật Dân sự; các điều 90, 91, 94 và 95 của Luật Các tổ chức tín dụng năm
2010, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017; các điều 7, 8 và 13 của Nghị quyết số
01/2019/NQ-HĐTP, ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi
phạm và khoản 4 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc ông Đặng
Hoàng D có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng Thương mại cổ phần Á số tiền nợ gốc
455.695.956 đồng, nợ lãi trong hạn 21.934.773 đồng, nợ lãi quá hạn 163.099.358
đồng và phạt chậm trả lãi 404.926 đồng. Tổng cộng là 641.135.013 (sáu trăm
bốn mươi mốt triệu một trăm ba mươi lăm nghìn không trăm mười ba) đồng.
9
Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm (21/6/2024), ông Đặng
Hoàng D còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa
thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi
thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên
có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân
hàng cho vay thì ông D còn phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng lãi suất cho
vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều
chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.
Ngân hàng Thương mại cổ phần Á được quyền yêu cầu cơ quan Thi hành
án dân sự phát mãi bán đấu giá tài sản thế chấp để thi hành án trong trường hợp
ông D không tự nguyện thi hành. Tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất theo
Giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân quận C, thành phố Cần
Thơ cấp ngày 19/8/2005 và cập nhật chuyển nhượng cho ông Đặng Hoàng D
ngày 18/12/2020, gồm thửa đất số 1995, tờ bản đồ số 06, diện tích 76,8 m
2
, tọa
lạc tại Khu V, phường T, quận C, thành phố Cần Thơ. Dành quyền ưu tiên mua
quyền sử dụng đất nêu trên cho bà Nguyễn Thị D1, ông Đỗ Quốc S nếu họ có
nhu cầu mua (chuyển nhượng).
2. Không chấp nhận phần yêu cầu khởi kiện còn lại của nguyên đơn đối
với khoản nợ phạt chậm trả lãi số tiền 14.935.655 (mười bốn triệu chín trăm ba
mươi lăm nghìn sáu trăm năm mươi lăm) đồng.
3. Đình chỉ giải quyết toàn bộ yêu cầu độc lập của người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị D1 đã rút.
4. Về án phí:
4.1. Buộc ông Đặng Hoàng D phải chịu án phí số tiền 29.645.400 (hai
mươi chín triệu sáu trăm bốn mươi lăm nghìn bốn trăm) đồng;
4.2. Buộc Ngân hàng Thương mại cổ phần Á phải chịu án phí số tiền
746.782 (bảy trăm bốn mươi sáu nghìn bảy trăm tám mươi hai) đồng, được khấu
trừ vào số tiền tạm ứng án phí Ngân hàng đã nộp 11.930.000 đồng theo Biên lai
thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004813 ngày 24/10/2022 của Chi cục Thi
hành án dân sự huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng. Trả lại cho Ngân hàng TMCP Á
số tiền tạm ứng là 11.183.218 (mười một triệu một trăm tám mươi ba nghìn hai
trăm mười tám) đồng
4.3. Bà Nguyễn Thị D1 không phải chịu án phí và được nhận lại số tiền
tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo Biên lai thu tạm
ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001006 ngày 27/11/2023 của Chi cục Thi hành án
dân sự huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng.
5. Về chi phí tố tụng: Chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ số tiền 6.000.000
(sáu triệu) đồng ông Đặng Hoàng D phải chịu. Do Ngân hàng đã nộp tạm ứng
trước đã chi phí xong nên buộc ông D phải có trách nhiệm hoàn trả lại số tiền này
cho Ngân hàng TMCP Á.
6. Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Nguyễn Thị D1 phải chịu, khấu từ vào số
tiền tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn
10
đồng) theo Biên lai thu số 0006093, ngày 05 tháng 7 năm 2024 của Chi cục Thi
hành án dân sự huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng.
7. Bản án phúc thẩm này có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
8.Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành
án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự,
người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi
hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại
các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm
2014, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi
hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.
Nơi nhận:
- Các đương sự;
- VKSND tỉnh Sóc Trăng;
- TAND huyện Kế Sách;
- VKSND huyện Kế Sách;
- Chi cục THADS huyện Kế Sách;
- Lưu: HSVA – VP - TDS.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Tôn Thị Thanh Thúy
Tải về
Bản án số 254/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 254/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 16/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 11/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 09/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 06/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 04/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 03/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 30/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 30/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 30/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 30/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 30/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 29/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 27/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 26/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 26/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Bản án số 590/2024/DS-PT ngày 26/11/2024 của TAND tỉnh Bình Dương về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 26/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Bản án số 565/2024/DS-PT ngày 25/11/2024 của TAND tỉnh Tiền Giang về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Ban hành: 25/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 25/11/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm