Bản án số 235/2024/DS-PT ngày 31/12/2024 của TAND tỉnh Bình Thuận về tranh chấp hợp đồng gửi giữ tài sản
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 235/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 235/2024/DS-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 235/2024/DS-PT
Tên Bản án: | Bản án số 235/2024/DS-PT ngày 31/12/2024 của TAND tỉnh Bình Thuận về tranh chấp hợp đồng gửi giữ tài sản |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng gửi giữ tài sản |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bình Thuận |
Số hiệu: | 235/2024/DS-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 31/12/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TỈNH BÌNH THUẬN
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 235/2024/DS-PT
Ngày: 31-12-2024
V/v: Tranh chấp hợp đồng gửi tài sản.
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH THUẬN
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Lê Phương
Các Thẩm phán: Ông Vũ Đức Hùng, ông Lê Minh Tuấn
- Thư ký phiên tòa: Bà Vi Thị Yến, Thư ký Toà án nhân dân tỉnh Bình
Thuận.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Thuận tham gia phiên tòa:
Bà Nguyễn Thị Hằng - Kiểm sát viên.
Ngày 31 tháng 12 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận xét
xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 230/2024/TLPT-DS ngày
13/11/2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng gửi giữ tài sản”. Do Bản án dân sự sơ
thẩm số 71/2024/DS-ST ngày 05 tháng 9 năm 2024 của Toà án nhân dân thị xã
La Gi bị kháng cáo. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số
256/2024/QĐ – PT ngày 28/11/2024 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Nguyễn Đức T, sinh năm 1994 - Bà Nguyễn Thị Ly L,
sinh năm 2001; Địa chỉ: Thôn M, xã T, thị xã L, tỉnh Bình Thuận. (vắng mặt);
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Quang Đ, sinh năm 1981 (vắng mặt);
Địa chỉ: Thôn T, xã T, thị xã L, tỉnh Bình Thuận.
(Theo hợp đồng ủy quyền ngày 16/4/2024)
2. Bị đơn: Bà Hoàng Thị C, sinh năm 1973 (có mặt);
Địa chỉ: Thôn T, xã T, thị xã L, tỉnh Bình Thuận.
Người đại diện theo ủy quyền: Bà Đinh Thị Tường V, sinh năm 2001 (có
mặt); Địa chỉ: 8 L, phường B, quận T, TP .; Địa chỉ liên hệ: Tòa nhà E, 8 L,
phường A, TP ., TP ..
(Theo Giấy ủy quyền ngày 02/5/2024)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo hồ sơ án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
2
* Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn, ông Lê Quang Đ trình
bày: Ngày 05/5/2017, nguyên đơn có gửi cho bà Hoàng Thị C số tiền 200.000.000
(bằng chữ: hai trăm triệu) đồng để bị đơn giữ giúp. Khi gửi tiền hai bên có làm
giấy gửi tiền giao cho nguyên đơn giữ, hai bên thỏa thuận, khi nào nguyên đơn
cần lấy lại thì sẽ báo cho bị đơn biết trong vòng 01 tháng. Tháng 02/2024, nguyên
đơn có nhu cầu lấy lại số tiền và đã thông báo cho bị đơn biết nhưng bị đơn không
có thiện chí trả lại. Nay nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải hoàn trả lại số tiền
200.000.000 đồng (bằng chữ: hai trăm triệu đồng).
* Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn, bà Đinh Thị Tường V trình
bày: Khoảng năm 2017, bị đơn không nhớ rõ ngày tháng cụ thể nhưng lúc đó là
vào thời điểm sau đám cưới con bà V1 là Nguyễn Đức T với Nguyễn Thị Ly L.
Bị đơn có đến nhà bà V1 nhằm mục đích để vay tiền của bà V1. Khi gặp nhau qua
trao đổi thì bà V1 có hứa sẽ cho bị đơn mượn số vàng cưới của Nguyễn Đức T và
Nguyễn Thị Ly L, bà Vũ quy S vàng cưới thành tiền là 200.000.000 (bằng chữ:
hai trăm triệu) đồng. Sau khi thống nhất, bà V1 nhờ con dâu Nguyễn Thị Ly L
viết giấy cam kết gửi tiền và kêu bị đơn ký vào tờ giấy mà hiện nay ông T, bà L
đã nộp cho Tòa án. Sau khi bị đơn ký xong thì điện thoại bà V1 đổ chuông, bà L
đưa số vàng cùng tờ giấy mà bị đơn vừa ký cho bà V1 cầm, sau đó bà V1 đi luôn
không giao số vàng cho bị đơn như nội dung viết trong tờ cam kết. Bà V1 có nói
với bị đơn là bị đơn về đi, nhà bà V1 đang có việc, ngày mai bà V1 sẽ gọi bị đơn
lên để đưa tiền. Ngày hôm sau, bà V1 không gọi điện thoại và cũng không nói gì
đến số tiền đã viết trong tờ cam kết. Sau đó, khoảng 03 - 04 tháng sau, ông Nguyễn
Đức T có đến nhà bị đơn đòi vàng thì bị đơn trả lời là số vàng đó bà V1 không
đưa cho bị đơn thì ông T nói sẽ về hỏi lại bà V1. Sau khi ông T đi về khoảng 03 -
04 ngày, bị đơn có lên nhà bà V1 đòi lại tờ giấy cam kết nhưng bà V1 không trả.
Một thời gian sau, bị đơn có lên trình báo Công an xã T, Công an xã T yêu cầu bà
trình báo Công an thị xã L. Khi làm việc tại Công an thị xã L thì bà V1 trình bày,
bà cùng với bị đơn đi bán số vàng được 200.000.000 (bằng chữ: hai trăm triệu)
đồng và đã đưa tiền cho bị đơn nhưng thực tế thì không có chuyện bà Vũ B vàng
và đưa tiền như bà V1 trình bày. Bị đơn xác định có ký trong tờ giấy cam kết đề
ngày 05/5/2017 nhưng không nhận bất kỳ khoản tiền nào từ nguyên đơn. Lúc nhận
gửi giữ là vàng nhưng trong giấy cam kết lại ghi là tiền là không đúng. Nay bị đơn
không đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
* Ý kiến của người làm chứng bà Nguyễn Thị V1 trình bày: Hợp đồng gửi
giữ tài sản giữa vợ chồng con trai bà Nguyễn Đức T, Nguyễn Thị Ly L với bà
Hoàng Thị C, bà không biết nội dung. Bà V1 cho rằng, bà đã giữ số vàng ghi trong
giấy không đưa cho bà C là không đúng, bà không thừa nhận.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 71/2024/DS-ST ngày 05 tháng 9 năm 2024
của Toà án nhân dân thị xã La Gi đã quyết định:
3
Căn cứ: Khoản 3 Điều 26, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều
39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Điều 554, 556, 557 và 559 Bộ luật Dân
sự năm 2015; Khoản 3 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày
30/12/2016.
1. Tuyên xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Đức T và bà Nguyễn Thị Ly
L.
Buộc bà Hoàng Thị C phải hoàn trả lại cho ông Nguyễn Đức T và bà Nguyễn
Thị Ly L số tiền là: 200.000.000 đồng (bằng chữ: hai trăm triệu đồng)
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi
thi hành xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn
phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật
Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Về án phí: Bà Hoàng Thị C phải chịu số tiền là 10.000.000 đồng (bằng
chữ: mười triệu đồng chẵn) án phí dân sự sơ thẩm.
Hoàn trả cho ông Nguyễn Đức T và bà Nguyễn Thị Ly L số tiền là:
5.000.000 (bằng chữ: năm triệu đồng chẵn) đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên
lai thu số 0011476 ngày 11/4/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã La Gi.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về quyền và nghĩa vụ thi hành án,
án phí và quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, bị đơn bà Hoàng Thị C kháng cáo toàn bộ Bản án sơ
thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị đơn và Người đại diện của bị đơn đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận
kháng cáo của bị đơn, hủy bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thị xã La Gi.
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Thuận sau khi phân tích,
đánh giá toàn bộ tài liệu, chứng cứ của vụ án và phát biểu ý kiến về việc tuân theo
pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm và quan điểm
giải quyết vụ án như sau:
- Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử đã
thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự từ khi thụ lý vụ án để
xét xử phúc thẩm đến trước khi nghị án; các đương sự tham gia tố tụng chấp hành
đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về nội dung vụ án: Bị đơn kháng cáo không cung cấp chứng cứ gì mới nên
kháng cáo của bị đơn không có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận
kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
4
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại
phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát,
Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: bị đơn kháng cáo trong thời hạn và đúng quy định
pháp luật nên vụ án được xem xét theo trình tự thủ tục phúc thẩm; Tòa án cấp sơ
thẩm thụ lý giải quyết là đúng quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản
1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ
“Tranh chấp hợp đồng gửi tài sản ” là đúng quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật
tố tụng dân sự. Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của nguyên
đơn vắng mặt và có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt nên HĐXX giải quyết vụ án
vắng mặt người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn.
[2] Xét kháng cáo của bị đơn, HĐXX thấy rằng: ngày 05/5/2017 nguyên đơn
và bị đơn ký giấy cam kết gửi tiền theo đó nguyên đơn gửi cho bị đơn số tiền
200.000.000 đồng (bằng chữ: hai trăm triệu đồng), hai bên thỏa thuận khi nào cần
lấy lại thì nguyên đơn thông báo trước cho bị đơn 01 tháng để bị đơn chuẩn bị.
Ngày 23/02/2024, nguyên đơn đã thông báo cho bị đơn về việc lấy lại số tiền trên
nhưng bị đơn không thực hiện nên nguyên đơn có quyền khởi kiện. Trong quá
trình giải quyết, bị đơn trình bày có ký giấy gửi giữ tài sản tuy nhiên, bị đơn không
nhận được số vàng quy thành tiền là 200.000.000 đồng (bằng chữ: hai trăm triệu
đồng) như nguyên đơn trình bày. Như vậy, bị đơn có đầy đủ năng lực hành vi dân
sự, đã thừa nhận ký giấy gửi tiền với nội dung xác định bị đơn đã nhận giữ của
nguyên đơn 200.000.000 đồng bị đơn thì phải có nghĩa vụ chứng minh việc mình
chưa nhận tiền từ nguyên đơn. Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn không
chứng minh được việc chưa nhận tiền thì phải chịu trách nhiệm về giao dịch dân
sự đã ký kết. Bị đơn khai rằng mẹ ruột bà Nguyễn Thị Ly L có kể lại cho bị đơn
là bà Ly L có kể lại với mẹ việc chưa đưa tiền cho bị đơn. Tuy nhiên tại giấy cam
kết gửi tiền người ký tên là ông T chứ không phải là bà Ly L. Lời kể của mẹ bà L
là chỉ nghe lại và suy đoán nên không có căn cứ để triệu tập người làm chứng để
xác minh. Mặt khác, tại kết luận điều tra và công văn số 382/TB-ĐTTH ngày
17/6/2024 của cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã L không giải quyết tranh
chấp giữa bà C và ông T mà chỉ xác định việc vay tiền giữa bà Hoàng Thị C với
bà Nguyễn Thị V1 không phạm tội cho vay lãi nặng, không liên quan đến giao
dịch gửi tiền.
[3] Qua hồ sơ vụ án, cũng như xem xét toàn bộ quá trình tố tụng ở cấp sơ
thẩm và tại phiên tòa xét xử phúc thẩm, HĐXX nhận thấy bản án sơ thẩm chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở. Bị đơn kháng cáo nhưng
không cung cấp chứng cứ mới để chứng minh cho kháng cáo của mình, do đó
5
kháng cáo của bị đơn không có căn cứ để chấp nhận. HĐXX cần giữ nguyên bản
án sơ thẩm theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Thuận.
[4] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên người
kháng cáo phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ: khoản 1 Điều 308, khoản 1 Điều 148 Bộ luật Tố tụng dân sự.
2. Tuyên xử: Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn. Giữ nguyên Bản
án dân sự sơ thẩm số 71/2024/DS-ST ngày 05 tháng 9 năm 2024 của Toà án nhân
dân thị xã La Gi.
3.Căn cứ: 147 Bộ luật Tố tụng dân sự ;
Điều 554, 556, 557 và 559 Bộ luật Dân sự;
Khoản 2 Điều 26, khoản 1 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH1 14
ngày 30/12/2016.
4.Tuyên xử:
4.1.Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Đức T và bà Nguyễn Thị
Ly L.
Buộc bà Hoàng Thị C phải hoàn trả lại cho ông Nguyễn Đức T và bà Nguyễn
Thị Ly L số tiền là: 200.000.000 đồng (bằng chữ: hai trăm triệu đồng)
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi
thi hành xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn
phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật
Dân sự năm 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
4.2.Về án phí sơ thẩm: Bà Hoàng Thị C phải chịu số tiền là 10.000.000 đồng
(bằng chữ: mười triệu đồng chẵn) án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho ông Nguyễn
Đức T và bà Nguyễn Thị Ly L số tiền là: 5.000.000 (bằng chữ: năm triệu đồng
chẵn) đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu số 0011476 ngày 11/4/2024
của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã La Gi.
4.3. Về án phí dân sự phúc thẩm: bị đơn bà Hoàng Thị C phải chịu 300.000
đồng án phí dân sự phúc thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp
theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0011805 ngày 13/9/2024 của
Chi cục Thi hành án dân sự thị xã La Gi.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án Dân sự có quyền
thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7A và 9 Luật Thi hành án
6
dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi
hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (ngày
31/12/2024).
Nơi nhận:
TM.HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
- VKSND tỉnh Bình Thuận;
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- TAND, VKSND La Gi;
- Chi Cục THADS La Gi;
- Các đương sự;
- Cổng TTĐT-TANDTC
- Lưu: Hồ sơ vụ án; Tòa DS; Tổ HCTP.
Nguyễn Lê Phương
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 20/02/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 23/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Bản án số 178/2024/DS-PT ngày 20/09/2024 của TAND TP. Đà Nẵng về tranh chấp hợp đồng gửi giữ tài sản
Ban hành: 20/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 17/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 20/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 26/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 23/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 24/05/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 24/05/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 24/05/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 09/05/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 22/04/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 22/04/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 16/04/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 29/03/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 04/03/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 05/02/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 24/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 23/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm