Bản án số 224/2024/HCPT ngày 27-03-2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về về việc khiếu kiện quyết định hành chính về cưỡng chế thu hồi đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
224-2024-HC-PT-CAP-CAO-TPHCM
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 224/2024/HCPT
| Tên Bản án: | Bản án số 224/2024/HCPT ngày 27-03-2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về về việc khiếu kiện quyết định hành chính về cưỡng chế thu hồi đất |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | QĐ hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai trong trường hợp giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, trưng dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư… |
| Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại TP.HCM |
| Số hiệu: | 224/2024/HCPT |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 27/03/2024 |
| Lĩnh vực: | Hành chính |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ án: | Giữ nguyên bản án sơ thẩm |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 224/2024/HC-PT
Ngày 27 tháng 3 năm 2024
V/v:“Khiếu kiện quyết định hành chính
về cưỡng chế thu hồi đất”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Trần Thị Thúy Hồng.
Các thẩm phán: Ông Dương Anh Văn.
Ông Trần Ngọc Tuấn.
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Trung Kiên - Thư ký Tòa án nhân dân
cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Đoàn Văn Vâng - Kiểm sát viên cao cấp.
Trong các ngày 25, 27 tháng 3 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao
tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính phúc
thẩm thụ lý số: 1117/2023/TLPT-HC ngày 25 tháng 12 năm 2023 về việc
“Khiếu kiện quyết định hành chính về cưỡng chế thu hồi đất”,
Do Bản án hành chính sơ thẩm số: 51/2023/HC-ST ngày 18/9/2023 của
Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 584/2024/QĐ-PT ngày
04 tháng 3 năm 2024, giữa các đương sự:
1. Người khởi kiện: Bà Nguyễn Hoàng Thu T, sinh năm 1971. Địa chỉ: số
G, đường D, Khu A, phường C, thành phố T, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện: Ông Trần Thanh T1,
sinh năm 1986. Địa chỉ liên hệ: số F, K, Phường C, Quận D, Thành phố Hồ Chí
Minh, có mặt (theo Văn bản ủy quyền ngày 13/4/2023).
2. Người bị kiện: Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương.
Địa chỉ: số A, đường Q, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Võ Chí T2; chức vụ: Phó Chủ tịch Ủy
ban nhân dân thành phố T, có đơn xin xét xử vắng mặt (Văn bản ủy quyền số
1503/QĐ-UBND ngày 10/5/2023).
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1 Ông Võ Văn V, sinh năm 1969. Địa chỉ: số G, đường D, khu dân cư C,
2
Khu A, phường C, thành phố T, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.
3.2. Ủy ban nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương. Địa chỉ: số A, đường
Q, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện hợp pháp: Bà Nguyễn Thu C; chức vụ: Chủ tịch Ủy ban
nhân dân thành phố T, có đơn xin giải quyết vắng mặt.
4. Người kháng cáo: Bà Nguyễn Hoàng Thu T - Là người khởi kiện.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, người đại diện
hợp pháp của người khởi kiện bà Nguyễn Hoàng Thu T là ông Trần Thanh T1
trình bày:
Bà T là chủ sử dụng phần đất có diện tích 1.104m
2
(gồm 98m
2
đất hành
lang bảo vệ đường bộ; 566m
2
đất trồng cây lâu năm và 440m
2
đất lúa) thuộc các
thửa đất số 524 (751), 562(752), tờ bản đồ số 07 tọa lạc tại phường C có nguồn
gốc do bà T nhận chuyển nhượng từ ông Phạm Nguyễn Nghi T3 từ năm 2003 đã
được Ủy ban nhân dân thị xã (nay là thành phố) Thủ Dầu Một cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số X 151967, vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số 00360 QSDĐ/H cấp cho hộ bà Nguyễn Hoàng Thu T vào ngày
10/6/2003.
Ngày 17/8/2007, Ủy ban nhân dân tỉnh B ban hành Quyết định số:
3567/QĐ-UBND phê duyệt quy hoạch chi tiết 1/500 khu đô thị S giai đoạn I,
diện tích 146,7ha thuộc xã C. Ngày 31/12/2007, Ủy ban nhân dân tỉnh B ban
hành Quyết định số: 5880/QĐ- UBND về việc thu hồi đất để bồi thường giải
phóng mặt bằng phục vụ công trình Khu đô thị S với nội dung: “Thu hồi khu đất
có tổng diện tích 3.334.962,5m
2
của các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đang sử
dụng tại xã C, thị xã T, tỉnh Bình Dương”. Diện tích đất của bà T đang sử dụng
thuộc diện bị thu hồi theo Quyết định số: 5880/QĐ-UBND ngày 31/12/2007.
Tuy nhiên đến ngày 21/6/2010 bà T mới biết đến Quyết định thu hồi đất
nêu trên. Đến ngày 25/6/2010, bà T được mời họp để nghe thông báo về nội
dung quyết định thu hồi đất.
Ngày 23/3/2011, bà T gửi đơn khiếu nại đến Ủy ban nhân dân xã C về việc
bà T chưa nhận được tiền bồi thường nhưng chủ đầu tư đã tự ý móc đất, đào xới
khu đất của bà T.
Ngày 15/4/2016, Ban Q thuộc Tổng Công ty Đ lập biên bản với bà T, qua
đó bà T nêu ý kiến: “Đồng ý chuyển đổi phần đất nông nghiệp nằm trong quy
hoạch đường N giai đoạn 1 sang vị trí đất nông nghiệp khác tương đương. Về
đất hoán đổi và đơn giá, gia đình không đồng ý với phương án đã được phê
duyệt, gia đình về bàn bạc với các thành viên và trả lời sớm nhất”.
Ngày 05/10/2016, Ủy ban nhân dân phường C tiến hành họp dân về việc
thực hiện niêm yết công khai kế hoạch thu hồi đất, điều tra, khảo sát, đo đạc,
kiểm đếm và thông báo thu hồi đất dự án khu đô thị C. Tại buổi làm việc bà T
3
cũng thống nhất ý kiến của các hộ dân có đất bị thu hồi như sau: “Đồng ý chấp
nhận cho mở đường Nguyễn Văn C1 và đề nghị điều chỉnh giá theo thời giá hiện
tại, đề nghị Ủy ban nhân dân thành phố T đưa ra giá hợp lý, sau khi thỏa thuận
xong giá cả sẽ tiến hành đo đạc kê khai tài sản trên đất”.
Ngày 21/10/2019, Ủy ban nhân dân thành phố T ban hành Quyết định số:
2968/QĐ-UBND về việc thu hồi đất của hộ gia đình bà T. Ngày 06/02/2023,
Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố T ban hành Quyết định số: 133/QĐ-UBND
về việc cưỡng chế thực hiện Quyết định số: 2968/QĐ-UBND ngày 21/10/2019
có nội dung: “Áp dụng biện pháp cưỡng chế thu hồi đất đối với hộ bà Nguyễn
Hoàng Thu T đang sử dụng khu đất diện tích 1.104m
2
(gồm 98m
2
đất hành lang
bảo vệ đường bộ; 566m
2
đất trồng cây lâu năm và 440m
2
đất lúa) thuộc các
thửa đất số 524(751), 562(752), tờ bản đồ số 07 tọa lạc tại phường C, thành phố
T, tỉnh Bình Dương theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
ở và tài sản gắn liền với đất số 00360 QSDĐ/H ngày 10/6/2003 do UBND thị xã
(nay là thành phố) Thủ Dầu M cấp cho hộ bà Nguyễn Hoàng Thu T để thực hiện
dự án: Khu đô thị S, phường C, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Thời gian thực
hiện cưỡng chế thu hồi đất: Dự kiến ngày 06/02/2023”.
Nhận thấy Quyết định số: 133/QĐ-UBND ngày 06/02/2023 của Chủ tịch
Ủy ban nhân dân thành phố T đã xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của bà
T, cụ thể: Ủy ban nhân dân thành phố T không tuân thủ quy định về trình tự, thủ
tục thu hồi đất, vi phạm quy định tại chương V Nghị định số 84/2007/NĐ-CP
ngày 25/5/2007 của Chính phủ và Quyết định số 133 vi phạm quy định tại khoản
3 Điều 5 Nghị định 166/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013. Nên bà T khởi kiện yêu
cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương giải quyết: Hủy Quyết định số: 133/QĐ-
UBND ngày 06/02/2023 về việc cưỡng chế thực hiện Quyết định số: 2968/QĐ-
UBND ngày 21 tháng 10 năm 2019 của Ủy ban nhân dân thành phố T về việc
thu hồi đất của hộ bà Nguyễn Hoàng Thu T tại phường C, thành phố T, tỉnh
Bình Dương.
* Tại Văn bản số 1723/UBND-NC ngày 07/6/2023, người đại diện hợp
pháp của người bị kiện Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố T có ý kiến:
Hộ bà Nguyễn Hoàng Thu T được Ủy ban nhân dân thị xã (nay là thành
phố) Thủ Dầu Một cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00360/QSDĐ/H
ngày 10/06/2003 tại thửa đất số 524(751), 562(752) tờ bản đồ số 07, phường C
với diện tích 1.006m
2
(440 m
2
đất lúa và 566m
2
đất LN) và 98m
2
đất hành lang
bảo vệ đường bộ.
Thực hiện dự án Khu đô thị S tại T (nay là thành phố) Thủ Dầu M được Ủy
ban nhân dân tỉnh B phê duyệt quy mô, ranh giới dự án tại Quyết định số:
1817/QĐ-UBND ngày 12 tháng 3 năm 2004; Ủy ban nhân dân thị xã (nay là
thành phố) Thủ Dầu M đã ban hành Thông báo số 61/TB.UBND ngày 02 tháng
4 năm 2007 về việc bồi thường giải tỏa mặt bằng để triển khai xây dựng dự án:
Khu đô thị S, thành phố T.
Căn cứ Công văn số 4960/UBND-KTN ngày 17 tháng 10 năm 2018 của Ủy
ban nhân dân tỉnh B về việc tiếp tục thực hiện dự án theo phương thức thu hồi
4
đất tại dự án Khu đô thị S giai đoạn 1, vào ngày 12/04/2019, Trung tâm Phát
triển quỹ đất thành phố phối hợp cùng Ủy ban nhân dân phường C và Tổng
Công ty Đ tiến hành họp dân công khai, phổ biến các văn bản liên quan về công
tác thu hồi đất, bồi thường hỗ trợ và tái định cư dự án Khu đô thị S, phường C,
thành phố T.
Để thực hiện công tác bồi thường, Trung tâm Phát triển quỹ đất thành phố
đã phối hợp cùng các ngành chức năng tiến hành đo đạc, kiểm đếm tại biên bản
số 35/BBĐĐKĐ ngày 26/07/2019; lập Sơ đồ thu hồi đất ngày 26/7/2019; Bảng
áp giá số 35/BAG- KĐTSTCM ngày 11/9/2019 và bổ sung thêm tại Bảng áp giá
số 35-BS/ BAG-KĐTSTCM ngày 04/8/2022).
Ngày 21/10/2019 Ủy ban nhân dân thành phố T đã ban hành Quyết định số
2968/QĐ-UBND ngày 21/10/2019 về việc thu hồi đất của hộ bà Nguyễn Hoàng
Thu T tại phường C với tổng diện tích đất thu hồi là 1.104m
2
đất (trong đó 98m
2
đất HLBVĐB; 566m
2
đất trồng cây lâu năm; 440 m
2
đất Lúa )và Quyết định số:
3011/QĐ-UBND ngày 21/10/2019 về việc phê duyệt phương án bồi thường hỗ
trợ và tái định cư dự án tại (trong đó có số tiền bồi thường, hỗ trợ của hộ bà
Nguyễn Hoàng Thu T là 4.857.600.000 đồng, STT 30).
Sau khi xem xét đề nghị của Tổng Công ty Đ về việc hỗ trợ đơn giá bồi
thường đối với các hộ dân còn lại chưa nhận tiền bồi thường tại dự án: khu đô
thị S, thành phố T (giai đoạn 1), UBND thành phố T đã thống nhất việc hỗ trợ
đơn giá bồi thường đối với các hộ dân còn lại chưa nhận tiền bồi thường tại dự
án tại Công văn số: 1661/UBND-VP ngày 28/7/2022 và Ủy ban nhân dân thành
phố T đã ban hành Quyết định số: 4183/QĐ-UBND ngày 29/09/2022 về việc
phương án bồi thường hỗ trợ và tái định cư dự án (đợt 6), trong đó có hỗ trợ
thêm cho hộ bà Nguyễn Hoàng Thu T với số tiền là 1.435.200.000 đồng.
Trung tâm Phát triển quỹ đất đã phối hợp cùng Ủy ban nhân dân phường C,
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phường P và đại diện Tổng Công ty Đ
(HUD) đã nhiều lần tổ chức mời làm việc, vận động, thuyết phục hộ bà Nguyễn
Hoàng Thu T nhận tiền bồi thường, hỗ trợ và bàn giao mặt bằng để triển khai
thực hiện dự án (cụ thể vào các ngày 06/11/2019, 12/12/2019; 08/10/2020;
07/6/2021; 18/10/2021; 17/11/2021; 01/4/2022; 20/4/2022; 12/7/2022;
09/8/2022). Kết quả sau các buổi vận động hộ bà T vẫn không đồng ý nhận tiền
bồi thường và giao mặt bằng cho dự án và bà có đề nghị bồi thường đất theo đơn
giá 10.000.000 đồng/m
2
(nội dung đề nghị của bà T đã được đoàn vận động có ý
kiến giải thích, trả lời cụ thể tại các buổi làm việc).
Do đó, ngày 06/02/2023 Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố T ban hành
Quyết định số: 133/QĐ-UBND ngày 06/02/2023 về việc cưỡng chế thực hiện
Quyết định số: 2968/QĐ-UBND ngày 21/10/2019 của UBND thành phố T về
việc thu hồi đất của hộ bà Nguyễn Hoàng Thu T tại phường C.
Căn cứ điểm d, khoản 3, Điều 69, Luật Đất đai năm 2013, quy định: “d)
Trường hợp người có đất thu hồi không bàn giao đất cho tổ chức làm nhiệm vụ
bồi thường, giải phóng mặt bằng thì Ủy ban nhân dân cấp xã, Ủy ban M cấp xã
5
nơi có đất thu hồi và tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng tổ
chức vận động, thuyết phục để người có đất thu hồi thực hiện.
Trường hợp người có đất thu hồi đã được vận động, thuyết phục nhưng
không chấp hành việc bàn giao đất cho tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải
phóng mặt bằng thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện ban hành quyết định
cưỡng chế thu hồi đất và tổ chức thực hiện việc cưỡng chế theo quy định tại
Điều 71 của Luật này.”
Xét thấy Trung tâm Phát triển quỹ đất thành phố đã phối hợp cùng Ủy ban
nhân dân phường C, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phường C và Tổng
Công ty Đ (Ban quản lý dự án sổ 8) nhiều lần vận động, thuyết phục nhưng hộ
bà Nguyễn Hoàng Thu T (người có đất thu hồi) vẫn chưa chấp hành việc bàn
giao đất cho tổ chức làm nhiệm vụ theo quy định. Để triển khai thực hiện dự án,
Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố T ban hành Quyết định số 133/QĐ-UBND
ngày 06/02/2023 về việc cưỡng chế thực hiện Quyết định số 2968/QĐ-UBND
ngày 21/10/2019 của Ủy ban nhân dân thành phố T về việc thu hồi đất của hộ bà
Nguyễn Hoàng Thu T tại phường C là phù hợp theo quy định của pháp luật.
- Tại Văn bản số 2960/UBND-NC ngày 30/8/2023, người đại diện hợp
pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân thành phố T
có ý kiến:
Theo hồ sơ lưu trữ thể hiện: Ngày 13/10/2000, ông Phạm Nguyễn Duy T4
được Ủy ban nhân dân thị xã (nay là thành phố) Thủ Dầu Một cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số vào số: 00184, tại thửa đất số: 562, tờ số: 7, diện
tích: 1006m
2
, tại: xã C, thị xã T. Đến năm 2003, ông Phạm Nguyễn Duy T4 lập
Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà Nguyễn Hoàng Thu T, tại
thửa đất số: 524(751), 562(752), tờ số: 7, diện tích: 1006m
2
, được lập tại UBND
xã C ngày 11/03/2007 số 434. Ngày 10/6/2003, hộ bà Nguyễn Hoàng Thu T
được Ủy ban nhân dân thị xã (nay là thành phố) Thủ Dầu Một cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số vào sổ: 00360QSDĐ/H, diện tích 1.006m
2
, thửa đất
số 524(751), 562(752), tờ bản đồ số 7, tại phường C, thị xã (nay là thành phố )
T, tỉnh Bình Dương.
Theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ: 00360QSDĐ/H do
UBND thị xã (nay là thành phố) Thủ Dầu Một cấp thể hiện là hộ bà Nguyễn
Hoàng Thu T, kèm theo hộ khẩu gia đình trong hồ sơ cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, gồm các nhân khẩu: Nguyễn Hoàng N (sinh năm 1959),
Nguyễn Hữu T5 (sinh năm 1927), Hoàng Thị Thanh T6 (sinh năm 1927),
Nguyễn Hoàng Thu N1 (sinh năm 1967), Nguyễn Hoàng K (sinh năm 1984),
Nguyễn Hoàng Thu H (sinh năm 1969), Nguyễn Hoàng Thu T (sinh năm 1971).
Về trình tự thủ tục ban hành Quyết định số: 2968/QĐ-UBND ngày
21/10/2019 của Ủy ban nhân dân thành phố T về việc thu hồi đất của hộ bà
Nguyễn Hoàng Thu T tại tại phường C là phù hợp theo quy định. Bà T có khiếu
nại yêu cầu tăng giá trị bồi thường về quyền sử dụng đất nhưng yêu cầu của bà T
đã được giải thích, trả lời cụ thể tại các buổi làm việc nhưng bà T không đồng ý
và không đồng ý nhận tiền bồi thường và giao mặt bằng cho dự án. Do đó, để
6
triển khai thực hiện dự án, Ủy ban nhân dân thành phố T ban hành Quyết định
số 133/QĐ-UBND ngày 06/02/2023 về việc cưỡng chế thực hiện Quyết định số
2968/QĐ-UBND ngày 21/10/2019 của Ủy ban nhân dân thành phố T về việc thu
hồi đất của hộ bà Nguyễn Hoàng Thu T tại phường C là đúng quy định.
Vì vậy, đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xem xét xử bác đơn khởi
kiện của của bà Nguyễn Hoàng Thu T yêu cầu hủy Quyết định số: 133/QĐ-
UBND ngày 06/02/2023 về việc cưỡng chế thực hiện Quyết định số: 2968/QĐ-
UBND ngày 21/10/2019 của Ủy ban nhân dân thành phố T lý do: không có cơ
sở xem xét để giải quyết.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số: 51/2023/HC-ST ngày 18/9/2023 của
Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương đã quyết định:
Căn cứ các Điều 30, 32, 116, điểm a khoản 2 Điều 193 và Điều 194 Luật
Tố tụng hành chính; khoản 1 Điều 32 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu,
giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Bác yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Hoàng Thu T về việc hủy Quyết
định số: 133/QĐ-UBND ngày 06/02/2023 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành
phố T cưỡng chế thực hiện Quyết định số: 2968/QĐ-UBND ngày 21/10/2019
của Ủy ban nhân dân thành phố T về việc thu hồi đất của hộ bà Nguyễn Hoàng
Thu T tại phường C, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí sơ thẩm và quyền kháng
cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.
- Ngày 29/9/2023, người khởi kiện bà Nguyễn Hoàng Thu T làm đơn
kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm
chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà T hủy quyết định số: 133/QĐ-
UBND ngày 06/02/2023 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố T cưỡng chế
thu hồi đất.
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay:
- Ông Trần Thanh T1 là người đại diện theo ủy quyền của bà T giữ nguyên
yêu cầu kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm, chấp nhận
toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà T hủy Quyết định số: 133/QĐ-UBND ngày
06/02/2023 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố T về việc cưỡng chế thu
hồi đất với lý do kháng cáo: Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố T ban hành
quyết định cưỡng chế không đúng theo Nghị định số: 166/NĐ-CP ngày
12/11/2013 của Chính phủ về trình tự thủ tục ban hành quyết định cưỡng chế.
Hơn nữa quyết định cưỡng chế ban hành ngày 06/02/2023 nhưng trong quyết
định ghi ngày cưỡng chế là ngày 06/02/2013 là không đúng quy định của pháp
luật.
- Người bị kiện Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố T có văn bản đề nghị
xét xử vắng mặt.
7
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát
biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: Về việc tuân theo pháp luật trong quá
trình giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm: Những người tiến hành tố tụng và
người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của Luật tố tụng hành
chính. Về yêu cầu kháng cáo của bà T: Kiểm sát viên đề nghị căn cứ khoản 1
Điều 241 Luật tố tụng hành chính bác kháng cáo, giữ nguyên quyết định của bản
án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả
tranh tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Đơn kháng cáo của bà Nguyễn Hoàng Thu T hợp lệ, làm trong thời hạn
luật định, hợp lệ, đủ điều kiện để xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
Người bị kiện Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố T và người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân thành phố T có văn bản đề nghị xét xử vắng
mặt nên tiến hành xét xử phúc thẩm vắng mặt người bị kiện theo quy định tại
khoản 4 Điều 225 Luật tố tụng hành chính năm 2015.
[2] Người khởi kiện bà Nguyễn Hoàng Thu T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải
quyết hủy Quyết định số: 133/QĐ-UBND ngày 06/02/2023 của Chủ tịch Ủy ban
nhân dân thành phố T cưỡng chế thu hồi đất của hộ bà Nguyễn Hoàng Thu T tại
phường C, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định đúng
quan hệ tranh chấp và thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền và còn trong thời
hiệu khởi kiện theo quy định tại Điều 3, Điều 30, Điều 32, 116 Luật tố tụng
hành chính năm 2015.
[3] Xét tính hợp pháp và có quyết định hành chính bị khởi kiện:
[3.1] Về thẩm quyền ban hành quyết định hành chính bị khởi kiện:
Ngày 06/02/2023, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố T ban hành Quyết
định số: 133/QĐ-UBND về việc cưỡng chế thu hồi đất là đúng thẩm quyền theo
quy định tại Điều 71 Luật đất đai năm 2013 và Điều 29 Luật tổ chức chính
quyền địa phương năm 2015.
[3.2] Dự án Khu đô thị S tại thị xã T được phê duyệt tại Quyết định số:
1817/QĐ-UBND ngày 12/3/2004 của Ủy ban nhân dân tỉnh B.
Ngày 02/4/2007, Ủy ban nhân dân thị xã T ban hành Thông báo số:
61/TB.UBND ngày 02/4/2007 về việc bồi thường giải tỏa mặt bằng để triển khai
xây dựng dự án Khu đô thị S, thành phố T.
Căn cứ Công văn số: 4960/UBND-KTN ngày 17/10/2018 của Ủy ban nhân
dân tỉnh B về việc tiếp tục thực hiện dự án theo phương thức thu hồi đất tại dự
án Khu đô thị S giai đoạn 1, vào ngày 12/04/2019, Trung tâm Phát triển quỹ đất
thành phố phối hợp cùng Ủy ban nhân dân phường C và Tổng Công ty Đ tiến
hành họp dân công khai, phổ biến các văn bản liên quan về công tác thu hồi đất,
bồi thường hỗ trợ và tái định cư dự án Khu đô thị S, phường C, thành phố T.
8
Đối với hộ bà Nguyễn Hoàng Thu T được Ủy ban nhân dân thị xã T (nay là
thành phố T) cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số X151967, vào sổ cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00360.QSDĐ/H ngày 10/06/2003 tại thửa
đất số 524 (751), 562 (752) tờ bản đồ số 07, phường C với diện tích 1.006m
2
(440 m
2
đất lúa và 566m
2
đất LN và 98m
2
đất hành lang bảo vệ đường bộ). Thực
hiện công tác bồi thường, Trung tâm Phát triển quỹ đất thành phố T đã phối hợp
cùng các ngành chức năng tiến hành đo đạc, kiểm đếm tại biên bản số:
35/BBĐĐKĐ ngày 26/07/2019; lập Sơ đồ thu hồi đất ngày 26/7/2019; Bảng áp
giá số: 35/BAG- KĐTSTCM ngày 11/9/2019 và bổ sung thêm tại Bảng áp giá
số: 35-BS/ BAG-KĐTSTCM ngày 04/8/2022.
Đến ngày 21/10/2019, Ủy ban nhân dân thành phố T ban hành Quyết định
số: 2968/QĐ-UBND ngày 21/10/2019 về việc thu hồi đất của hộ bà Nguyễn
Hoàng Thu T tại phường C với tổng diện tích đất thu hồi là 1.104m
2
đất, trong
đó có 98m
2
đất HLBVĐB; 566m
2
đất trồng cây lâu năm; 440 m
2
đất L.
Cùng ngày 21/10/2019, Ủy ban nhân dân thành phố T ban hành Quyết định
số: 3011/QĐ-UBND về việc phê duyệt phương án bồi thường hỗ trợ và tái định
cư dự án trong đó có số tiền bồi thường, hỗ trợ của hộ bà Nguyễn Hoàng Thu T
là 4.857.600.000 đồng, là đúng quy định tại Điều 66, khoản 3 Điều 69 của Luật
đất đai năm 2013.
Sau khi xem xét đề nghị của Tổng Công ty Đ về việc hỗ trợ đơn giá bồi
thường đối với các hộ dân còn lại chưa nhận tiền bồi thường tại Dự án Khu đô
thị S, thành phố T (giai đoạn 1), Ủy ban nhân dân thành phố T đã thống nhất
việc hỗ trợ đơn giá bồi thường đối với các hộ dân còn lại chưa nhận tiền bồi
thường tại dự án tại Công văn số: 1661/UBND-VP ngày 28/7/2022.
Do đó ngày 29/9/2022 Ủy ban nhân dân thành phố T đã ban hành Quyết
định số: 4183/QĐ-UBND về việc phương án bồi thường hỗ trợ và tái định cư dự
án (đợt 6), trong đó có hỗ trợ thêm cho hộ bà Nguyễn Hoàng Thu T với số tiền
là 1.435.200.000 đồng (STT 20) là có căn cứ theo quy định tại Nghị định số:
47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
nhà nước thu hồi đất. Tuy nhiên, bà T vẫn không đồng ý nhận tiền bồi thường và
giao mặt bằng cho dự án và bà T yêu cầu được bồi thường đất theo đơn giá
10.000.000 đồng/m
2
(nội dung đề nghị của bà T đã được đoàn vận động có ý
kiến giải thích, trả lời cụ thể tại các buổi làm việc).
Tại điểm d khoản 3 Điều 69 Luật đất đai năm 2013 quy định: “Trường hợp
người có đất thu hồi không bàn giao đất cho tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường,
giải phóng mặt bằng thì Ủy ban nhân dân cấp xã, Ủy ban M cấp xã nơi có đất
thu hồi và tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng tổ chức vận
động, thuyết phục để người có đất thu hồi thực hiện; Trường hợp người có đất
thu hồi đã được vận động, thuyết phục nhưng không chấp hành việc bàn giao
đất cho tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng thì Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cấp huyện ban hành quyết định cưỡng chế thu hồi đất và tổ chức
thực hiện việc cưỡng chế theo quy định tại Điều 71 của Luật này”.
9
Đối chiếu với quy định trên, thấy rằng do bà T không thực hiện việc bàn
giao đất nên Trung tâm Phát triển quỹ đất đã phối hợp cùng Ủy ban nhân dân
phường C, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phường C và đại diện Tổng
Công ty Đ (HUD) đã nhiều lần tổ chức mời làm việc, vận động, thuyết phục hộ
bà Nguyễn Hoàng Thu T nhận tiền bồi thường, hỗ trợ và bàn giao mặt bằng để
triển khai thực hiện dự, nhưng bà T không chấp hành. Do đó ngày 06/02/2023,
Ủy ban nhân dân thành phố T ban hành Quyết định số: 133/QĐ-UBND ngày
06/02/2023 về việc cưỡng chế thực hiện Quyết định số: 2968/QĐ-UBND ngày
21/10/2019 của Ủy ban nhân dân thành phố T về việc thu hồi đất của hộ bà
Nguyễn Hoàng Thu T tại phường C là có căn cứ theo quy định tại điểm d, khoản
3, Điều 69, và khoản 3 Điều 71 Luật Đất đai năm 2013.
[4] Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Trần Thanh T1 người đại diện hợp pháp
của người khởi kiện bà Nguyễn Hoàng Thu T giữ nguyên yêu cầu kháng cáo cho
rằng Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố T ban hành Quyết định số: 133/QĐ-
UBND về cưỡng chế thu hồi đất là không đúng theo quy định tại Nghị định số:
166/NĐ-CP ngày 12/11/2013 về trình tự thủ tục ban hành quyết định cưỡng chế
nên yêu cầu hủy quyết định: 133/QĐ-UBND. Xét lời nại ra của ông T1 là chưa
có căn cứ để chấp nhận. Bởi vì: Nghị định số 166/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của
Chính phủ quy định về cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành
chính. Đối tượng áp dụng của Nghị định số: 166/NĐ-CP là cá nhân, tổ chức Việt
Nam; cá nhân, tổ chức nước ngoài bị xử phạt vi phạm hành chính đã quá thời
hạn chấp hành hoặc quá thời hạn hoãn chấp hành quyết định xử phạt vi phạm
hành chính hoặc đã quá thời hạn chấp hành quyết định áp dụng biện pháp khắc
phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra mà không tự nguyện chấp hành.
Như vậy, có căn cứ xác định Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố T ban
hành Quyết định số: 133/QĐ-UBND về cưỡng chế thu hồi đất cưỡng chế thu hồi
đất là đúng quy định tại khoản 3 Điều 71 Luật đất đai năm 2013.
Vì vậy, không không chấp nhận kháng cáo của bà T, giữ nguyên bản án sơ
thẩm theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố
Hồ Chí Minh là có căn cứ, phù hợp với nhận định trên.
[5] Về án phí hành chính phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận
nên bà T phải chịu án phí hành chính phúc thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều
34 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[6] Quyết định khác của Bản án sơ thẩm về án phí sơ thẩm không có kháng
cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng
cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ khoản 1 Điều 241 của Luật Tố tụng Hành chính; Nghị quyết số:
10
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án.
- Không chấp nhận kháng cáo của người khởi kiện bà Nguyễn Hoàng Thu
T.
2. Giữ nguyên bản án hành chính sơ thẩm số: 51/2023/HC-ST ngày
18/9/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương:
Căn cứ các Điều 30, 32, 116, điểm a khoản 2 Điều 193 và Điều 194 Luật
Tố tụng hành chính, tuyên xử:
Bác yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Hoàng Thu T về việc hủy Quyết định
số: 133/QĐ-UBND ngày 06/02/2023 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố T
cưỡng chế thực hiện Quyết định số: 2968/QĐ-UBND ngày 21/10/2019 của Ủy
ban nhân dân thành phố T về việc thu hồi đất của hộ bà Nguyễn Hoàng Thu T
tại phường C, thành phố T, tỉnh Bình Dương.
3. Về án phí hành chính phúc thẩm: Bà Nguyễn Hoàng Thu T phải nộp
300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hành chính phúc thẩm, được khấu trừ
vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí số
0011713 ngày 17/10/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bình Dương. Bà T
đã nộp đủ.
4. Quyết định khác của Bản án sơ thẩm về án phí hành chính sơ thẩm
không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật thi hành kể từ ngày hết
thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 10/05/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 08/05/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 25/04/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 16/04/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 03/04/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 29/03/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 27/03/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 22/03/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 22/03/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 15/03/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 14/03/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 14/03/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 26/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 18/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 18/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 11/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 22/12/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 21/12/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 21/12/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm