Bản án số 22/2025/DS-ST ngày 22/04/2025 của TAND huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 22/2025/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 22/2025/DS-ST ngày 22/04/2025 của TAND huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận về tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Tánh Linh (TAND tỉnh Bình Thuận)
Số hiệu: 22/2025/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 22/04/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Bà Phạm Thị C yêu cầu bà Trần Thị Q trả tiền vay
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN TÁNH LINH
TỈNH BÌNH THUẬN
Bản án số: 22/2025/DS-ST
Ngày: 22-4-2025
V/v: “Tranh chấp hợp đồng
dân sự vay tài sản”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÁNH LINH, TỈNH BÌNH THUẬN
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Dương Thị Mận.
Các Hội thẩm nhân dân: 1. Ông Trần Quang Vinh;
2. Ông Phan Duy Bản.
- Thư phiên tòa: Nguyn Hồng Ngc T Thư viên Tòa án nhân
dân huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tánh tham gia phiên tòa:
Đinh Thị Vân Anh – Kiểm sát viên.
Ngày 22 tháng 4 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tánh Linh
xét xử thẩm công khai vụ án thụ lý số 305/2024/TLST-DS ngày 05 tháng 11
năm 2024, về việc: Tranh chấp về hợp đồng dân sự vay tài sản”, theo Quyết định
đưa vụ án ra xét xử số 34/2025/QĐXXST-DS, ngày 09 tháng 4 năm 2025 giữa
các đương sự:
- Nguyên đơn:Phạm Thị C, sinh năm 1959; địa chỉ: khu phố T, thị trấn
L, huyện T, tỉnh Bình Thuận.
- Bị đơn: Trần Thị Q, sinh năm 1968; địa chỉ: nhà số B đường Đ, khu
phố L, thị trấn L, huyện T, tỉnh Bình Thuận.
Tại phiên tòa, các đương sự đều vắng mặt nhưng đều đã đơn xin xét xử
vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Nguyên đơn –Phạm Thị C trình bày yêu cầu khởi kiện như sau:
Xuất phát tmối quan hquen biết nhau; ngày 27/10/2019, C cho vợ
chồng ông Văn T, Trần Thị Q con trai Văn T1 vay số tiền
20.000.000đ. Ngày 25/12/2021, bà Q trả cho C số tiền gốc 10.000.000đ
trả lãi đến hết tháng 12/2021. Từ tháng 01/2022 cho đến nay, Q trả cho C
được 05 lần với tổng cộng số tiền 2.200.000đ, số tiền này C trừ vào tiền lãi.
từ tháng 2/2022, bà C yêu cầu Q phải trả tiền gốc còn lại và tiền lãi nhưng bà
2
Q không trả nên C khởi kiện yêu cầu ông Văn T, Trần Thị Q, anh
Văn T1 phải trả cho bà C số tiền gốc là 10.000.000đ và tiền lãi phát sinh.
Trong quá trình giải quyết, bà Phạm Thị C rt một phần yêu cầu khởi kiện,
cụ thể chỉ yêu cầu cá nhân Trần Thị Q có trách nhiệm trả cho Phạm Thị C
số tiền gốc 10.000.000đ tiền lãi theo mức lãi suất 10%/năm tính từ thời điểm
vay cho đến nay.
C nộp cho Tòa án 01 giấy gốc giấy mượn tiền đề ngày 22/10/2020 (DL).
Bị đơn Trần ThQ trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn như sau:
Vào thời gian nào không rõ, Trần Thị Q vay của C số tiền
20.000.000đ, thỏa thuận lãi suất 3%/tháng, không thỏa thuận thời hạn trả tiền gốc;
Q một tờ giấy vay tiền ghi ngày 22/10/2020 do bà C in sẵn. Khoảng 01
năm sau kể từ thời điểm vay Q trả C số tiền gốc 10.000.000đ, thời
điểm trả, C không có ở nhà nên bà Q trả số tiền 10.000.000đ cho chồng C.
Hàng tháng Q vẫn trả lãi hàng tháng đầy đcho C. Sau đó C thay đổi
mức lãi suất 10%/tháng đối với số tiền gốc 10.000.00còn lại, mức lãi suất
quá cao, Q không đồng ý nên không tiếp tục trả tiền lãi cho C nữa. Đến giữa
năm 2023, bà Q tiếp tục trả số tiền 10.000.000đ tiền gốc còn lại,Q xin tiền lãi
nhưng C không đồng ý. Q xác định đã trả đủ cho C số tiền gốc
20.000.000đ nhưng C không đồng ý cho Q tiền lãi đối với số tiền gốc
10.000.000đ còn lại nên vẫn còn giữ lại tờ giấy vay tiền và không chấp nhận
bỏ giấy vay tiền.
Số tiền 10.000.000đ C yêu cầu khởi kiện là số tiền lãi của khoản tiền
gốc 10.000.000đ Q chưa trả cho Q. Do đó, Q chấp nhận đồng ý trả
số tiền này nhưng hàng tháng chỉ trả 500.000đ vì hiện nay không có khả năng trả
một lần.
Trần Thị Q không nộp tài liệu, chứng cứ gì cho Tòa án.
Những tình tiết mà các đương sự thống nhất với nhau: Không có.
Những tình tiết mà các đương sự chưa thống nhất với nhau:
- Nguyên đơn bà Phạm Thị C yêu cầu Trần Thị Q phải trả tiền gốc còn
nợ 10.000.000đ tiền lãi phát sinh theo mức lãi suất 10%/năm tính từ thời
điểm vay cho đến nay.
-Bị đơn Trần Thị Q xác định đã trả toàn bộ số tiền nợ gốc, số tiền bà C
yêu cầu khởi kiện là tiền lãi, không phải tiền nợ gốc còn lại.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tánh Linh phát biểu ý kiến như
sau:
- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán: Trong qtrình giải quyết vụ án
Thẩm phán đã tuân thủ các quy định về pháp luật tố tụng dân sự;
3
- Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký: Tại phiên tòa Hội
đồng xét xử, Thư đã thực hiện đng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về
phiên tòa sơ thẩm và đảm bảo đng nguyên tắc xét xử;
- Việc chấp hành pháp luật của đương sự trong vụ án: Từ khi thụ vụ án
cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đủ về quyền và nghĩa vụ
đương sự theo Bộ luật dân sự tố tụng dân sự.
- Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản
2 Điều 26, khoản 1 Điều 35 các Điều 146, 147, 157, 165, 203 của Bộ luật tố
tụng dân sự 2015; các Điều 463, 466, 468 Bộ luật dân sự năm 2015; Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016: Chấp nhận yêu cầu của bà Phạm Thị C:
Buộc Trần Thị Q trách nhiệm trả cho bà Phạm Thị C 10.000.000đ tiền
lãi theo quy định của pháp luật.
Về án phí: Bà Trần Thị Q phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa, các đương sự đều vắng mặt nhưng
đều đã đơn xin xét xử vắng mặt. Do đó Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1
Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.
[2] Về quan hệ pháp luật:
Theo đơn khởi kiện nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải trả tiền nợ vay. Bị đơn
xác định đã trả tiền vay cho nguyên đơn. Ngoài yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn, các đương sự không còn yêu cầu nào khác. Do đó, Hội đồng xét xử xác định
quan hệ tranh chấp trong vụ án là “Tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản” theo
quy định tại Điều 463 Bộ luật dân sự và khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự.
Bị đơn nơi tr tại khu phố L, thị trấn L, huyện T, tỉnh Bình Thuận.
Do đó vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tánh Linh
theo quy định tại khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn –Phạm Thị C:
[3.1]. Đối với yêu cầu về nghĩa vụ trả số tiền nợ gốc:
Theo đơn khởi kiện và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn xác định bị đơn
còn nợ lại của nguyên đơn số tiền vay gốc là 10.000.000đ. Bị đơn xác định đã tr
toàn bộ số tiền nợ gốc cho nguyên đơn, stiền mà nguyên đơn yêu cầu khởi kiện
chỉ là số tiền lãi trên số tiền nợ gốc mà bị đơn chưa trả cho nguyên đơn.
Hội đồng xét xử xét thấy: Căn cứ vào chứng cứ nguyên đơn cung cấp
là một giấy vay tiền ghi ngày 22/10/2020 có thể hiện nội dung Q vay của bà
C số tiền 20.000.000đ; C xác định quá trình vay mượn Q đã trả cho C
được 10.000.000đ và còn nợ lại số tiền 10.000.000đ; trên giấy vay tiền có chữ
của Q; Q xác nhận vay của C số tiền 20.000.000đ, trên giấy vay
4
tiền đã trả xong nợ cho C. Hiện tại, bản gốc “Giấy mượn tiền” C vẫn giữ,
mặt sau của mảnh giấy này ghi nội dung 25/12/2021 quý trả 10.000.000đ,
còn lại 10 triệu đồng”.
Q cho rằng đã trả đủ tiền gốc cho C hai lần: lần thứ nhất trả
10.000.000 đồng sau khi vay khoảng một năm (khoảng năm 2021) trả trực tiếp
cho chồng C lần thứ hai đến khoảng giữa năm 2023. Như vậy, đối với lần
trả nợ gốc thứ nhất 10.000.000 đồng thì C Q đều trình bày thống nhất với
nhau về số tiền và thời điểm, việc trả nợ này được ghi vào mặt sau giấy vay. Đối
với lần trả nợ gốc thứ hai, Q cho rằng trả trực tiếp cho C 10.000.000 đồng
(đủ số tiền nợ gốc còn lại) nhưng bà Q không yêu cầu bà C giao lại giấy vay hay
ghi xác nhận việc trả nợ. Hiện tại, bà Q ng không cung cấp cho Toà án chứng
cứ nào khác để chứng minh việc đã trả đầy đủ stiền nợ gốc cho C. Do đó,
không có căn cứ để xác định bà Q đã trả đủ tiền nợ gốc cho bà C nên yêu cầu của
C về việc buộc Q tiếp tục trả số nợ gốc còn lại 10.000.000 đồng là căn
cứ cần được chấp nhận. Theo đó, cần buộc Trần Thị Q phải trả cho Phạm
Thị C số tiền nợ gốc vay 10.000.000 đồng phù hợp với quy định tại khoản 1
Điều 466 Bộ luật dân sự.
[3.2]. Đối với yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền nợ gốc 10.000.000đ:
Theo lời khai của nguyên đơn, từ thời điểm vay ngày 22/10/2020, Q vay
của C số tiền 20.000.000đ; Q trả lãi hàng tháng đầy đủ hàng tháng cho bà C
đến tháng 12/2021. Ngày 21/12/2021, Q trả cho Q số tiền gốc 10.000.000đ.
Sau khi trả một nửa số tiền gốc, Q thỉnh thoảng trả vài lần tiền lãi vào năm
2022 với số tiền 2.200.000đ. Vì vậy, hiện nay bà C yêu cầu bà Q phải trả lãi cho
C từ thời điểm tháng 01/2021 cho đến nay theo mức lãi suất 10%/năm; C
chấp nhận khấu trừ số tiền lãi Q đã trả là 2.200.000 đồng vào số tiền lãi còn lại
bà Q phải trả.
Bị đơn Trần Thị Q trình bày: Sau khi trả cho C 10.000.000 đồng tiền
gốc thì bà C yêu cầu tăng mức lãi suất 10%/tháng nên bà Q đã không tiếp tục trả
lãi cho bà C đến giữa năm 2023 bà Q trả đủ số nợ gốc còn lại cho bà C nên bà
Q không chấp nhận yêu cầu về việc trả lãi của bà C.
Hội đồng xét xử xét thấy: Căn cứ vào “Giấy mượn tiền” nguyên đơn cung
cấp có ghi nội dung “Tiền lãi mỗi tháng trả một lần, tiền gốc sau ba tháng tôi trả
đủ, ngày mượn 22/10/2020 (DL)”. Như vậy, có căn cứ để xác định hợp đồng vay
được xác lập giữa C Q hợp đồng vay lãi. Bên vay (bà Q) đã thực
hiện việc trả lãi theo thoả thuận đến tháng 12/2021. Từ tháng 01/2022 đến nay thì
bà Q có thực hiện việc trả lãi nhưng trả không đầy đủ. Do đó Q đã vi phạm về
nghĩa vụ trả nợ gốc lãi đối với bên vay. Vì vậy, bà Q phải tiếp tục trả lãi là phù
hợp với quy định tại khoản 5 Điều 466 Bộ luật dân sự.
Về mức lãi suất: Trong quá trình tố tụng thì bà C chỉ yêu cầu bà Q phải trả
lãi theo mức lãi suất 10%/năm. Xét thấy: Mức lãi suất C yêu cầu phù hợp
với quy định của pháp luật và có lợi cho bị đơn nên cần được chấp nhận.
5
Về thời điểm tiếp tục tính lãi: Trong qtrình tố tụng, các bên đương sự
trình bày thống nhất về việc Q trả lãi đều đặn theo thoả thuận cho C đến
khoảng tháng 12/2021, thời gian sau đó Q vi phạm về nghĩa vụ trả lãi. Do đó,
cần buộc bà Q phải tiếp tục trả lãi cho bà C từ tháng 01/2022.
Theo đó, tiền lãi được tính như sau:
10.000.000đ x 10%/năm x 03 năm 03 tháng 22 ngày (tính đến ngày
22/4/2025) = 3.311.000đ.
Trừ đi số tiền lãi Q đã trả cho C trong năm 2022 là 2.200.000đ,
vậy số tiền lãi mà Q còn nợ trên số tiền gốc 10.000.000đ tính đến ngày
22/4/2025 là 1.111.000đ.
Như vậy, tổng cộng tiền gốc lãi là: 11.111.000đ (Mười một triệu, một
trăm mười một ngàn đồng). Cần buộc bà Trần Thị Q phải trả cho bà Phạm Thị C
số tiền nợ này là phù hợp với quy định tại Điều 466 B luật dân sự.
[4] Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn bà Phạm Thị C được chấp nhận
nên bị đơn bà Trần Thị Q phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại các
Điều 146, 147 Bộ luật tố tụng dân sự Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào:
- Khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, các
Điều 146, 147, Điều 203, khoản 1 Điều 228; Điều 235, Điều 273 Bộ luật tố tụng
dân sự 2015;
- Các Điều 463, 466, 468 Bộ luật dân sự 2015;
- Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/ 2016/UBTVQH14 về mức thu, min,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Phạm Thị C về việc
buộc bà Trần Thị Q phải trả số tiền nợ vay và tiền lãi phát sinh:
Buộc bà Trần Thị Q phải có trách nhiệm trả cho bà Phạm Thị C số tiền nợ
11.111.000 đồng (Mười một triệu, một trăm mười một ngàn đồng). Trong đó
tiền nợ gốc là 10.000.000đ, tiền lãi là 1.111.000đ.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hp quan
thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày đơn
yêu cầu thi hành án (đối với khoản tiền phải thanh toán cho người được thi hành
án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án (bà Q) n phải chịu khoản
tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357,
Điều 468 của B luật dân sự 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
6
2. Về án phí: Buộc bà Trần Thị Q phải nộp 555.550 đồng án phí dân sự sơ
thẩm, sung vào Ngân sách nhà nước.
3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa quyền
kháng cáo trong hạn 15 ngày kể tngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được
niêm yết tại nơi cư tr.
Trường hợp bản án hiệu lực được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân
sự quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành
án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 9 Luật Thi
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
TM. HỘI ĐỔNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- TAND tỉnh Bình Thuận;
- VKSND huyện Tánh Linh;
THÂM PHÁN CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- Chi cục THADS huyện Tánh Linh;
- Đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
Dương Thị Mận
Tải về
Bản án số 22/2025/DS-ST Bản án số 22/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 22/2025/DS-ST Bản án số 22/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất