Bản án số 212/2024/HC-PT ngày 22-03-2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về về khiếu kiện hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
  • 212-2024-HC-PT-TPHCM

    Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 212/2024/HC-PT

Tên Bản án: Bản án số 212/2024/HC-PT ngày 22-03-2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về về khiếu kiện hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai
Quan hệ pháp luật: QĐ hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai trong trường hợp giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, trưng dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư…
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại TP.HCM
Số hiệu: 212/2024/HC-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 22/03/2024
Lĩnh vực: Hành chính
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: giữ nguyên bản án sơ thẩm
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
—————————
Bản án số: 212/2024/HC-PT
Ngày: 22 - 3 - 2024
V/v “Khiếu kiện hành vi hành chính
trong lĩnh vực quản lý đất đai”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Phạm Thị Duyên
Các Thẩm phán: Bà Huỳnh Thanh Duyên
Ông Hà Huy Cầu
- Thư phiên tòa: Trần Thị Kim Yến Thư ký Tòa án nhân dân cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh
tham gia phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Phượng Kiểm sát viên.
Ngày 22 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành
phố Hồ Chí Minh mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính
thụ số: 850/2023/TLPT-HC ngày 16 tháng 11 năm 2023 về việc “Khiếu kiện
hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai”.
Do bản án hành chính thẩm số: 13/2023/HC-ST ngày 05 tháng 9 năm
2023 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 266/2024/QĐ-PT ngày
05 tháng 02 năm 2024 giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: Ông Phạm Văn T, sinh năm 1953 (có mặt);
Địa chỉ: Số I, tổ A, khóm C, phường C B, thành phố C, tỉnh An Giang.
- Người bị kiện: Ủy ban nhân dân thành phố C, tỉnh An Giang.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Lâm Quang T1 Chức vụ: Chủ tịch
Ủy ban nhân dân thành phố C.
Người đại diện theo y quyền: Ông Phạm Văn P Phó chủ tịch Ủy ban
nhân dân thành phố C (xin xét xử vắng mặt).
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Phan Thị Phương L, sinh
năm 1980 (xin xét xử vắng mặt)
(Hiện là Trưởng phòng Tư pháp thành phố C).
Địa chỉ: Số A đường L, phường C, thành phố C, tỉnh An Giang.
2
- Người kháng cáo: Người khởi kiện ông Phạm Văn T.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Diễn biến nội dung sự việc như sau:
Ông Phạm Văn T người đơn khởi kiện hành vi của Phan Thị
Phương L Trưởng ban tiếp công dân thành phố C chuyển đơn ông đề ngày
27/12/2018 về Ủy ban nhân dân phường C không đúng thẩm quyền. Đồng
thời ông yêu cầu y ban nhân dân phường C A thành phố Châu Đốc cấp phép
cho vợ chồng ông được sửa chữa nhà ở; ông yêu cầu được bồi thường, được cấp
nền nhà ở, được tiền hỗ trợ di dời đối với diện tích đất bị giải tỏa.
Ngày 22/01/2021 Tòa án nhân dân tỉnh An Giang ban hành Quyết định số
01/2021/QĐST-HC đình chỉ yêu cầu khởi kiện của ông Phạm Văn T.
Ngày 01/02/2021 ông T kháng cáo.
Tại Quyết định số 96/2022/QĐ-PT ngày 26 tháng 01 năm 2022 của
TAND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh hủy Quyết định đình chỉ giải quyết
vụ án hành chính thẩm số 01/2021/QĐST-HC ngày 22/01/2021 của Tòa án
nhân dân tỉnh An Giang. Chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh An
Giang tiếp tục giải quyết theo quy định pháp luật.
Sau khi thụ lý vụ án lại, Tòa án nhân dân tỉnh An Giang ra Thông báo thu
thập chứng cứ, yêu cầu ông Phạm Văn T cung cấp họ, tên, năm sinh, địa chỉ nơi
trú của những người quyền lợi liên quan được bồi thường tiền, được cấp
nền nhà, được hỗ trợ tiền tại khu vực cầu H, thuộc khóm E, phường C, thành
phố C, tỉnh An Giang (theo trình bày của ông). Cụ thể: Vợ chồng T2 Gái đã
nhận nền phường C và phường V. Ông T3 đã nhận nền phường C và phường V.
S đã nhận nền phường C phường V. Ông T4 đã nhận nền phường V
phường V. Ông B đã nhận nền phường V và phường V.
Tại văn bản ngày 29/11/2022 ông T trình bày: Vợ chồng ông có nhà cầu
H phía bờ sông thuộc phường C, ngang 5m dài 18m. Tổng diện tích 90m
2
đất bị
giải tỏa lần thư nhất không được cấp nền nhà ở, không được bồi thường tiền,
không được hỗ trợ tiền. Lần giải tỏa thứ hai (nền nhà của vợ chồng ông còn
nguyên hiện trạng cũ) không được cấp nền nhà ở, không được bồi thường tiền,
không được hỗ trợ tiền. Những hộ sống lân cận như hộ S, vợ chồng ông T2,
G, hộ ông T3, hộ ông B1 (ở dưới ghe như ông), hộ ông T4 (ở dưới ghe). Các
hộ nêu trên đều được chính quyền địa phương cấp nền nhà ở lần thứ nhất, sau đó
được cấp lần thứ hai nhưng hộ của gia đình ông hoàn cảnh giống như họ mà
không được cấp đất lần nào cả.
Ngoài ra ông T cho rằng làm đơn xin phép sửa chữa nhà các ngày
13/10/2018, ngày 29/11/2018 nhưng không được giải quyết. Ông còn cung cấp
Đơn xin thỉnh cầu được hưởng chính sách đãi ngộ người ng ngày
12/5/1995 được chính quyền địa phương xác nhận.
3
Kèm theo đơn kiện, ông T còn tố cáo nhiều người khác cán bộ phường
C, Ban tiếp công dân thành phố C, thẩm phán Tòa án nhân dân thành phố Châu
Đốc và thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh An Giang.
Tại biên bản làm việc ngày 15/02/2022 tại B, phường C, thành phố C tiến
hành lấy lời khai của các ông, Trần Ngọc B2 sinh năm 1966; ông Nguyễn
Văn H (Thủ), sinh năm 1955; bà Đinh Thị H1 (Gái), sinh năm 1960; ông
Nguyễn Văn T5; ông Văn T6, sinh năm 1955. Các hộ nầy xác định: Trước
kia ông T nhà bờ sông nhưng ông T đa tự dỡ đi từ lâu. Tại thời điểm kiểm
đếm lập danh sách bồi thường (năm 2015 2016) thì hộ ông T hoàn toàn không
có ghe, nhà nằm trong khu vực di dời, giải tỏa để mở rộng chợ vào năm 2017.
Biên bản làm việc ngày 26/5/2023 tại Phòng tư pháp thành phố Châu Đốc
Phan Thị Phương L trình bày: Vào khoảng cuối năm 2018 ông T đơn
khiếu nại gửi đến Ban tiếp công dân thành phố C. Tuy nhiên đơn của ông không
nêu vấn đề cụ thể nên Ban tiếp công dân thành phố C yêu cầu ông T
chuyển về phường C đlàm yêu cầu khiếu nại, sau đó ông T liên tiếp khiếu
nại nhiều nơi, vượt cấp nhưng nội dung lại không cụ thể yêu cầu vấn đề nào cả.
Ban tiếp công dân đã thông báo cho ông T biết việc chuyển đơn theo quy định.
Đối với việc ông T yêu cầu Ủy ban nhân dân thành phố C cấp phép cho gia đình
ông sửa chữa nhà không thuộc thẩm quyền của Ban tiếp công dân tại thời
điểm nhận đơn nên hướng dẫn ông về thực hiện các thủ tục tại phường C. Ông T
yêu cầu bồi thường tiền đối với diện tích đất bị thu hồi do ông không nêu cụ thể
về bồi thường vấn đề gì trong đơn nên Ban tiếp công dân yêu cầu ông trình bày
cụ thể để Ủy ban nhân dân phường C ghi nhận báo cáo cho y ban nhân dân
thành phố C làm rõ yêu cầu khiếu nại của ông T.
Người bị kiện Ủy ban nhân dân thành phố C đơn xin vắng các buổi
m việc đồng thời văn bản số 3035/UBND-NC ngày 18 tháng 7 năm 2023
trình bày như sau: Căn cứ vào Tờ trình 318/TTr-STNMT ngày 31/8/2015 của
Sở T8 về việc phê duyệt phương án bồi thường dự án đầu tư xây dựng Kè chống
sạt lở cấp bách kết hợp đê bao chống bờ sông thành phố C (đoạn từ C đến
đường S). Địa điểm phường C, thành phố C.
a. Về đất: Không bồi thường, hỗ trợ về đất do các hộ dân này cất nhà trên
đất thuộc hành lang an toàn sông, rạch.
b. Về nhà, vật kiến trúc: 200 hộ bị ảnh hưởng (trong đó 178 hdân bị
ảnh hưởng nhà ở vật kiến trúc; 21 hộ ở trên ghe, bè, nhà đùm trên sông và 01
hộ nhà thuê). được Ủy ban nhân dân tỉnh P1 phương án bồi thường dự
án đầu xây dựng chống sạt lở cấp bách kết hợp đê bao chống bờ sông
thành phố C (đoạn từ C đến đường S) theo Quyết định số 1820/QĐ-UBND ngày
07 tháng 9 năm 2015. Qua soát thì hông Phạm Văn T, sinh năm 1953,
trú: số I, tổ A, khóm C, phường C B, thành phố C, tỉnh An Giang, không tên
trong phương án bồi thường dự án đầu xây dựng hệ chống sạt lở cấp bách kết
hợp đê bao chống lũ bờ sông thành phố C (đoạn từ C đến đường S).
Người quyền lợi nghĩa vụ liên quan Phan Thị Phương L Văn
phòng tiếp công dân thành phố C tại văn bản trình bày ngày 10/7/2023 có ý kiến
4
như sau: Trong quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án nhân dân các cấp xác
định nội dung đơn của ông Phạm Văn T trình bày không ràng, cụ thể chủ yếu
mang tính chất khiếu nại Ủy ban nhân dân phường C không cho phép sửa chữa
nhà. Do vậy, để giúp ông T hạn chế việc đi lại nhiều lần và thực hiện ý kiến chỉ
đạo của Thường trực thành ủy nên Ban tiếp công dân đã chuyển đơn của ông T
đến Ủy ban nhân dân phường C để được xem xét giải quyết theo thẩm quyền,
vừa đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp cho ông T. Do bận công tác nên L
yêu cầu vắng mặt suốt quá trình tố tụng vụ án hành chính.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số: 13/2023/HC-ST ngày 05 tháng 9 năm
2023 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang đã quyết định như sau:
- Bác yêu cầu của ông Phạm Văn T về việc yêu cầu Ủy ban nhân dân
thành phố C cấp phép để ông sửa chữa căn nhà ở tổ B, khóm E, phường C.
- Bác yêu cầu của ông Phạm Văn T khởi kiện đòi bồi thường tiền, cấp nền
nhà ở, tiền hỗ trợ di dời tái định cư.
Ngoài ra, bản ánthẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo theo quy
định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 06/9/2023 người khởi kiện ông Phạm Văn T
có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, người khởi kiện ông Phạm Văn T vẫn giữ
nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét
hủy bản án thẩm, với các do: Bản án thẩm đã nhận định không đúng,
không xem xét đến các tài liệu chứng cứ người khởi kiện cung cấp; Người
khởi kiện đã đơn tố cáo hành vi trái pháp luật của cán bộ địa phương trong
việc thu hồi, bồi thường hỗ trợ khi thu hồi đất nhưng cấp sơ thẩm không xem xét
giải quyết; quá trình giải quyết vụ án tại cấp thẩm, người bị kiện người
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt gây ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp
pháp của người khởi kiện; Đề nghị Hội đồng xét xử chuyển hồ vụ án sang cơ
quan công an để xem t, điều tra hành vi của các cán bộ liên quan đến việc
thu hồi, bồi thường hỗ trợ khi thu hồi đất. Người bị kiện người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan xin xét xử vắng mặt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh nêu
quan điểm giải quyết vụ án:
Về tố tụng: Vụ án từ khi Tòa án cấp phúc thẩm thụ đến khi xét xử đã
thực hiện đầy đủ các quy định của Luật tố tụng hành chính.
Về nội dung: Tại phiên tòa phúc thẩm, ông T nêu 03 nội dung kháng cáo
gồm: Tố cáo cán bộ địa phương, hủy bản án thẩm yêu cầu Tòa án chuyển
hồ sơ sang cơ quan công an
Đối với yêu cầu về việc giải quyết đơn tố cáo của ông T là không thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Về vấn đề bồi thường thì việc thực hiện dự
án, phần đất ông T không bị ảnh hưởng nên không tên trong danh sách bồi
thường. Do đó, bản án sơ thẩm bác yêu cầu khởi kiện của ông T có căn cứ, đề
5
nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của người khởi kiện, giữ nguyên bản án
thẩm.
Sau khi nghiên cu các tài liu có trong h vụ án được thm tra ti
phiên tòa và căn c vào kết quả tranh tng ti phiên tòa, ý kiến phát biu của đại
diện Viện kim sát,
NHẬN ĐỊNH CA TÒA ÁN:
[1] Ti phiên tòa phúc thẩm, người b kin người quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan xin xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xử căn cứ Điều 225 Luật tố tụng
hành chính để tiến hành xét xử vụ án.
[2] Ông Phạm Văn T cho rằng: Vợ chồng ông nhà cầu H phía bờ
sông thuộc phường C, ngang 5m dài 18m. Tổng diện tích 90m
2
đất bị giải tỏa
lần t nhất không được cấp nền nhà ở, không được bồi thường tiền, không
được hỗ trợ tiền. Lần giải tỏa thứ hai (nền nhà của vợ chồng ông còn nguyên
hiện trạng cũ) không được cấp nền nhà ở, không được bồi thường tiền, không
được htrợ tiền. Những hộ sống lân cận như hộ S, vợ chồng ông T2, G,
hộ ông T6, hộ ông B2 (ở dưới ghe như ông), hộ ông T5 (ở dưới ghe), các hộ nêu
trên đều được chính quyền địa phương cấp nền nhà lần thứ nhất, sau đó được
cấp lần thứ hai, nhưng hộ của gia đình ông có hoàn cảnh giống như họ mà không
được cấp đất. Vào các ngày 13/10/2018, ngày 29/11/2018 ông T làm đơn xin
phép sửa chữa nhà nhưng không được giải quyết. Ông còn cung cấp Đơn xin
thỉnh cầu được hưởng chính sách đãi ngộ người công ngày 12/5/1995 được
chính quyền địa phương xác nhận. Do đó, ông T đơn khởi kiện yêu cầu Tòa
án giải quyết:
- Khởi kiện hành vi của bà Phan Thị Phương L Trưởng Ban tiếp công
dân thành phố C chuyển đơn ông đ ngày 27/12/2018 về Ủy ban nhân dân
phường C là không đúng thẩm quyền
- Yêu cầu Ủy ban nhân dân phường C, thành phố C cấp phép cho vợ
chồng ông được sửa chữa nhà ở;
- Yêu cầu được bồi thường tiền, được cấp nền nhà ở, được tiền hỗ trợ di
dời đối với diện tích đất bị giải tỏa
Ngoài ra, kèm theo đơn khởi kiện ông T còn tố cáo nhiều người khác
cán bộ phường C, Ban tiếp công dân thành phố C, thẩm phán Tòa án nhân dân
thành phố Châu Đốc và thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh An Giang.
[3] Bản án sơ thẩm nhận định:
[3.1] Ngày 31/10/2018, ông Phạm Văn T Nguyễn Thị G1
Đơn xin phép sửa chữa nhà ở gửi Ủy ban nhân dân phường C. Cụ thể là sửa căn
nhà tọa lạc trên phần đất giữa “bar đúc” số 371 – 373, đường T, khóm E,
phường C, thành phố C. Ngày 29/11/2018, Ủy ban nhân dân phường C tổ chức
cuộc họp với các đơn vị chuyên môn để giải quyết nội dung xin phép sửa chữa
nhà của ông Phạm Văn T. Tại cuộc họp, các đơn vị đã thống nhất không cho
phép ông T xin sửa chữa nhà. Ngày 27/12/2018, ông T gửi đơn tố cáo nội dung
6
vụ việc đến Ủy ban nhân dân thành phố C cơ quan đơn vị. Tuy nhiên, các nội
dung ông T đề cập trong đơn mang tính chất khiếu nại Ủy ban nhân dân phường
C không cho phép ông T sửa chữa nhà. Vì phần ông T xin sửa chữa là hẻm công
cộng mà ông chiếm dụng để cư trú. Năm 2010 ông T có yêu cầu được cấp quyền
sử dụng đất đối với phần đất nêu trên nhưng Ủy ban nhân dân thành phố C đã
bác yêu cầu. (Quyết định số 2995/QĐ-UBND ngày 27/7/2010 Quyết định số
78/QĐ-UBND ngày 05/11/2010 của Ủy ban nhân dân tỉnh A).
Ban tiếp công dân thành phố C ban hành Văn bản số 05/BTCD ngày
27/2/2019 chuyển đơn của ông T đến Ủy ban nhân dân phường C giải quyết theo
thẩm quyền.
Căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 26 Luật tiếp công dân năm 2013, Ban
tiếp công dân thành phố C chuyển đơn xin phép sửa chữa nhà của ông Phạm
Văn T đến Ủy ban nhân dân phường C xem xét giải quyết đúng trình tự thủ
tục pháp luật quy định. Mặt khác, việc chuyển đơn nhằm chỉ đạo, điều hành
không làm phát sinh đến quyền lợi ích hợp pháp của ông Phạm Văn T, đồng
thời không phải là hành vi hành chính, không là đối tượng bị khiếu kiện.
[3.2] Theo trình bày trong đơn khởi kiện thì căn nhà ông T xin sửa chữa
địa chỉ tổ B, khóm E, phường C tọa lạc trên phần đất giữa 2 “bar đúc” số 371
373, lối đi xuống chợ các hộ dân tự lấn chiếm. Tại phiên tòa thẩm, ông T
cho rằng được Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị C lúc bấy giờ ông Ba T7 cấp
cho ở từ khoảng 1985 đến 2019, sau đó ông cố lại cho đứa cháu nhưng không có
giấy tờ chứng minh đã bị thất lạc. Ngoài ra, ông T không cung cấp chứng
cứ nào khác chứng minh quyền sử dụng phần đất giữa 2 “bar đúc” số 371 373.
Do đó yêu cầu xin sửa chữa nhà tự lấn chiếm trên phần đất không có giấy tờ hợp
pháp nào chứng minh ông T quyền sử dụng đất nên không được chính quyền
địa phương xem xét giải quyết là phù hợp.
Tại phiên tòa thẩm, ông T xuất trình “Đơn xin thỉnh cầu xem xét được
hưởng chính sách đãi ngộ đã công lao với s nghiệp cách mạng” ngày
12/5/1995 chính quyền địa phương xác nhận nhưng không phải giấy tờ xác
lập quyền sử dụng đất làm sở để quan Nhà nước thẩm quyền xem xét
chấp thuận cho sửa chữa nhà theo quy định.
[3.3] Căn cứ Tờ trình số 318/TTr-STNMT ngày 31/8/2015 của Sở Tài
nguyên Môi trường tỉnh T8 về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ
và tái định cư Dự án: Kè chống sạt lở cấp bách kết hợp đê bao chống bờ sông
thành phố C (đoạn từ công viên 30 tháng 4 đến đường S). Địa điểm phường C,
thành phố C; Quyết định số 1820/QĐ-UBND ngày 07/9/2015 của Ủy ban nhân
dân tỉnh A quyết định về việc phê duyệt phương án bồi thường Dự án đầu tư xây
dựng chống sạt lở cấp bách kết hợp đê bao chống bờ sông thành phố C
(đoạn từ công viên 30 tháng 4 đến đường S); Quyết định số 1649/QĐ-UBND
ngày 16/6/2016 của Ủy ban nhân dân tỉnh A quyết định về việc phê duyệt bổ
sung chi phí bồi thường dự án đầu tư xây dựng Kè chống sạt lở cấp bách kết hợp
đê bao chống bờ sông thành phố C (đoạn từ công viên 30 tháng 4 đến đường
S), qua kiểm đếm các hộ trong danh sách bồi thường, hỗ trợ di dời và cấp nền tái
7
định thì hộ ông T không tên trong danh sách nhận tiền hỗ trợ do ông
không thuộc đối tượng đủ điều kiện được hỗ trợ, giải tỏa di dời và cấp nền tái
định cư. Do đó yêu cầu của ông đòi nhận tiền bồi thường, được cấp nền nhà ở,
được tiền hỗ trợ di dời đối với diện tích đất bị giải tỏa không được Ban quản
dự án và chính quyền địa phương xem xét là có căn cứ.
[3.4] Đối với yêu cầu tố cáo lãnh đạo, công chức phường C, Thẩm phán
Tòa án nhân dân thành phố Châu Đốc Thẩm phán Tòa án nhân dân tỉnh An
Giang không thuộc thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính.
Từ những phân tích trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã bác toàn bộ yêu cầu khởi
kiện của ông Phạm Văn T.
[4] Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định: Tòa án cấp thẩm đã đánh
giá đầy đủ tài liệu chứng cứ trong hồ vụ án, nhận định và bác yêu cầu khởi
kiện của người khởi kiện căn cứ. Tại phiên tòa phúc thẩm, ông T kháng
cáo đề nghị hủy bản án thẩm Thẩm phán cấp sơ thẩm ngụy tạo chứng cứ,
tố cáo hành vi của cán bộ tham nhũng cắt xén chế độ bồi thường của người
dân, đề nghị Tòa án chuyển hồ sơ cho quan điều tra đối với vụ án tham
nhũng. Xét, ông T không trình bày nêu các tài liệu, chứng cứ Tòa án cấp
thẩm đã có vi phạm tố tụng gây ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án, nên không
sở để chấp nhận yêu cầu hủy bản án thẩm. Đối với nội dung kháng cáo
liên quan đến việc tố cáo hành vi của các cán bộ địa phương đề nghị chuyển
hồ sơ cho cơ quan điều tra, để điều tra đối với vụ án tham nhũng thì không thuộc
phạm vi xét xử phúc thẩm theo quy định tại 203 Luật tố tụng hành chính (xét xử
lại bản án thẩm chưa hiệu lực pháp luật đối với nội dung kháng cáo,
kháng nghị), nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận quan điểm của
đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia
phiên a; Bác yêu cầu kháng cáo của người khởi kiện, giữ nguyên bản án
thẩm.
[6] Các phn quyết đnh khác ca bản án sơ thm không kháng cáo,
kháng ngh đã có hiệu lc k t ngày hết thi hn kháng cáo, kháng ngh.
[7] Án phí hành chính phúc thẩm: Ông Phạm Văn T, sinh năm 1953 nên được
miễn án phí theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các l trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Khoản 1 Điều 241 Lut t tng hành chính,
Bác yêu cu kháng cáo của người khi kin ông Phạm Văn T;
Gi nguyên bản án thẩm s 13/2023/HC-ST ngày 05/9/2023 ca Tòa
án nhân dân tnh An Giang;
8
Áp dụng Điều 123, Điều 128 Luật xvi phạm hành chính; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Bác yêu cầu của ông Phạm Văn T vviệc yêu cầu Ủy ban nhân dân
thành phố C cấp phép để ông sửa chữa căn nhà ở tổ B, khóm E, phường C;
Bác yêu cầu của ông Phạm Văn T khởi kiện đòi bồi thường tiền, cấp nền
nhà ở, tiền hỗ trợ di dời tái định cư.
2. Ông Phạm Văn T đưc miễn án phành chính sơ thm và án phí hành
chính phúc thm.
Bn án phúc thm có hiu lc pháp lut k t ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- Tòa án nhân dân ti cao;
- VKSND cp cao ti TP.HCM
- Tòa án nhân dân tnh An Giang;
- VKSND tnh An Giang;
- Cc THADS tnh An Giang;
- NKK (1);
- NBK (1);
- NLQ (1);
- Lưu (10) 18b (Án TTKY).
TM. HỘI ĐỒNG XÉT X PHÚC THM
THM PHÁN CH TA PHIÊN TÒA
Phm Th Duyên
Tải về
212-2024-HC-PT-TPHCM 212-2024-HC-PT-TPHCM

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất