Bản án số 208/2024/HC-PT ngày 22-03-2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về về khiếu kiện quyết định hành chính về quản lý đất đai, cưỡng chế thu hồi đất
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
208-2024-HC-PT-CAP-CAO-TPHCM
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 208/2024/HC-PT
| Tên Bản án: | Bản án số 208/2024/HC-PT ngày 22-03-2024 của TAND cấp cao tại TP.HCM về về khiếu kiện quyết định hành chính về quản lý đất đai, cưỡng chế thu hồi đất |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | QĐ hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai trong trường hợp giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, trưng dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư… |
| Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND cấp cao tại TP.HCM |
| Số hiệu: | 208/2024/HC-PT |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 22/03/2024 |
| Lĩnh vực: | Hành chính |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ án: | - Không chấp nhận kháng cáo của người khởi kiện ông Nguyễn Tất H và bà Nguyễn Thị X. Giữ nguyên bản án hành chính số |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Bản án số: 208/2024/HC-PT
Ngày 22 tháng 3 năm 2024
V/v: “Khiếu kiện quyết định hành
chính về quản lý đất đai, cưỡng chế
thu hồi đất”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT
NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà Trần Thị Thúy Hồng.
Các thẩm phán: Ông Lê Hoàng Tấn.
Ông Ngô Đức Thọ.
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Trung Kiên - Thư ký Tòa án nhân dân cấp
cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham
gia phiên tòa: Ông Trần Anh Dũng - Kiểm sát viên cao cấp.
Trong các ngày 18, 22 tháng 3 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại
Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính phúc thẩm
thụ lý số: 804/2023/TLPT-HC ngày 06 tháng 11 năm 2023 về việc: “Khiếu kiện
quyết định hành chính về quản lý đất đai, cưỡng chế thu hồi đất”,
Do Bản án hành chính sơ thẩm số: 48/2023/HC-ST ngày 13/9/2023 của Tòa án
nhân dân tỉnh Bình Dương bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 395/2024/QĐ-PT ngày 27
tháng 02 năm 2024, giữa các đương sự:
1. Người khởi kiện:
1.1. Ông Nguyễn Tất H, sinh năm 1960 (có mặt).
1.2. Bà Nguyễn Thị X, sinh năm 1960 (vắng mặt).
Cùng địa chỉ: Số A khu phố T, phường Đ, thành phố D, tỉnh Bình Dương.
Người đại diện theo ủy quyền của người khởi kiện: Ông Lê văn N, sinh năm
1978 (có mặt).
Địa chỉ: 2 B, Phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh (theo Giấy ủy quyền
ngày 13/6/2022).
2. Người bị kiện:
2.1. Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố D, tỉnh Bình Dương.
2
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Võ Trọng T – Phó Chủ tịch Ủy ban nhân
dân thành phố D (vắng mặt).
2.2. Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh B.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Mai Hùng D – Phó Chủ tịch thường trực Ủy
ban nhân dân tỉnh B (có đơn xin xét xử vắng mặt).
3. Người kháng cáo: Ông Nguyễn Tất H và bà Nguyễn Thị X – Là người khởi
kiện.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Theo đơn khởi kiện và các đơn khởi kiện sửa đổi, bổ sung của ông Nguyễn Tất
H, bà Nguyễn Thị X và lời khai của người đại diện theo ủy quyền của ông H và bà X
trình bày:
Ông H và bà X có quyền sử dụng đất các thửa đất số: 5, 6, 59, tờ bản đồ số 10
với tổng diện tích: 1.478m
2
, mục đích sử dụng đất: đất thổ cư: 250m
2
và 1.228m
2
đất LN tọa lạc tại xã Đ, huyện T (nay là phường Đ, thành phố D), tỉnh Bình Dương
theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 2271 QSDĐ/DH do Ủy ban nhân dân
huyện T cấp ngày 28/3/2000 cho vợ chồng ông H, bà X.
Căn cứ Quyết định số: 154/2001/QĐ-TTg của Thủ tưởng Chính phủ, ngày
13/11/2003 Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh B ra Quyết định số: 4653/QĐ-CT thu hồi
toàn bộ khu đất có diện tích: 283,852ha của các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình tại xã
Đ, xã B, huyện D, tỉnh Bình Dương, trong đó có các thửa đất nêu trên của vợ chồng
ông H để giao cho Đại học Quốc gia Thành phố H để tiến hành bồi thường, giải
phóng mặt bằng. Trong quá trình thực hiện việc giải tỏa đền bù và thu hồi đất đối với
các hộ dân có đất bị thu hồi nhưng cho đến thời điểm này ông H chưa nhận được
quyết định thu hồi đất theo quy định của pháp luật.
Mặt khác, trong quyết định của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh B thu hồi
283,852ha đất chứ không nói cụ thể là thu hồi đất của cá nhân, hộ gia đình nào và
diện tích bao nhiêu. Nhưng các cơ quan nhà nước tiến hành kiểm đếm, đo vẽ và áp
giá bồi thường và bắt ép vợ chồng ông H phải ký vào các biên bản làm việc và buộc
vợ chồng ông H phải bàn giao mặt bằng lại cho Ban giải phóng đền bù là trái với quy
định pháp luật về đất đai quy định về trình tự thu hồi đất. Vì vậy, vợ chồng ông H
không đồng ý bàn giao đất và nhận tiền đền bù, hỗ trợ. Đến ngày 12/4/2022, vợ chồng
ông H nhận được Quyết định số 984/QĐ-UBND ngày 11/3/2022 của Chủ tịch Ủy
ban nhân dân thành phố D về việc cưỡng chế thu hồi đất.
Nhận thấy, việc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở thành phố D chưa thực
hiện đúng các quy định pháp luật về việc thu hồi đất đối với người dân có đất bị thu
hồi mà đã dùng biện pháp quyền uy ép buộc vợ chồng ông H phải bàn giao nếu không
bàn giao thì tiến hành cưỡng chế. Đây là việc làm cố tình xâm phạm đến quyền và
lợi ích hợp pháp của vợ chồng ông H. Pháp luật quy định rất rõ chưa có quyết định
thu hồi đất và các bên chưa thống nhất về các chính sách bồi thường, hỗ trợ đối với
người có đất bị thu hồi thì không được quyền thu hồi đất. Nhưng Chủ tịch Ủy ban
nhân dân thành phố D vẫn tiến hành ban hành quyết định cưỡng chế thu hồi đất, đây
là việc làm vi phạm nghiêm trọng quy định pháp luật về đất đai. Do đó, ông H và bà
3
X khởi kiện yêu cầu hủy Quyết định số 984/QĐ-UBND ngày 11/3/2022 của Chủ tịch
Ủy ban nhân dân thành phố D về việc cưỡng chế thu hồi đất và hủy các Quyết định
hành chính có liên quan gồm: Quyết định số: 2459/QĐ-UBND ngày 24/7/2009 của
Chủ tịch Ủy ban nhân huyện D về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Nguyễn Tất
H ngụ tại số A ấp T, xã Đ, huyện D, tỉnh Bình Dương đối với Quyết định số:
1414/QĐ-UBND ngày 13/5/2009 của Chủ tịch Ủy ban nhân huyện D về việc kiểm
kê bắt buộc hiện trạng đất và tài sản trên đất đối với hộ ông Nguyễn Tất H để phục
vụ công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trong dự án
xây dựng Đại học Quốc gia Thành phố H; Quyết định số: 4170/QĐ-UBND ngày
30/6/2010 của Chủ tịch Ủy ban nhân huyện D về việc giải quyết đơn khiếu nại của
ông Nguyễn Tất H ngụ tại số A ấp T, xã Đ, huyện D, tỉnh Bình Dương đối với Quyết
định số: 5344/QĐ-UBND ngày 30/9/2009 của Chủ tịch Ủy ban nhân huyện D về
việc công bố giá trị bồi thường tài sản trên đất đối với hộ ông Nguyễn Tất H thuộc
dự án xây dựng Đại học Quốc gia Thành phố H; Quyết định số: 1308/QĐ-UBND
ngày 06/6/2014 của Chủ tịch Ủy ban nhân tỉnh B về việc giải quyết đơn khiếu nại
của ông Nguyễn Tất H khiếu nại Quyết định số: 2983/QĐ-UBND ngày 19/6/2013
của Chủ tịch Ủy ban nhân thị xã D về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Nguyễn
Tất H.
- Người bị kiện Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố D có ý kiến:
Ông Nguyễn Tất H đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 2271 do
Ủy ban nhân dân huyện T cấp ngày 28/3/2000 gồm có: 03 thửa đất (2 vị trí khác
nhau) thuộc tờ bản đồ số 10, cụ thể: Vị trí 1: thửa số 5, 6: diện tích 740m
2
(có 150m
2
thổ cư); vị trí 2: 01 phần thửa số 59: diện tích 916m
2
(có 150m
2
thổ cư). Năm 2001,
ông H chuyển nhượng cho ông Nguyễn Tuấn A, diện tích 178m
2
(50m
2
thổ cư) thuộc
01 phần thửa số 59. Diện tích ông H còn lại là: 1.478m
2
(có 250m
2
thổ cư).
Thực hiện Dự án Đại học Quốc gia Thành phố H, gia đình ông Nguyễn Tất H
bị giải tỏa trắng đối với toàn bộ phần đất diện tích 1.478m
2
đất nêu trên. Việc kiểm
kê, áp giá bồi thường đất, tài sản trên đất và các chính sách hỗ trợ bồi thường cho
ông H, cụ thể: Bồi thường về đất: 321.700.000 đồng; về tài sản trên đất:
1.473.876.095 đồng; chính sách hỗ trợ: 7.000.000 đồng. Tổng số tiền bồi thường là:
1.802.576.095 đồng và chính sách tái định cư: được cấp 01 nền, diện tích 150m
2
.
Ngoài ra, ông H được Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư Dự án xây dựng
Đại học Quốc gia Thành phố H giải quyết cấp thêm 01 suất đất tái định cư theo diện
gia đình đông nhân khẩu, diện tích 100m
2
(thuộc diện gia đình đông nhân khẩu), bố
trí tại Khu tái định cư Đ Thành phố Hồ Chí Minh,
Ngày 28/4/2009, Hội đồng tiến hành kiểm kê hiện trạng đất và tài sản trên đất
của ông Nguyễn Tất H (theo Thông báo số 161/TB-HĐ ngày 20/4/2009 của Hội
đồng). Tuy nhiên, ông H không đồng ý cho tổ chuyên viên kiểm kê đo đạc. Ngày
13/5/2009, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện D ban hành Quyết định số: 1414/QĐ-
UBND về việc kiểm kê bắt buộc hiện trạng đất và tài sản trên đất đối với hộ ông
Nguyễn Tất H. Ngày 21/5/2009, Tổ kiểm kê bắt buộc tiến hành kiểm kê bắt buộc
hiện trạng đất và tài sản trên đất đối với hộ ông Nguyễn Tất H. Tại buổi kiểm kê ông
Nguyễn Tất H vắng mặt, Tổ kiểm kê chỉ ghi nhận hiện trạng, khối lượng tài sản trên
đất, không thu thập được các giấy tờ liên quan (như GCNQSDĐ, Sổ hộ khẩu…) để
phục vụ áp giá bồi thường.
4
Ông Nguyễn Tất H khiếu nại cho rằng Quyết định số: 1414/QĐ-UBND của
Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện về việc kiểm kê bắt buộc hiện trạng đất và tài sản
trên đất đối với hộ ông Nguyễn Tất H có hành vi ép buộc người dân trái pháp luật là
không có cơ sở, vì quá trình triển khai quy hoạch được thực hiện đúng trình tự, thủ
tục theo quy định. Cụ thể là các cơ quan, tổ chức có liên quan đến dự án quy hoạch
này đã tổ chức công khai các văn bản liên quan đến chủ trương quy hoạch, chính
sách bồi thường, giải tỏa dưới nhiều hình thức: bằng pano, niêm yết, họp dân để triển
khai, sao gửi các văn bản về đơn giá bồi thường, hỗ trợ. Đồng thời, trước khi áp dụng
biện pháp kiểm kê bắt buộc, các ngành, Đoàn thể, huyện, xã, Hội đồng đã vận động,
thuyết phục nhiều lần, sau đó thông báo kiểm kê tự nguyện nhưng hộ ông H vẫn
không hợp tác nên công tác kiểm kê vẫn chưa thực hiện được. Chính vì vậy, Ủy ban
nhân dân huyện đã tổ chức kiểm kê bắt buộc đối với hộ ông H. Mặt khác, tính đến
thời điểm áp dụng biện pháp kiểm kê bắt buộc đối với ông H thì công tác kiểm kê đã
thực hiện được 96,5% số hộ (720/746 hộ) có đất nằm trong dự án quy hoạch. Điều
này chứng tỏ rằng dự án quy hoạch được sự đồng tình cao của đa số người sử dụng
đất nằm trong dự án.
Từ những cơ sở trên, căn cứ ý kiến kết luận của Hội đồng tư vấn giải quyết đơn
khiếu nại - tranh chấp tại cuộc họp ngày 06/7/2009, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện
D (nay là thành phố) đã ban hành Quyết định số: 2459/QĐ-UBND ngày 24/7/2009
giải quyết bác đơn khiếu nại của ông Nguyễn Tất H đối với Quyết định số: 1414/QĐ-
UBND ngày 13/5/2009 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện D về việc kiểm kê bắt
buộc hiện trạng đất và tài sản trên đất đối với hộ ông Nguyễn Tất H để phục vụ công
tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trong dự án xây dựng
Đại học Quốc gia Thành phố H là đúng quy định pháp luật.
Ngày 30/9/2009, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện D ban hành Quyết định số:
5344/QĐ-UBND về việc công bố tiền bồi thường tài sản trên đất đối với ông Nguyễn
Tất H với tổng số tiền bồi thường, hỗ trợ: 412.830.950 đồng (theo biên bản áp giá số
101BS/TL ngày 29/6/2009, gồm: Bồi thường công trình vật kiến trúc: 406.780.950
đồng; bồi thường cây trái hoa màu: 5.050.000 đồng; chính sách hỗ trợ: 1.000.000
đồng). Sau khi nhận Quyết định công bố tiền bồi thường nêu trên, ông H yêu cầu
kiểm kê lại toàn bộ tài sản trên 02 khu đất thuộc thửa 59, thửa số 5, 6, tờ bản đồ số
10, thuộc GCNQSDĐ số 2271 cấp ngày 28/3/2000.
Ngày 25/12/2009, ông Nguyễn Tất H có đơn khiếu nại Quyết định số: 5344/QĐ-
UBND ngày 30/9/2009 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện V việc công bố giá trị
bồi thường tài sản trên đất của hộ gia đình ông Nguyễn Tất H, qua đó ông yêu
cầu: Bồi thường giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm thu hồi theo giá chuyển
nhượng thực tế; đất nông nghiệp xen kẽ trong khu dân cư liền kề với đất ở thì phải
bồi thường và đề nghị hỗ trợ thêm bằng 70% giá đất ở; hỗ trợ ổn định đời sống sản
xuất, việc làm (theo Thông tư số 14/2009/TT-BTNMT ngày 01/10/2009 của Bộ T2,
Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ); Yêu cầu bố trí tái
định cư trước khi tiến hành bàn giao mặt bằng vì gia đình không còn chỗ ở nào khác.
Đất đang tranh chấp diện tích 392m
2
với bà Nguyễn Thị M (ông đã gửi đơn khiếu
nại đến Văn phòng C nhưng chưa có văn bản trả lời) có tài sản trên đất của gia đình
ông, trước khi có quyết định thu hồi phải giải quyết dứt điểm vụ tranh chấp này. Đề
nghị kiểm kê lại toàn bộ tài sản trên phần đất diện tích 658m
2
không tranh chấp do
5
bà Nguyễn Thị X (vợ) đứng tên và kiểm kê lại tài sản trên 02 khu đất thuộc thửa 59,
thửa 5, 6, tờ bản đồ số 10 GCNQSDĐ số 2271 ngày 28/3/2000. Tài sản gắn liền với
đất: tài sản trên đất không được áp giá 100% là chưa hợp lý. Yêu cầu được áp giá
100% (theo khoản 1 Điều 24 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của
Chính phủ).
Qua thẩm tra hồ sơ áp giá bồi thường của Ban Bồi thường giải toả tại báo cáo
số 12/BC.BT-GT ngày 31/5/2010, thể hiện: Dự án xây dựng Đại học Quốc gia Thành
phố H thực hiện bồi thường giải phóng mặt bằng trên cơ sở Quyết định số 1969/QĐ-
CT ngày 02/6/2003 của Ủy ban nhân dân tỉnh B về việc ban hành bảng quy định đơn
giá bồi thường, hỗ trợ về đất và tài sản trên đất để giải phóng mặt bằng thi công đối
với công trình xây dựng Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh đoạn đi qua xã
B, huyện D, tỉnh Bình Dương; Quyết định số 6329/QĐ-CT ngày 12/8/2004 của Ủy
ban nhân dân tỉnh B về việc điều chỉnh, bổ sung chính sách bồi thường đối với công
trình Đại học Quốc gia Thành phố H trên địa bàn tỉnh Bình Dương; Quyết định số
9020/QĐ-CT ngày 08/12/2004 của Ủy ban nhân dân tỉnh B về việc điều chỉnh bản
quy định đơn giá bồi thường và chính sách tái định cư đối với công trình Đại học
Quốc gia Thành phố H trên địa bàn tỉnh Bình Dương quy định giá bồi thường như
sau: “Giá bồi thường đất thổ cư: Đất tiếp giáp hành lang đường bộ vào sâu 50m các
đường liên xã (vị trí 1) giá 550.000 đồng/m
2
; các vị trí còn lại giá 400.000 đồng/m
2
;
Giá bồi thường đất nông nghiệp: Đất tiếp giáp hành lang giải tỏa trắng (tính từ mép
đường nhựa vào 7m) vào sâu 50m: 220.000 đồng/m
2
; Các vị trí còn lại 150.000
đồng/m
2
;Các đường còn lại: đất ven hành lang giải tỏa trắng (tính từ mép đường
vào sâu bằng một thân đường) không phân biệt vị trí: 150.000 đồng/m
2
”. Về hỗ trợ
ổn định đời sống, việc làm: Phần D Quyết định số 1969/QĐ-CT ngày 02/6/2003 của
Ủy ban nhân dân tỉnh B chỉ quy định về hỗ trợ ổn định đời sống là 1.000.000
đồng/hộ.
Từ những quy định trên, nhận thấy: Việc ông H yêu cầu bồi thường giá đất theo
giá chuyển nhượng thực tế (12tr/m
2
– 13tr/m
2
); bồi thường đất nông nghiệp xen kẽ
khu dân cư bằng 70% giá đất ở theo quy định tại Điều 21 Nghị định số 69/2009/NĐ-
CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ là không có cơ sở giải quyết. Vì tại khoản 4 Điều
39 của Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 quy định “đối với những dự
án, hạng mục đã phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư hoặc đang
thực hiện chi trả bồi thường, hỗ trợ và tái định cư theo phương án đã được phê duyệt
trước khi Nghị định này có hiệu lực thi hành thì thực hiện theo phương án đã phê
duyệt, không áp dụng hoặc điều chỉnh theo quy định Nghị định này”.
Việc ông H yêu cầu bố trí tái định cư trước khi tiến hành giao mặt bằng: Khu
tái định cư Đại học Quốc gia Thành phố H được Ủy ban nhân dân tỉnh P quy hoạch
chi tiết tại Quyết định số 6286/QĐ-UBND ngày 09/12/2005 tọa lạc tại ấp C, xã B.
Hiện nay, Ủy ban nhân dân huyện Đ tập trung cho công tác bồi thường, giải phóng
mặt bằng, song song triển khai đầu tư cơ sở hạ tầng khu tái định cư theo quy định.
Trong trường hợp phải di dời, bàn giao mặt bằng để thi công các hạng mục công
trình theo quy hoạch được duyệt trước khi nhận nền tái định cư, hộ dân sẽ được giải
quyết chính sách tạm cư, mức hỗ trợ chi phí thuê nhà là 3.000.000 đồng/tháng (Công
văn số 698/UBND-SX ngày 18/3/2009 và Công văn số 1178/UBND-KTN ngày
04/5/2010 của Ủy ban nhân dân tỉnh B).
6
Về hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp: Phần D, Quyết định số 1969/QĐ-CT ngày
02/6/2003 của Ủy ban nhân dân tỉnh B chỉ quy định về trợ cấp chi phí đào tạo đối
với những hộ làm nông nghiệp tại khu đất bị giải tỏa. Trường hợp của ông Nguyễn
Tất H không đủ điều kiện để được hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp.
Việc ông H yêu cầu tài sản trên đất được áp giá 100%: Căn cứ mục 2.I.B Quyết
định số 1969/QĐ-CT ngày 02/6/2003 Ủy ban nhân dân tỉnh B quy định: “Nhà xây
dựng không có giấy phép của cấp có thẩm quyền nhưng không vi phạm HLBV công
trình, không lấn chiếm, không tranh chấp, được cơ quan có thẩm quyền xác nhận thì
được đền bù 95% giá trị sử dụng còn lại của nhà theo đơn giá quy định”. Do đó, nhà
ở của ông Nguyễn Tất H áp giá bồi thường tỷ lệ 95% là đúng quy định.
Phần đất tranh chấp diện tích 392m
2
với bà Nguyễn Thị M: vụ việc đã có Quyết
định số 1389/QĐ-UBND ngày 03/4/2006 của Ủy ban nhân dân tỉnh B giải quyết
tranh chấp với nội dung bác đơn ông Nguyễn Tất H và công nhận quyền sử dụng đất
cho bà Nguyễn Thị M. Tuy nhiên, ông H tiếp tục khiếu nại, Ủy ban nhân dân tỉnh G
cho Thanh tra tỉnh xem xét lại vụ việc trên. Khi quyết định có hiệu lực thi hành, Ủy
ban nhân dân huyện sẽ tiến hành áp giá bồi thường theo quy định.
Đề nghị kiểm kê lại toàn bộ tài sản trên phần đất 658m
2
không tranh chấp do bà
Nguyễn Thị X (vợ) đứng tên và kiểm kê lại tài sản trên 02 khu đất thuộc thửa 59,
thửa 5, 6 tờ bản đồ số 10 tại GCNQSDĐ số 2271 ngày 28/3/2000: nội dung yêu cầu
này đã được giải quyết.
Do đó ngày 30/6/2010, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện D ban hành Quyết định
số: 4170/QĐ-UBND giải quyết bác đơn khiếu nại của ông Nguyễn Tất H đối với
Quyết định số: 5344/QĐ-UBND ngày 30/9/2009 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân
huyện V việc công bố giá trị bồi thường tài sản trên đất đối với hộ ông Nguyễn Tất
H là đúng quy định pháp luật.
Ngày 27/5/2010, Hội đồng bồi thường, giải phóng mặt bằng tiến hành kiểm kê
bổ sung tài sản trên đất cho hộ ông Nguyễn Tất H. Trên cơ sở Biên bản kiểm kê bổ
sung tài sản trên đất nêu trên và căn cứ Quyết định số: 332/QĐ-UBND ngày
26/01/2011 của Ủy ban nhân dân tỉnh B, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã D ban hành
02 Quyết định công bố bổ sung tiền bồi thường cho hộ ông Nguyễn Tất H, cụ thể:
Quyết định số: 10529/QĐ-UBND ngày 29/12/2011 về việc công bố tiền bồi thường
bổ sung tài sản gắn liền với đất đối với ông Nguyễn Tất H là: 943.560.965 đồng, theo
Biên bản áp giá bổ sung số 101BSTL/AG-(BS332) ngày 10/5/2011 và Quyết định
số: 311/QĐ-UBND ngày 12/01/2012 về việc công bố tiền bồi thường bổ sung tài sản
gắn liền với đất đối với ông Nguyễn Tất H là: 117.484.180 đồng, theo Biên bản áp
giá bổ sung số 101BSTL/AG-(BS332) ngày 27/12/2011. Đến ngày 14/12/2012, Chủ
tịch Ủy ban nhân dân thị xã D ban hành Quyết định số: 7993/QĐ-UBND công bố
tiền bồi thường về đất là: 321.700.000 đồng và cấp 01 suất đất tái định cư diện tích
150m
2
(do bị thu hồi đất thổ cư) đối với hộ ông Nguyễn Tất H, theo Biên bản áp giá
số 101BSTL/AGBS ngày 20/8/2012.
Ngày 16/7/2013, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã D ban hành Quyết định số
3547/QĐ-UBND về việc công bố bổ sung chính sách hỗ trợ ổn định đời sống đối với
ông Nguyễn Tất H là: 7.000.000 đồng, theo Biên bản áp giá bổ sung số
101BSTL/AGBS ngày 15/01/2013; Ngày 15/8/2013, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị
7
xã D ban hành Quyết định số 4225/QĐ-UBND về việc công bố bổ sung 01 suất tái
định cư diện tích 100m
2
cho ông Nguyễn Tất H do thuộc diện gia đình đông nhân
khẩu bằng hình thức nhận tiền thay đất (do không đủ đất tái định cư để bố trí) là:
300.000.000 đồng, theo Biên bản áp giá bổ sung số 101BSTL/AGBS ngày
05/7/2013. Ngày 20/10/2014, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã D ban hành Quyết
định số 5980/QĐ-UBND về việc công bố chính sách tái định cư đối với ông Nguyễn
Tất H từ cấp tái định cư bằng tiền sang cấp đất tái định cư 100m
2
. Nhưng ông Nguyễn
Tất H chưa nhận tiền bồi thường, chưa bàn giao mặt bằng và chưa đồng ý bốc thăm
nhận nền đất tái định cư tại Khu tái định cư Đ Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày 19/3/2019, Ủy ban nhân dân thị xã D ban hành Thông báo số 93/TB-
UBND về việc yêu cầu nhận tiền bồi thường và bàn giao mặt bằng đối với phần đất
thuộc thửa đất số 5, 6 tờ bản đồ số 10, diện tích 740m
2
. Ngày 19/02/2020, Trung tâm
phát triển quỹ đất chủ trì họp các hộ dân tại Ban điều hành khu phố T về việc vận
động các hộ dân bàn giao mặt bằng theo Thư mời số 134/TM.TTPTQĐ ngày
28/5/2020 của Trung tâm phát triển quỹ đất (ông H không đồng ý nhận thư mời); tại
buổi vận động ông H vắng mặt không có lý do.
Ngày 19/6/2020, Ủy ban nhân dân phường Đ có Báo cáo số 92/BC-UBND về
kết quả vận động các hộ dân thuộc dự án đường M (đường số F đoạn B) và công
trình S. Trong đó hộ ông H vắng mặt không có lý do. Ngày 28/7/2020, Trung tâm
phát triển quỹ đất phát hành Công văn số 290/TTPTQĐ về việc đề nghị cưỡng chế
thu hồi đất thuộc công trình xây dựng Đại học Quốc gia Thành phố H đối với ông
Nguyễn Tất H. Ngày 16/11/2021, Phòng T3 phát hành Tờ trình số 429/TT-PTNMT
về việc cưỡng chế thu hồi đất thuộc Công trình xây dựng Đại học Quốc gia Thành
phố H đối với ông Nguyễn Tất H.
Đến ngày 11/3/2022, Chủ tịch Ủy ban thành phố D ban hành Quyết định số:
984/QĐ-UBND về việc cưỡng chế thu hồi đất thuộc công trình xây dựng Đại học
Quốc gia Thành phố H đối với ông Nguyễn Tất H theo quy định của pháp luật.
Ông H khởi kiện cho rằng chưa có quyết định thu hồi đất đối với từng cá nhân
có đất bị thu hồi, việc áp giá đền bù quá thấp so với giá thị trường tại nơi có đất bị
thu hồi và chính sách theo quy định của pháp luật đã được Ủy ban nhân dân thành
phố D giải quyết tại các Quyết định 2983/QĐ-UBND ngày 19/6/2013 và Quyết định
số 4174/QĐ-UBND ngày 01/10/2018; Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh B giải quyết
tại Quyết định số 1308/QĐ-UBND ngày 06/6/2014.
Ngoài ra, tại Báo cáo số 275/BC-TTCP ngày 25/02/2016 của Thanh tra Chính
phủ về báo cáo kết luận kết quả thẩm tra, xác minh khiếu nại của bà Nguyễn Thị D1
và một số công dân liên quan đến việc bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
thực hiện dự án xây dựng Đại học Quốc gia Thành phố H trong đó có nội dung Tranh
tra Chính phủ thống nhất với Ủy ban nhân dân tỉnh B về việc giải quyết khiếu nại
không ban hành quyết định thu hồi đất như sau: “Căn cứ Điều 23 Luật Đất đai năm
1993 được sửa đổi, bổ sung năm 2001 quy định UBND tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương quyết định giao đất, cho thuê đất để sử dụng vào mục đích không phải là
sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, làm muối cho các đối tượng: Tổ chức sử dụng
đất, hộ gia đình, cá nhân tại nội thành, nội thị xã. Do đó, việc thu hồi 283,852
ha/2.522 thửa đất thuộc 04 tờ bản đồ địa chính chính quy xã Đ và xã B là đúng quy
8
định, các hộ dân khiếu nại UBND huyện (nay là thị xã) Dĩ An không ban hành quyết
định thu hồi đất riêng cho từng hộ gia đình, cá nhân là không có cơ sở”.
Về lý do pháp luật quy định rất rõ chưa có quyết định thu hồi đất và các bên
chưa thống nhất về chính sách bồi thường, hỗ trợ đối với người có đất bị thu hồi thì
không được quyền thu hồi đất: Tại khoản 6 Điều 17 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP
ngày 15/5/2015 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất
đai năm 2013 có nêu “Người có đất thu hồi, tổ chức, cá nhân có liên quan có quyền
khiếu nại về việc thu hồi đất theo quy định của pháp luật về khiếu nại. Trong khi
chưa có quyết định giải quyết khiếu nại thì vẫn phải tiếp tục thực hiện quyết định thu
hồi đất, quyết định cưỡng chế thu hồi đất. Trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại có kết luận việc thu hồi đất là trái pháp luật thì phải dừng
cưỡng chế nếu việc cưỡng chế chưa hoàn thành; hủy bỏ quyết định thu hồi đất đã
ban hành và bồi thường thiệt hại do quyết định thu hồi đất gây ra”.
Đến thời điểm hiện tại, các quyết định giải quyết khiếu nại, kiến nghị đối với
ông Nguyễn Tất H liên quan đến việc thu hồi đất vẫn còn giá trị pháp lý, chưa có
quyết định hay văn bản nào kết luận việc thu hồi đất đối với ông H là trái pháp luật.
Ngoài ra, tại khoản 2 Điều 11 Thông tư số 30/2014/TT-BTNMT ngày 02/6/2014 của
Bộ T2 quy định về hồ sơ giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, thu
hồi đất: “Điều 11. Hồ sơ trình ban hành quyết định thu hồi đất, quyết định cưỡng chế
thu hồi đất: …2. Hồ sơ trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện ban hành quyết
định cưỡng chế thu hồi đất do Phòng T3 lập gồm:a) Quyết định thu hồi đất;b) Văn
bản đề nghị cưỡng chế thu hồi đất của Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng
mặt bằng;c) Báo cáo của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất thu hồi về quá trình
vận động, thuyết phục người có đất thu hồi theo quy định nhưng không chấp hành
việc bàn giao đất cho Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải phóng mặt bằng;d) Tờ
trình kèm theo dự thảo quyết định cưỡng chế thu hồi đất theo Mẫu số 11 ban hành
kèm theo Thông tư này”.
Từ những cơ sở và quan điểm nêu trên, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố D
đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương bác đơn khởi kiện của ông Nguyễn Tất H.
- Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh B có ý kiến: Dự án xây dựng Đại học Quốc gia
Thành phố H được Thủ tướng Chính phủ quyết định chọn địa điểm xây dựng năm
1995, phê duyệt quy hoạch chung năm 1997. Quá trình thực hiện chia làm các giai
đoạn trong đó công trình xây dựng Đ thực hiện từ năm 1997 đến năm 1999; riêng C
thực hiện từ năm 2001 đến nay theo phê duyệt điều chỉnh quy hoạch chung ngày
17/6/2001 và phê duyệt quy hoạch chi tiết ngày 17/6/2003 của Thủ tướng Chính phủ.
Năm 2003, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh B ban hành Quyết định số: 1969/QĐ-
CT ngày 03/6/2003 về việc ban hành quy định đơn giá bồi thường thiệt hại về đất và
tài sản trên đất đối với công trình xây dựng Dự án Đại học Quốc gia Thành phố Hồ
Chí Minh trên địa bàn xã Đ và xã B, huyện D, tỉnh Bình Dương; Quyết định số:
4653/QĐ-CT ngày 13/11/2003 về việc thu hồi đất của các tổ chức, hộ gia đình cá
nhân tại xã Đ, xã B, huyện D giao cho Đại học Quốc gia để tiến hành bồi thường giải
phóng mặt bằng theo quy hoạch chi tiết.
Quá trình triển khai dự án, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh B đã ban hành các
văn bản điều chỉnh, bổ sung chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư như: Quyết
9
định số 6329/QĐ-CT ngày 12/8/2004; Quyết định số 9020/QĐ-CT ngày 08/12/2004,
QĐ số 332/QĐ-CT ngày 26/01/2011, Công văn số 3442/UBND-KTN ngày
16/11/2011.
Tại biên bản làm việc ngày 07/8/2013 của Thanh tra tỉnh Bình Dương, ông
Nguyễn Tất H trình bày khiếu nại việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
thuộc dự án xây dựng Dự án Đại học Quốc gia Thành phố H liên quan 02 phần đất
gồm: Diện tích 1.478m
2
(250m
2
thổ cư và 1.228m
2
đất nông nghiệp) gồm các thửa
đất 5, 6, 59 tờ bản đồ số 10, nằm trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 2271
được Ủy ban nhân dân huyện D cấp ngày 28/3/2000 cho ông H; diện tích 1.050m
2
do bà Nguyễn Thị X kê khai đóng thuế từ năm 1993 đến năm 2005.
Năm 2003 gia đình ông H có phát sinh tranh chấp đất với bà Nguyễn Thị M
(người sử dụng đất giáp ranh) với diện tích 329m
2
. Theo biên bản làm việc ngày
23/8/2013 của Thanh tra tỉnh Bình Dương với đại diện Ủy ban nhân dân thị xã D, Ủy
ban nhân dân phường Đ và Trung tâm quản lý và phát triển khu đô thị Đại học Quốc
gia Thành phố H và sổ mục kê năm 1995 xã Đ thể hiện phần đất mà ông H yêu cầu
được bồi thường diện tích 1.050m
2
có nguồn gốc, quá trình sử dụng kê khai và thực
hiện nghĩa vụ thuế, giải quyết tranh chấp như sau: Phần đất diện tích 1.050m
2
nằm
trong khu đất có tổng diện tích hơn 3.000m
2
(gồm các thửa 1, 2, 3, 4, 5, 6 tờ bản đồ
số 10, bản đồ chính quy xã Đ năm 1995). Trước năm 1987 là đất rừng hoang không
ai sử dụng, sau đó có 03 gia đình sử dụng phần đất trên, cụ thể: Gia đình bà Nguyễn
Thị M sử dụng, đăng ký chính quy thửa 1, 2 với tổng diện tích 1.800m
2
. Hội đồng
bồi thường đã bồi thường đất cho bà M; Gia đình ông H và bà X sử dụng, đăng ký
chính quy thửa 5, 6 với tổng diện tích 740m
2
, phần đất này đã áp giá bồi thường cho
ông H; Gia đình ông Đào Ngọc T1 sử dụng, đăng ký chính quy thửa đất số 3 với tổng
diện tích 785m
2
.
Về thực hiện nghĩa vụ thuế: Gia đình ông H kê khai nộp thuế năm 1992 đến
năm 1996 với diện tích 1.050m
2
, nhưng từ năm 1997 chỉ kê khai nộp thuế 800m
2
;
gia đình bà M kê khai nộp thuế từ năm 1993 đến năm 1996 diện tích 1.500m
2
nhưng
đến năm 1997 kê khai nộp thuế 1.800m
2
. Tại phần ranh giới đất sử dụng của gia
đình bà M và gia đình ông H phát sinh tranh chấp vào năm 2003 khi ông H xây hàng
rào với diện tích đất tranh chấp là 392m
2
thuộc một phần thửa đất số 2, tờ bản đồ số
10. Việc tranh chấp đất được giải quyết tại Quyết định số 459/QĐ-CT ngày
18/3/2004 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện D và Quyết định số 1389/QĐ-UBND
ngày 03/4/2006 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh B với nội dung công nhận phần
đất 329m
2
thuộc quyền sử dụng đất của gia đình bà Nguyễn Thị M, yêu cầu ông H
phá dỡ hàng rào lấn chiếm đất.
Quá trình thực hiện bồi thường, hỗ trợ để thu hồi đất thực hiện Dự án thì hộ ông
H không hợp tác cho kiểm kê đất và tài sản trên đất, đến ngày 20/4/2004, Hội đồng
bồi thường có Thông báo số 161/TB-UBND về việc kiểm kê, lập hồ sơ bồi thường
đối với hộ ông Nguyễn Tất H. Đến ngày 13/5/2009, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện
D ban hành Quyết định số: 1414/QĐ-UBND về việc kiêm kê bắt buộc hiện trạng đất
và tài sản trên đất của ông H. Ngày 21/5/2009, Hội đồng bồi thường, giải phóng mặt
bằng tiến hành kiểm kê bắt buộc hiện trạng đất và tài sản trên đất đối với hộ ông H,
lập biên bản kiểm kê số 101BS/TL/KKBB nhưng ông H không có mặt tại buổi kiểm
10
kê. Trên cơ sở đó lập Bảng áp giá số 101BS/TL ngày 29/6/2009 áp giá bồi thường
tài sản trên đất với giá trị bồi thường là 412.830.950 đồng.
Ngày 30/9/2009, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện D ban hành Quyết định số
5344/QĐ-UBND về việc công bố tiền bồi thường tài sản trên đất đối với ông Nguyễn
Tất H với số tiền 412.830.950 đồng. Ngày 27/5/2010, Hội đồng bồi thường, giải
phóng mặt bằng tiến hành kiểm kê bổ sung lại đất và tài sản trên đất theo Công văn
số: 814/UBND-NC ngày 28/4/2010 của Ủy ban nhân dân huyện D. Hội đồng bồi
thường lập biên bản số 101/BS/TL/AG-(BS332) áp giá bổ sung tài sản trên đất với
giá trị áp giá bổ sung là 943.560.956 đồng. Ngày 29/12/2011, Chủ tịch Ủy ban nhân
dân thị xã D ban hành Quyết định số 10529/QĐ-UBND về việc công bố tiền bồi
thường tài sản trên đất cho ông H với số tiền 943.560.956 đồng. Ngày 12/01/2012,
Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã D ban hành Quyết định 311/QĐ-UBND về việc
công bố tiền bồi thường bổ sung tài sản trên đất cho ông hưng với số tiền 117.484.180
đồng. Ngày 30/8/2012 Hội đồng bồi thường lập bảng áp giá bổ sung số
101BSTL/AGBS, áp giá bồi thường đối với 250m
2
đất thổ cư và 1.228m
2
đất nông
nghiệp với tổng giá trị bồi thường về đất là 321.700.000 đồng và bố trí 01 suất đất
tái định cư 150m
2
. Ngày 14/12/2012, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã D ban hành
Quyết định số: 7993/QĐ-UBND về việc công bố tiền bồi thường đất trên cho ông
Nguyễn Tất H.
Việc ông H khiếu nại Quyết định số: 2983/QĐ-UBND ngày 19/6/2013 của Chủ
tịch Ủy ban nhân dân thị xã D và yêu cầu bồi thường phù hợp với thời điểm thu hồi
đất riêng cho từng hộ gia đình, cá nhân và bồi thường phù hợp với thời điểm có quyết
định thu hồi đất, thực hiện bồi thường đơn giá đất nhân hệ số K theo quy định tại
Điều 8 Nghị định số: 22/1998/NĐ-TTg ngày 24/4/1998 của Chính phủ, áp giá bồi
thường đất và tài sản trên đất đối với phần đất 1.050m
2
là không có cơ sở xem xét,
giải quyết vì: Dự án xây dựng Đại học Quốc gia Thành phố H đã được Thủ tướng
chính phủ phê duyệt quy hoạch chung tại Quyết định số 1069/1997/QĐ-TTg ngày
11/12/1997, theo đó ngày 13/11/2003 Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh B ban hành
Quyết định 4653/QĐ-CT về việc thu hồi đất của các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân là
thực hiện đúng theo quy định của Luật Đất đai năm 1993.
Trên cơ sở thu hồi đất và giao đất của Ủy ban nhân dân tỉnh B, chủ đầu tư dự
án tiến hành kiểm kê, áp giá bồi thường cho các hộ dân, Ủy ban nhân dân huyện
(thành phố D) không ban hành quyết định thu hồi đất riêng cho từng cá nhân, hộ gia
đình là không trái quy định của pháp luật. Do đó, việc ông H yêu cầu ban hành Quyết
định thu hồi đất với từng hộ gia đình, cá nhân và bồi thường phù hợp với thời điểm
có quyết định thu hồi đất là không có căn cứ.
Về giá bồi thường về đất của Ủy ban nhân dân tỉnh B đã phê duyệt tại các Quyết
định số: 1969/QĐ-CT ngày 02/6/2003 và điều chỉnh, bổ sung tại Quyết định số:
6329/QĐ-CT ngày 12/8/2004, Quyết định số: 9020/QĐ-CT ngày 08/12/2004 là đã
nhân với hệ số K theo đúng quy định tại Nghị định số 22/1998/NĐ-CP ngày
24/4/1998 của Chính phủ. Vì vậy, việc ông H yêu cầu thực hiện nhân hệ số K theo
quy định tại Điều 8 Nghị định số: 22/1998/NĐ-CP ngày 24/4/1998 của Chính phủ là
không thể xem xét.
11
Việc ông H yêu cầu áp giá bồi thường đất và tài sản trên đất đối với phần đất
1.050m
2
đất này (nằm trong tổng diện tích hơn 3.000m
2
gồm thửa đất số 1, 2, 3, 4, 5,
6 tờ bản đồ số 10), nhưng ông Nguyễn Tất H chỉ được giao quyền sử dụng đất với
diện tích 740m
2
thuộc thửa số 5, 6 và đã bồi thường theo đúng quy định.
Từ những cơ sở pháp lý và nội dung nêu trên, ngày 06/6/2014 Chủ tịch Ủy ban
nhân tỉnh B ban hành Quyết định số: 1308/QĐ-UBND về việc giải quyết bác đơn
khiếu nại (lần hai) của ông Nguyễn Tất H, là đúng quy định pháp luật. Chủ tịch Ủy
ban nhân dân tỉnh B vẫn giữ nguyên quan điểm giải quyết tại Quyết định số:
1308/QĐ-UBND ngày 06/6/2014, đồng thời đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Bình
Dương tuyên xử bác đơn khởi kiện của ông Nguyễn Tất H, công nhận Quyết định số
1308/QĐ-UBND ngày 06/6/2014 của Chủ tịch Ủy ban nhân tỉnh Bình Dương là đúng
pháp luật. Bên cạnh đó, đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xem xét việc xác
định quan hệ tranh chấp là khiếu kiện quyết định hành chính về việc giải quyết khiếu
nại tại Quyết định số: 1308/QĐ-UBND ngày 06/6/2014 của Chủ tịch Ủy ban nhân
tỉnh B đã hết thời hiệu khởi kiện theo quy định tại Điều 116 Luật Tố tụng hành chính.
Tại Bản án hành chính sơ thẩm số: 48/2023/HC-ST ngày 13/9/2023 của Tòa án
nhân dân tỉnh Bình Dương đã quyết định:
Áp dụng khoản 1 Điều 30, khoản 3 và khoản 4 Điều 32, khoản 2 Điều 116,
khoản 1 Điều 157, khoản 1 Điều 158, Điều 164, khoản 1 và điểm b khoản 2 Điều
193, Điều 194, Điều 204, Điều 206 và khoản 1 Điều 348 Luật Tố tụng hành chính
năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng
án phí và lệ phí Tòa án.
Áp dụng Điều 27 Luật Đất đai năm 1993 (được sửa đổi, bổ sung năm 1998 và
2001); khoản 2, khoản 3 Điều 71 Luật Đất đai năm 2013Điều 126, 127 Luật Tổ chức
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003; khoản 1 Điều 20 và Điều 38 Luật
Khiếu nại, tố cáo năm 1998 (sửa đổi, bổ sung năm 2004 và 2005); Điều 18, khoản 2
Điều 21, Điều 31 và Điều 40 Luật Khiếu nại năm 2011; khoản 2 Điều 11 Thông tư
số 30/2014/TT-BTNMT ngày 02/6/2014 của Bộ T2 quy định về hồ sơ giao đất, cho
thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, thu hồi đất. Tuyên xử:
Bác yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Tất H, bà Nguyễn Thị X đối với Chủ
tịch Ủy ban nhân tỉnh B và Chủ tịch Ủy ban nhân thành phố D về việc yêu cầu hủy
các quyết định hành chính sau:
- Quyết định số: 2459/QĐ-UBND ngày 24/7/2009 của Chủ tịch Ủy ban nhân
huyện D về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Nguyễn Tất H ngụ tại số A ấp T,
xã Đ, huyện D, tỉnh Bình Dương đối với Quyết định số: 1414/QĐ-UBND của Chủ
tịch Ủy ban nhân huyện D về việc kiểm kê bắt buộc hiện trạng đất và tài sản trên đất
đối với hộ ông Nguyễn Tất H để phục vụ công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư
khi nhà nước thu hồi đất trong dự án xây dựng Đại học Quốc gia Thành phố H.
- Quyết định số: 4170/QĐ-UBND ngày 30/6/2010 của Chủ tịch Ủy ban nhân
huyện D về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Nguyễn Tất H ngụ tại số A ấp T,
xã Đ, huyện D, tỉnh Bình Dương đối với Quyết định số: 5344/QĐ-UBND ngày
30/9/2009 của Chủ tịch Ủy ban nhân huyện D về việc công bố giá trị bồi thường tài
12
sản trên đất đối với hộ ông Nguyễn Tất H thuộc dự án xây dựng Đại học Quốc gia
Thành phố H.
- Quyết định số: 1308/QĐ-UBND ngày 06/6/2014 của Chủ tịch Ủy ban nhân
tỉnh B về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Nguyễn Tất H khiếu nại Quyết định
số: 2983/QĐ-UBND ngày 19/6/2013 của Chủ tịch Ủy ban nhân thị xã D về việc giải
quyết đơn khiếu nại của ông Nguyễn Tất H.
- Quyết định số: 984/QĐ-UBND ngày 11/3/2022 của Chủ tịch Ủy ban nhân
thành phố D về việc cưỡng chế thu hồi đất.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí sơ thẩm và quyền kháng cáo
của các đương sự theo quy định của pháp luật.
- Ngày 21/9/2023, người khởi kiện ông Nguyễn Tất H và bà Nguyễn Thị X làm
đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm
chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông H và bà X.
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay:
- Ông Lê Văn N1 là người đại diện theo ủy quyền của ông Nguyễn Tất H và bà
Nguyễn Thị X giữ nguyên yêu cầu kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa án
sơ thẩm, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Tất H và bà Nguyễn
Thị Xuân h các quyết định hành chính sau: Quyết định số: 2459/QĐ-UBND ngày
24/7/2009 của Chủ tịch Ủy ban nhân huyện D về việc giải quyết đơn khiếu nại của
ông Nguyễn Tất H ngụ tại số A ấp T, xã Đ, huyện D, tỉnh Bình Dương đối với Quyết
định số: 1414/QĐ-UBND của Chủ tịch Ủy ban nhân huyện D về việc kiểm kê bắt
buộc hiện trạng đất và tài sản trên đất đối với hộ ông Nguyễn Tất H để phục vụ công
tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trong dự án xây dựng
Đại học Quốc gia Thành phố H; Hủy Quyết định số: 4170/QĐ-UBND ngày
30/6/2010 của Chủ tịch Ủy ban nhân huyện D về việc giải quyết đơn khiếu nại của
ông Nguyễn Tất H ngụ tại số A ấp T, xã Đ, huyện D, tỉnh Bình Dương đối với Quyết
định số 5344/QĐ-UBND ngày 30/9/2009 của Chủ tịch Ủy ban nhân huyện D về việc
công bố giá trị bồi thường tài sản trên đất đối với hộ ông Nguyễn Tất H thuộc dự án
xây dựng Đại học Quốc gia Thành phố H; Hủy Quyết định số: 1308/QĐ-UBND ngày
06/6/2014 của Chủ tịch Ủy ban nhân tỉnh B về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông
Nguyễn Tất H khiếu nại Quyết định số: 2983/QĐ-UBND ngày 19/6/2013 của Chủ
tịch Ủy ban nhân thị xã D về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Nguyễn Tất H;
Hủy Quyết định số: 984/QĐ-UBND ngày 11/3/2022 của Chủ tịch Ủy ban nhân thành
phố D về việc cưỡng chế thu hồi đất.
- Người bị kiện Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố D được triệu tập hợp lệ
lần thứ hai nhưng vắng mặt; Người bị kiện Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh B có văn
bản đề nghị xét xử vắng mặt.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát
biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: Về việc tuân theo pháp luật trong quá trình
giải quyết vụ án ở giai đoạn phúc thẩm: Những người tiến hành tố tụng và người
tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của Luật tố tụng hành chính.
13
Về yêu cầu kháng cáo của ông H và bà X: Kiểm sát viên đề nghị căn cứ khoản
1 Điều 241 Luật Tố tụng hành chính bác kháng cáo của ông H, và X, giữ nguyên
quyết định của bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh
tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Đơn kháng cáo của ông Nguyễn Tất H và bà Nguyễn Thị X hợp lệ, làm
trong thời hạn luật định, hợp lệ, đủ điều kiện để xem xét giải quyết theo thủ tục phúc
thẩm.
Người bị kiện Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố D được triệu tập hợp lệ lần
thứ hai nhưng vắng mặt; Người bị kiện Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh B có văn bản
đề nghị xét xử vắng mặt nên Tòa án tiến hành phiên tòa phúc thẩm xét xử vắng mặt
người bị kiện theo quy định tại khoản 2, khoản 4 Điều 225 Luật Tố tụng hành chính
năm 2015.
[2] Ông Nguyễn Tất H và bà Nguyễn Thị X khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết
hủy Quyết định số: 984/QĐ-UBND ngày 11/3/2022 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân
thành phố D về cưỡng chế thu hồi đất. Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định đúng quan hệ
tranh chấp và thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền và còn trong thời hiệu khởi kiện
theo quy định tại Điều 3, Điều 30, Điều 32, 116 Luật Tố tụng hành chính năm 2015.
Tòa án cấp sơ thẩm xem xét đối với các Quyết định hành chính về giải quyết
khiếu nại có liên quan gồm: Quyết định số: 2459/QĐ-UBND ngày 24/7/2009 của
Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện D về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Nguyễn
Tất H; Quyết định số: 4170/QĐ-UBND ngày 30/6/2010 của Chủ tịch Ủy ban nhân
dân huyện D về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Nguyễn Tất H; Quyết định số:
1308/QĐ-UBND ngày 06/6/2014 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh B về việc giải
quyết đơn khiếu nại của ông Nguyễn Tất H là đúng quy định tại khoản 2 Điều 193
Luật tố tụng hành chính năm 2015.
[3] Về thẩm quyền ban hành quyết định hành chính bị khởi kiện:
- Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố D ban hành Quyết định số: 984/QĐ-
UBND ngày 11/3/2022 về việc cưỡng chế thu hồi đất đối với ông Nguyễn Tất H là
đúng thẩm quyền theo quy định tại Điều 29 Luật Tổ chức chính quyền địa phương
năm 2015 và khoản 3 Điều 71 Luật đất đai năm 2013.
- Các Quyết định hành chính về giải quyết khiếu nại có liên quan gồm Quyết
định số: 2459/QĐ-UBND ngày 24/7/2009 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện D
về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Nguyễn Tất H; Quyết định số: 4170/QĐ-
UBND ngày 30/6/2010 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện D về việc giải quyết
đơn khiếu nại của ông Nguyễn Tất H; Quyết định số: 1308/QĐ-UBND ngày
06/6/2014 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh B về việc giải quyết đơn khiếu nại của
ông Nguyễn Tất H là đúng thẩm quyền theo quy định tại các Điều 94, 106 Luật Tổ
chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân; các Điều 20, Điều 23 Luật Khiếu nại,
tố cáo năm 1998 sửa đổi bổ sung năm 2005.
[4] Về trình tự, thủ tục và căn cứ ban hành quyết định hành chính bị khởi kiện:
14
[4.1] Dự án xây dựng Đại học Quốc gia thành phố H được Thủ tướng Chính
phủ quyết định chọn địa điểm xây dựng năm 1995, phê duyệt quy hoạch chung năm
1997. Quá trình thực hiện chia làm các giai đoạn, trong đó công trình xây dựng Đ
thực hiện từ năm 1997 đến năm 1999; riêng công trình xây dựng Đại học Quốc gia
thành phố H thực hiện từ năm 2001 theo phê duyệt điều chỉnh quy hoạch chung ngày
17/6/2001 và Quyết định số 660/QĐ-TTg ngày 17/6/2003 của Thủ tướng Chính phủ
về phê duyệt quy hoạch chi tiết 1/2000.
Ngày 13/11/2003, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh B ban hành Quyết định số:
4653/QĐ-CT về việc thu hồi 283,852ha/2.522 thửa đất của các tổ chức, hộ gia đình,
cá nhân thuộc xã Đ và xã B huyện D, tỉnh Bình Dương (theo ranh giới bản đồ quy
hoạch chi tiết gồm 2.522 thửa đất thuộc 4 tờ bản đồ địa chính tỷ lệ 1/2000 do trung
tâm dịch vụ địa chính lập ngày 08/3/1995); giao cho Đại học Q để tiến hành bồi
thường giải phóng mặt bằng theo quy hoạch chi tiết là nhằm thực hiện Dự án xây
dựng Đại học Quốc gia thành phố H đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Ông
Nguyễn Tất H có đất bị thu hồi thuộc thửa 25, 26 và một phần thửa 159 tờ bản đồ số
3 tại danh sách tổng hợp thu hồi đất kèm theo Quyết định số: 4653/QĐ-CT ngày
13/11/2003.
Năm 2004, tại trụ sở Văn phòng ấp T, Ủy ban nhân dân huyện D, Hội đồng giải
phóng mặt bằng tổ chức công khai chủ trương quy hoạch, đơn giá bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư đối với các hộ dân đang sử dụng đất nằm trong dự án quy hoạch thuộc
địa bàn ấp T, xã Đ. Đến tháng 10/2005, tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã Đ, Hội đồng
bồi thường, giải phóng mặt bằng tiếp tục đối thoại với các hộ dân thuộc ấp T để giải
thích các thắc mắc về chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; đồng thời vận động
các hộ hợp tác kiểm kê, trong đó có hộ ông Nguyễn Tất H. Tại buổi đối thoại ngày
08/6/2009, Ban Quản lý Dự án xây dựng Đại học Quốc gia Thành phố H phối hợp
Ủy ban nhân dân xã Đ đã tổ chức niêm yết tại trụ sở văn phòng ấp T các văn bản
pháp lý liên quan đến dự án quy hoạch Dự án xây dựng Đại học Quốc gia Thành phố
H.
Căn cứ kết quả thẩm tra, xác minh của Ban bồi thường giải tỏa tại báo cáo số
68/BC-BTGT ngày 06/7/2009 và mốc ranh giới khu quy hoạch trên thực địa và căn
cứ vào bản đồ quy hoạch chi tiết và tờ bản đồ địa chính tỷ lệ 1/2000 do Trung tâm
Dịch vụ Địa chính lập ngày 08/3/1995 thì toàn bộ các thửa đất số: 5, 6 và 59 tờ bản
đồ số 10 với tổng diện tích 1.478m
2
; mục đích sử dụng đất: đất thổ cư: 250m
2
và
1.228m
2
đất LN thuộc xã Đ, huyện T (nay là phường Đ, thành phố D), tỉnh Bình
Dương của ông H đã được cấp Giấy chứng nhận thuộc phạm vi thu hồi và giải tỏa
để làm Dự án xây dựng Đại học Quốc gia Thành phố H.
Căn cứ quyết định số: 1969/QĐ-CT ngày 02/6/2003 của Ủy ban nhân dân tỉnh
B về việc ban hành quy định đơn giá bồi thường thiệt hại về đất và tài sản trên đất
đối với công trình xây dựng Đại học Quốc gia Thành phố H trên địa bàn xã Đ và xã
B huyện D, tỉnh Bình Dương; Ngày 20/4/2009, Hội đồng bồi thường giải phóng mặt
bằng đã ban hành Thông báo số: 161/TB-HĐBT về việc kiểm kê hiện trạng đất và
tài sản trên đất của ông Nguyễn Tất H yêu cầu ông H, bà X có mặt tại vị trí đất giải
tỏa thuộc Dự án quy hoạch Đại học Quốc gia Thành phố H để tham gia kiểm đếm tài
sản. Tuy nhiên, ông H, bà X không đồng ý ký nhận thông báo và không hợp tác kiểm
đếm tài sản trên đất.
15
Do đó, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện D đã ban hành Quyết định số:
1414/QĐ-UBND ngày 13/5/2009 về việc kiểm kê bắt buộc hiện trạng đất và tài sản
trên đất để phục vụ công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi
đất trong dự án xây dựng Đại học Quốc gia Thành phố H là đúng quy định của pháp
luật.
Ngày 21/5/2009, Tổ kiểm kê bắt buộc đã thực hiện việc kiểm kê bắt buộc hiện
trạng đất và tài sản trên đất thì ông H, bà X vắng mặt. Sau đó ông H làm đơn khiếu
nại. Ngày 24/7/2009, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện D ban hành Quyết định số:
2459/QĐ-UBND về việc giải quyết bác đơn khiếu nại của ông Nguyễn Tất H ngụ tại
số A ấp T, xã Đ, huyện D, tỉnh Bình Dương đối với Quyết định số: 1414/QĐ-UBND
về việc kiểm kê bắt buộc hiện trạng đất và tài sản trên đất để phục vụ công tác bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trong dự án xây dựng Đại học
Quốc gia Thành phố H là đúng quy định của pháp luật.
Đến ngày 30/9/2009, Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện D ban hành Quyết định
số: 5344/QĐ-UBND về việc công bố giá trị bồi thường tài sản trên đất đối với hộ
ông (bà) Nguyễn Tất H thuộc dự án xây dựng Đại học Quốc gia Thành phố H. Sau
khi nhận Quyết định số: 5344/QĐ-UBND, ông H khiếu nại và yêu cầu kiểm kê lại
toàn bộ tài sản trên 02 khu đất thuộc thửa 59, thửa số 5, 6, tờ bản đồ số 10 đồng thời
yêu cầu bồi thường giá đất theo giá chuyển nhượng thực tế (12 triệu/m
2
– 13triệu/m
2
);
Bồi thường đất nông nghiệp xen kẽ khu dân cư bằng 70% giá đất ở theo quy định tại
Điều 21 Nghị định số: 69/2009/NĐ-CP ngày 27/5/2010 là không có cơ sở. Vì vậy,
Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện D ban hành Quyết định số: 4170/QĐ-UBND ngày
30/6/2010, giải quyết bác đơn khiếu nại của ông Nguyễn Tất H đối với Quyết định
số: 5344/QĐ-UBND ngày 30/09/2009 của Ủy ban nhân dân huyện D về việc công
bố giá trị bồi thường tài sản trên đất đối với hộ ông H là có căn cứ.
[4.2] Sau đó, Hội đồng bồi thường, giải phóng mặt bằng tiến hành kiểm kê bổ
sung tài sản trên đất cho hộ ông Nguyễn Tất H và Chủ tịch Ủy ban nhân thị xã D ban
hành Quyết định số: 10529/QĐ-UBND ngày 29/12/2011 về việc công bố tiền bồi
thường bổ sung tài sản gắn liền với đất đối với ông Nguyễn Tất H là: 943.560.965
đồng, theo Biên bản áp giá bổ sung số 101BS/TL/AG-(BS332) ngày 10/5/2011;
Quyết định số 311/QĐ-UBND ngày 12/01/2012 về việc công bố tiền bồi thường bổ
sung tài sản gắn liền với đất đối với ông Nguyễn Tất H là: 117.484.180 đồng, theo
Biên bản áp giá bổ sung số 101BS/AG-(BS332) ngày 27/12/2011.
Ngày 14/12/2012, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã D ban hành Quyết định số:
7993/QĐ-UBND công bố tiền bồi thường về đất là: 321.700.000 đồng và cấp 01 suất
đất tái định cư diện tích 150m
2
đối với hộ ông Nguyễn Tất H, theo Biên bản áp giá
số 101BSTL/AGBS ngày 20/8/2012.
Ngày 16/7/2013, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã D ban hành Quyết định số:
3547/QĐ-UBND về việc công bố bổ sung chính sách hỗ trợ ổn định đời sống đối với
ông Nguyễn Tất H là: 7.000.000 đồng, theo Biên bản áp giá bổ sung số
101BSTL/AGBS ngày 15/01/2013.
Ngày 15/8/2013, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã D ban hành Quyết định số:
4225/QĐ-UBND về việc công bố bổ sung 01 suất tái định cư diện tích 100m
2
cho
ông Nguyễn Tất H do thuộc diện gia đình đông nhân khẩu bằng hình thức nhận tiền
16
thay đất là: 300.000.000 đồng, theo Biên bản áp giá bổ sung số 101BSTL/AGBS
ngày 31/10/2013. Ngày 20/10/2014, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã D ban hành
Quyết định số: 5980/QĐ-UBND về việc công bố chính sách tái định cư đối với ông
Nguyễn Tất H từ cấp tái định cư bằng tiền sang cấp đất tái định cư 100m
2
.
Các quyết định nêu trên là phù hợp với phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư đã được phê duyệt, được thể hiện tại các quyết định: Quyết định số 1969/QĐ-CT
ngày 02/6/2003 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh về việc ban hành quy định đơn
giá bồi thường thiệt hại về đất và tài sản trên đất đối với công trình Đại học Quốc gia
Thành phố H trên địa bàn xã Đ và xã B, huyện D (nay là phường Đ và phường B,
thành phố D), tỉnh Bình Dương; Quyết định số 6329/QĐ-CT ngày 12/8/2004 của
Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh về việc điều chỉnh, bổ sung chính sách bồi thường đối
với công trình Đại học Quốc gia Thành phố H trên địa bàn tỉnh Bình Dương; Quyết
định số 9020/QĐ-CT ngày 08/12/2004 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh về việc
điều chỉnh đơn giá bồi thường và chính sách tái định cư đối với công trình Đại học
Quốc gia Thành phố H trên địa bàn tỉnh Bình Dương; Quyết định số 332/QĐ-UBND
ngày 26/01/2011 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh về việc phê duyệt phương án
giải quyết tồn đọng trong công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng công trình xây
dựng Đại học Quốc gia Thành phố H.
Về áp giá bồi thường đất và giá trị tài sản trên đất được căn cứ phương án bồi
thường để áp giá bồi thường đất và giá trị tài sản trên đất tại thời điểm thu hồi; về
việc xét cấp thêm 01 suất tái định cư thì ngày 20/10/2014, Chủ tịch Ủy ban nhân dân
thị xã D ban hành Quyết định số: 5980/QĐ-UBND về việc công bố chính sách tái
định cư đối với ông Nguyễn Tất H từ cấp tái định cư bằng tiền sang cấp đất tái định
cư 100m
2
là đã bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của ông H, bà X.
Ông Nguyễn Tất H khiếu nại yêu cầu bồi thường phù hợp với thời điểm thu hồi
đất riêng cho từng hộ gia đình, cá nhân và bồi thường phù hợp với thời điểm có quyết
định thu hồi đất, thực hiện bồi thường đơn giá đất nhân hệ số K theo quy định tại
Điều 8 Nghị định số: 22/1998/NĐ-TTg ngày 24/4/1998 của Chính phủ.
Xét thấy Dự án xây dựng Đại học Quốc gia Thành phố H đã được Thủ tướng
chính phủ phê duyệt quy hoạch chung tại Quyết định số: 1069/1997/QĐ-TTg ngày
11/12/1997, theo đó ngày 13/11/2003 Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh B ban hành
Quyết định 4653/QĐ-CT về việc thu hồi đất của các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân là
thực hiện đúng theo quy định của Luật Đất đai năm 1993. Trên cơ sở thu hồi đất và
giao đất của Ủy ban nhân dân tỉnh B, chủ đầu tư dự án tiến hành kiểm kê, áp giá bồi
thường cho các hộ dân, và Ủy ban nhân dân huyện D không ban hành quyết định
thu hồi đất riêng cho từng cá nhân, hộ gia đình là không trái quy định của pháp luật.
Về giá bồi thường về đất của Ủy ban nhân dân tỉnh B đã phê duyệt tại các Quyết
định số: 1969/QĐ-CT ngày 02/6/2003 và điều chỉnh, bổ sung tại Quyết định số:
6329/QĐ-CT ngày 12/8/2004, Quyết định số: 9020/QĐ-CT ngày 08/12/2004 là đã
nhân với hệ số K theo đúng quy định tại Nghị định số 22/1998/NĐ-CP ngày
24/4/1998 của Chính phủ. Vì vậy, việc ông H yêu cầu thực hiện nhân hệ số K theo
quy định tại Điều 8 Nghị định số: 22/1998/NĐ-CP ngày 24/4/1998 của Chính phủ là
không thể xem xét.
17
Việc ông H yêu cầu áp giá bồi thường đất và tài sản trên đất đối với phần đất
1.050m
2
đất này (nằm trong tổng diện tích hơn 3.000m
2
gồm thửa đất số 1, 2, 3, 4, 5,
6 tờ bản đồ số 10), nhưng ông Nguyễn Tất H chỉ được giao quyền sử dụng đất với
diện tích 740m
2
thuộc thửa số 5, 6 và đã bồi thường theo đúng quy định.
Do đó ngày 19/6/2013, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã D ban hành Quyết định:
2983/QĐ-UBND về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Nguyễn Tất H là có căn
cứ, đúng pháp luật. Sau đó, ông H khiếu nại Quyết định 2983/QĐ-UBND thì ngày
06/6/2014 Chủ tịch Ủy ban nhân tỉnh B ban hành Quyết định số: 1308/QĐ-UBND
về việc giải quyết bác đơn khiếu nại (lần hai) của ông Nguyễn Tất H, là có căn cứ
phù hợp với quy định tại các Điều 126, 127 Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân năm 2003 và khoản 2 Điều 21, Điều 40 Luật Khiếu nại năm 2011.
[4.3] Sau khi giải quyết khiếu nại, Ủy ban nhân dân thị xã (nay là thành phố)
Dĩ An đã có nhiều văn bản thông báo cho ông Nguyễn Tất H nhận tiền và bàn giao
mặt bằng để thi công công trình Dự án, nhưng ông H không thực hiện. Tổ công tác
do Trung tâm phát triển quỹ đất thị xã D chủ trì phối hợp với các cơ quan chức năng
và M1 của phường Đ cũng đã mời các hộ dân chưa bàn giao mặt bằng (trong đó có
ông H) để làm việc, vận động và thuyết phục nhưng ông H không tham gia phiên
làm việc.
Ngày 16/11/2021, Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố T3 đã lập Tờ
trình số: 429/TTr-PTNMT về việc cưỡng chế thu hồi đất đối với những trường hợp
chưa bàn giao đất, trong đó có ông Nguyễn Tất H là phù hợp hướng dẫn tại khoản 2
Điều 11 Thông tư số: 30/2014/TT-BTNMT ngày 02/6/2014 của Bộ T2 quy định về
hồ sơ giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, thu hồi đất.
Do đó, ngày 11/3/2022 Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố D ban hành Quyết
định số: 984/QĐ-UBND về việc cưỡng chế thu hồi đất đối với ông Nguyễn Tất H
đối với diện tích 740m
2
thuộc một phần thửa 5, 6 tờ bản đồ số 10 theo Giấy chứng
nhận số 2271/QSDĐ/DH ngày 28/3/2000 (thuộc thửa 25, 26 tại bản đồ số 3 theo
Quyết định thu hồi đất số: 4653/QĐ-CT ngày 13/11/2003) tọa lạc tại Khu phố T,
phường Đ, thành phố D, tỉnh Bình Dương là có căn cứ đúng thẩm quyền theo quy
định tại khoản 3 Điều 71 Luật Đất đai năm 2013
[5] Tại phiên tòa phúc thẩm người đại diện hợp pháp của ông H và bà X giữ
nguyên yêu cầu kháng cáo cho rằng Ủy ban nhân dân tỉnh B không ra quyết định thu
hồi đất đối với từng hộ gia đình cá nhân và tại Quyết định số: 4653/QĐ-CT ngày
13/11/2003 của Ủy ban nhân tỉnh B không có tên của ông H bị thu hồi đất nhưng lại
ban hành quyết định cưỡng chế thu hồi đất là trái pháp luật. Xét lời trình bày của
người đại diện theo ủy quyền của ông H, bà X là chưa có căn cứ để chấp nhận. Bởi
vì: Dự án xây dựng Đại học Quốc gia Thành phố H được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt quy hoạch vào năm 1997. Căn cứ quyết định số 836/QĐ-TTg ngày 15/9/1998
của Thủ tướng Chính phủ về thu hồi đất; ngày 13/11/2003, Chủ tịch Ủy ban nhân
dân tỉnh B ban hành Quyết định số: 4653/QĐ-CT về việc thu hồi 283,852ha/2.522
thửa đất của các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân thuộc xã Đ và xã B huyện D, tỉnh Bình
Dương; giao cho Đại học Q để tiến hành bồi thường giải phóng mặt bằng theo quy
hoạch chi tiết là nhằm thực hiện Dự án xây dựng Đại học Quốc gia Thành phố H là
18
phù hợp với quy định tại khoản 5 Điều 1 Luật Đất đai sửa đổi ngày 29/6/2001 và
Điều 28 Luật Đất đai năm 1993.
Căn cứ kết quả thẩm tra, xác minh của Ban bồi thường giải tỏa tại báo cáo số
68/BC-BTGT ngày 06/7/2009 và mốc ranh giới khu quy hoạch trên thực địa và căn
cứ vào bản đồ quy hoạch chi tiết và tờ bản đồ địa chính tỷ lệ 1/2000 do Trung tâm
Dịch vụ Địa chính lập ngày 08/3/1995 thì toàn bộ các thửa đất số: 5, 6 và 59 tờ bản
đồ số 10 với tổng diện tích 1.478m
2
; mục đích sử dụng đất: đất thổ cư: 250m
2
và
1.228m
2
đất LN thuộc xã Đ, huyện T (nay là phường Đ, thành phố D), tỉnh Bình
Dương mà ông H đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thuộc phạm vi
thu hồi và giải tỏa để làm Dự án xây dựng Đại học Quốc gia Thành phố H. Tại Biên
bản làm việc ngày 24/3/2023 của Trung tâm phát triển quỹ đất thành phố D đã có ký
kiến: “Phần đất của ông H thuộc ranh giới giải tỏa thực hiện dự án xây dựng Đại học
quốc gia Thành phố H, tuy nhiên thời điểm đo đạc, thiết lập bản đồ địa chính theo
ranh quy hoạch, vị trí thửa đất thu hồi của từng hộ gia đình, cá nhân được đánh số
thửa theo 04 bản đồ địa chính do Trung tâm dịch vụ địa chính tỉnh Sông Bé vẽ và
được Sở Địa chính tỉnh Sông Bé xác nhận ngày 09/5/1995 … các bản đồ địa chính
được quy hoạch, phê duyệt dự án xây dựng Đại học Quốc gia Thành phố H có trước
thời điểm ông H được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 2271/QSDĐ/DH
ngày 28/3/2000 cho nên vị trí thửa đất thu hồi không trùng khớp với thửa đất địa
chính mà ông H được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất… Phần đất của ông
H đang sử dụng theo quy hoạch thực địa đã được Đại học Quốc gia Thành phố H
triển khai cấm mốc thực địa từ năm 1995, xây dựng đường vành đai bao quanh từ
năm 1997 đến nay không thay đổi, hoàn toàn nằm trong khu ranh giới thu hồi giao
đất của Thủ tướng chính phủ; Mặt khác tại kết luận số: 275/BC-TTCP ngày
25/02/2016 của Thanh tra Chính phủ kết luận và kiến nghị thống nhất với kết quả
giải quyết khiếu nại của Ủy ban nhân tỉnh B về việc không chấp nhận khiếu nại không
ban hành quyết định thu hồi đất riêng đối với hộ sử dụng đất.
Người đại diện theo ủy quyền của ông H, bà X cũng không xuất trình được tài
liệu, chứng cứ mới để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của ông H, bà X. Do đó,
không chấp nhận kháng cáo của ông H, bà X và giữ nguyên bản án sơ thẩm theo đề
nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh là có
căn cứ, phù hợp với nhận định trên.
[6] Về án phí hành chính phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên
ông H và bà X phải chịu án phí hành chính phúc thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều
34 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường
vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí
và lệ phí Tòa án.
[7] Quyết định khác của Bản án sơ thẩm về án phí sơ thẩm không có kháng cáo,
kháng nghị có hiệu lực pháp luật thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng
nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ khoản 1 Điều 241 của Luật Tố tụng hành chính; Nghị quyết số:
19
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định
về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
- Không chấp nhận kháng cáo của người khởi kiện ông Nguyễn Tất H và bà
Nguyễn Thị X.
2. Giữ nguyên bản án hành chính số: 48/2023/HC-ST ngày 13/9/2023 của Tòa
án nhân dân tỉnh Bình Dương:
Căn cứ Điều 158, Điều 164, 193, 194 và 195 Luật Tố tụng hành chính; Nghị
quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án.
- Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Tất H và bà Nguyễn Thị X
yêu cầu hủy các Quyết định hành chính:
- Quyết định số: 2459/QĐ-UBND ngày 24/7/2009 của Chủ tịch Ủy ban nhân
dân huyện D về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Nguyễn Tất H đối với Quyết
định số: 1414/QĐ-UBND ngày 13/5/2009 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện D
về việc kiểm đếm bắt buộc hiện trạng đất và tài sản trên đất đối với hộ Nguyễn Tất
H để phục vụ công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất
trong dự án xây dựng trường Đại học Quốc gia Thành phố H.
- Quyết định số: 4170/QĐ-UBND ngày 30/6/2010 của Chủ tịch Ủy ban nhân
dân huyện D về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Nguyễn Tất H đối với quyết
định: 5344/QĐ-UBND ngày 30/9/2009 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện D về
việc công bố giá trị bồi thường tài sản trên đất đối với hộ Nguyễn Tất H thuộc dự án
xây dựng trường Đại học Quốc gia Thành phố H.
- Quyết định số: 1308/QĐ-UBND ngày 06/6/2014 của Chủ tịch Ủy ban nhân
dân tỉnh B về việc giải quyết đơn khiếu nại của ông Nguyễn Tất H đối với Quyết
định số: 2983/QĐ-UBND ngày 19/6/2013 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thị xã D.
- Quyết định số: 984/QĐ-UBND ngày 11/3/2022 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân
thành phố D về cưỡng chế thu hồi đất.
3. Về án phí hành chính phúc thẩm: Ông Nguyễn Tất H và bà Nguyễn Thị X
phải nộp 600.000 đồng (Sáu trăm nghìn đồng) án phí hành chính phúc thẩm, được
khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí số
0011661 ngày 22/9/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bình Dương. Ông H và
bà X đã nộp đủ.
4. Quyết định khác của Bản án sơ thẩm về án phí hành chính sơ thẩm không có
kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng
cáo, kháng nghị.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC
THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN
TÒA
(Đã ký)
20
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 10/05/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 08/05/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 25/04/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 16/04/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 03/04/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 29/03/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 27/03/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 27/03/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 22/03/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 15/03/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 14/03/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 14/03/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 26/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 18/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 18/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 11/01/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 22/12/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 21/12/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 21/12/2023
Cấp xét xử: Phúc thẩm