Bản án số 173/2025/HNGĐ-ST ngày 22/09/2025 của TAND tỉnh Bắc Ninh về vụ án ly hôn do một bên ở nước ngoài
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 173/2025/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 173/2025/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 173/2025/HNGĐ-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 173/2025/HNGĐ-ST ngày 22/09/2025 của TAND tỉnh Bắc Ninh về vụ án ly hôn do một bên ở nước ngoài |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn do một bên ở nước ngoài |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bắc Ninh |
| Số hiệu: | 173/2025/HNGĐ-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 22/09/2025 |
| Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ/việc: | Ban an HNGD giua ba Nguyen Thi M va ong Truong Van T |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BẮC NINH
Bản án số: 173/2025/HNGĐ-ST
Ngày: 22-9-2025
V/v ly hôn, tranh chấp nuôi con
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẮC NINH
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Gia Lương
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Nguyễn Văn Chiến
Bà Lê Thị Minh Khánh
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Duy Khôi - Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Bắc Ninh.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh tham gia phiên tòa:
Ông Thân Mạnh Thắng - Kiểm sát viên.
Ngày 22 tháng 9 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh xét
xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 186/2025/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 6
năm 2025 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi
con”.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 99/2025/QĐ-ST ngày
29/08/2025 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị M, sinh ngày 19/01/1983 (vắng mặt)
Căn cước công dân: 024193011894
Nơi cư trú: thôn Đ, xã Đ, tỉnh Bắc Ninh. Hiện đang lao động tại Đài Loan.
Bà M ủy quyền cho ông Nguyễn Tiến C, sinh năm 1958; Nơi cư trú: tổ
dân phố K, phường B, tỉnh Bắc Ninh giao nhận văn bản tố tụng với Tòa án.
2. Bị đơn: Ông Trương Văn T, sinh ngày 08/10/1980 (vắng mặt)
Căn cước công dân: 024080019390
Nơi cư trú cuối cùng tại Việt Nam: thôn Đ, xã Đ, tỉnh Bắc Ninh.
3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
- Anh Trương Quang K, sinh năm 2005 (vắng mặt)
Nơi cư trú: thôn Đ, xã Đ, tỉnh Bắc Ninh.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
2
Theo đơn khởi kiện về việc xin ly hôn và bản tự khai, nguyên đơn bà
Nguyễn Thị M (có xác nhận của Văn phòng Kinh tế - Văn hóa Việt Nam tại Đài
Bắc) trình bày:
Về hôn nhân: bà, ông T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có tìm hiểu, có đăng
ký kết hôn ngày 07/7/2004 tại Ủy ban nhân xã Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang (nay
là xã Đ, tỉnh Bắc Ninh). Sau khi kết hôn bà về nhà ông T làm dâu, vợ chồng
chung sống hòa thuận. Do điều kiện kinh tế khó khăn năm 2014 đến năm 2015
bà đi lao động tại Malaysia, vợ chồng vẫn hòa thuận đến năm 2016 thì phát sinh
mâu thuẫn về làm ăn kinh tế dẫn đến tình cảm không còn, bà đã nhiều lần bỏ
quan, tha thứ cho ông T nhưng ông T vẫn không thay đổi. Năm 2017 bà đi lao
động tại Đài Loan, vợ chồng ly thân từ đó, không ai còn quan tâm đến nhau, ai
có cuộc sống riêng của người đó. Trong thời gian mâu thuẫn vợ chồng đã nhiều
lần nói chuyện để hàn gắn nhưng không được. Khi hai bên gia đình biết chuyện
có khuyên bảo nhưng không có kết quả. Nay bà xác định tình cảm vợ chồng
không còn nên bà đề nghị Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn ông Trương Văn
T.
Về con chung: bà, ông T có 02 con chung là cháu Trương Quang K, sinh
ngày 27/3/2005 và cháu Trương Thị V, sinh ngày 27/5/2013. Sau ly hôn bà đề
nghị giao cháu V cho bà là người trực tiếp nuôi dưỡng. Cháu K trên 18 tuổi,
không bị hạn chế năng lực hành vi dân sự nên không đề nghị giải quyết.
Về cấp dưỡng nuôi con chung: bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung, công nợ: bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Ông Trương Văn T là bị đơn trình bày:
Về hôn nhân: ông, bà M được tự do tìm hiểu rồi đi đến hôn nhân, được
hai bên gia đình tổ chức lễ cưới, hỏi theo phong tục địa phương và có đăng ký
kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang (nay là xã Đ, tỉnh
Bắc Ninh). Sau khi kết hôn bà M về nhà ông làm dâu, vợ chồng chung sống hòa
thuận. Do điều kiện kinh tế khó khăn năm 2017 bà M đi lao động tại Đài Loan,
Sau khi sang Đài Loan vợ chồng không còn liên lạc với nhau. Nay ông xác định
tình cảm không còn nên đồng ý ly hôn với bà M.
Về con chung: ông, bà M có 02 con chung là cháu Trương Quang K, sinh
ngày 27/3/2005 và cháu Trương Thị V, sinh ngày 27/5/2013. Cháu V hiện đang
sinh sống cùng cháu K. Sau ly hôn ông đề nghị giao cháu V cho bà M là người
trực tiếp nuôi dưỡng. Cháu K trên 18 tuổi, không bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự nên không đề nghị giải quyết.
Về cấp dưỡng nuôi con chung: ông không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung, công nợ: ông không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, anh Trương Quang K trình bày:
Ông T, bà M có 02 con chung là Trương Quang K, sinh ngày 27/3/2005 và
3
Trương Thị V, sinh ngày 27/5/2013. Hiện nay Trương Thị V đang sinh sống
cùng anh. Nếu bố mẹ ly hôn, do ông T không có công việc cụ thể, hiện đang đi
chấp hành án nên không đảm bảo việc chăm sóc em Vi. Nếu bố mẹ ly hôn anh
đồng ý thay bà M chăm sóc em Vi cho đến khi bà M về nước sinh sống. Anh
không yêu cầu ông T, bà M phải trích trả công sức nuôi dưỡng em Vi.
Cháu Trương Thị V trình bày: Cháu hiện đang sinh sống cùng mẹ và anh
trai. Nếu bố mẹ ly hôn cháu muốn sinh sống cùng mẹ và anh trai.
Tại phiên tòa, bà M, ông T, anh K vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
Hội đồng xét xử tóm tắt nội dung vụ án, công bố đơn khởi kiện, bản tự khai
của bà M, anh K, biên bản lấy lời khai ông T và thông qua các tài liệu, chứng cứ
có trong hồ sơ vụ án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh phát biểu về việc tuân theo
pháp luật về tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký Tòa án đã tuân thủ
đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước
thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án.
Về việc chấp hành pháp luật của đương sự: Nguyên đơn, bị đơn, người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan có đơn xin xét xử vắng mặt thực hiện đúng quyền
và nghĩa vụ tố tụng của mình được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự. Căn
cứ các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử, xét xử vắng mặt các đương sự
là đúng theo quy định của pháp luật.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 51, 53, 56, 81, 82,
83, 105, khoản 2 Điều 123 và Điều 127 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 1 điều
28, khoản 3 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 37, khoản 4 Điều 147, Điều 227,
Điều 228, Điều 238, Điều 271; Điều 273, khoản 2 Điều 479 Bộ luật tố tụng dân
sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTBVQH14 ngày
30/12/2016 Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu,
miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Chấp nhận một
phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị M; xử:
Về hôn nhân: bà Nguyễn Thị M được ly hôn ông Trương Văn T.
Về con chung: đề nghị Hội đồng xét xử giao cháu Trương Thị V cho bà
Nguyễn Thị M là người trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi đủ 18 tuổi hoặc đến khi
có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Nhưng tạm giao cháu V cho
anh K nuôi dưỡng cho đến khi bà M về nước sinh sống.
Về cấp dưỡng nuôi con chung, tài sản chung, công nợ chung: Các đương sự
không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra xem xét, giải quyết.
Bà M phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
4
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được công bố tại phiên
toà, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát. Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về quan hệ tranh chấp: Bà M khởi kiện xin ly hôn ông T và yêu cầu
giải quyết nuôi con chung. Vì vậy, đây là vụ án “ly hôn, tranh chấp về nuôi con”
theo khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2]. Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà M hiện đang lao động tại Đài
Loan, ông T là bị đơn có hộ khẩu thường trú tại tỉnh Bắc Ninh. Do đó, đây là vụ
án có một bên đương sự ở nước ngoài nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa
án nhân dân tỉnh Bắc Ninh theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35,
điểm c khoản 1 Điều 37 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3]. Về việc vắng mặt đương sự: Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, nên Hội đồng xét xử căn cứ
khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt các đương sự.
[4]. Về hôn nhân: Bà M và ông T kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện
và có đăng ký kết hôn ngày 07/7/2004 tại Ủy ban nhân xã Đ, huyện L, tỉnh Bắc
Giang (nay là xã Đ, tỉnh Bắc Ninh). Do đó, đây là hôn nhân hợp pháp được pháp
luật bảo vệ. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, bà M xác định
tình cảm vợ chồng không còn, nên bà đề nghị Tòa án xử cho bà được ly hôn ông
T.
Xét yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của bà M, Hội đồng xét xử thấy: Sau khi
kết hôn bà M, ông T chung sống hòa thuận đến năm 2017 bà M đi lao động tại
Đài Loan. Sang Đài Loan vợ chồng phát sinh mâu thuẫn nên sống ly thân đến
nay. Nay bà M, ông T đều xác định tình cảm vợ chồng không còn. Do đó, Hội
đồng xét xử xác định bà M, ông T đã có một thời gian dài sống ly thân, hiện nay
vợ chồng không còn yêu thương, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau làm cho hôn
nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích
của hôn nhân không đạt được. Nên, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly
hôn của bà M với ông T là phù hợp với tình trạng hôn nhân thực tế, phù hợp
Điều 51, Điều 53 và Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình cũng như đề nghị của
Kiểm sát viên tại phiên tòa.
[5]. Về nuôi con chung: Bà M, ông T có 02 con chung là cháu Trương Quang
K, sinh ngày 27/3/2005 và cháu Trương Thị V, sinh ngày 27/5/2013. Hiện nay
cháu V đang sinh sống cùng bà M, anh K. Sau ly hôn bà M đề nghị giao con
chung cho bà M là người trực tiếp nuôi dưỡng.
Xét yêu cầu nuôi con chung của bà M sau khi ly hôn, Hội đồng xét xử thấy:
Bà M hiện đang lao động tại nước ngoài nên không đảm bảo nuôi con chung.
Tuy nhiên, anh Trường là con đồng ý nuôi dưỡng cháu V cho bà M cho đến khi
bà M về nước sinh sống. Ông T hiện mới đi chấp hành án tù về, không có công
việc và đồng ý giao cháu V cho bà M nuôi dưỡng. Mặt khác, cháu V có nguyện
5
vọng được sinh sống cùng mẹ nếu bố mẹ ly hôn. Cháu V hiện đang sinh sống ổn
định cùng bà M, anh K, cháu phát triển ổn định cả về thể chất lẫn tinh thần. Do
đó, để đảm bảo sự phát triển ổn định của trẻ nhỏ cần giao cháu V cho bà M trực
tiếp nuôi dưỡng sẽ đảm bảo hơn giao cho ông T nuôi dưỡng. Tuy nhiên bà M
hiện đang lao động tại Đài Loan nên cần tạm giao cháu V cho anh K nuôi dưỡng
cho đến khi bà M về nước sinh sống.
Sau khi ly hôn ông T có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở
ông T thực hiện quyền này theo quy định tại Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và
gia đình.
Trường hợp ông T có nguyện vọng thay đổi người trực tiếp nuôi con chung
hoặc vì quyền lợi chính đáng của con chung, các đương sự có quyền khởi kiện
yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn bằng vụ án khác theo quy
định tại Điều 84 Luật hôn nhân gia đình.
[6]. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Do bà M, ông T, anh K không yêu cầu
nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[7]. Về tài sản chung, công nợ chung: Do bà M, ông T không yêu cầu nên
Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[8]. Về án phí: Theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ Luật Tố tụng
dân sự; và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án. Bà Nguyễn Thị M phải chịu
300.000 đồng án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số
tiền 300.000 đồng đã nộp tạm ứng án phí tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bắc
Giang (nay là Thi hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh).
[9]. Về quyền kháng cáo: Theo quy định tại Điều 271, khoản 2 Điều 479 Bộ
luật tố tụng dân sự, bà M đang lao động tại nước ngoài không có mặt tại phiên tòa thì
thời hạn kháng cáo bản án của Tòa án là 01 tháng, kể từ ngày bản án được tống đạt
hợp lệ hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.
Theo Điều 271; khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự, ông T, anh K
vắng mặt tại phiên tòa nhưng có mặt tại Việt Nam thì thời hạn kháng cáo bản án
của Tòa án là 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày bản
án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 53, khoản 1 Điều 56, Điều 81,
Điều 82, Điều 83, khoản 2 Điều 123, Điều 127 Luật Hôn nhân và gia đình;
khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 37, khoản 4 Điều 147,
Điều 227, Điều 228, Điều 238, Điều 271, Điều 273, khoản 2 Điều 479 Bộ Luật

6
Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án; xử: Chấp nhận một
phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị M.
1. Về hôn nhân: Bà Nguyễn Thị M được ly hôn ông Trương Văn T.
2. Về con chung: Giao cháu Trương Thị V, sinh ngày 27/5/2013 cho bà
Nguyễn Thị M là người trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu V đủ 18 tuổi hoặc
đến khi có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Nhưng tam giao cháu
V cho anh Trương Quang K nuôi dưỡng cho đến khi bà M về nước sinh sống.
Sau khi ly hôn, ông Trương Văn T không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ
thăm nom con mà không ai được cản trở.
3. Về án phí: Bà Nguyễn Thị M phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án
phí sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tạm
ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0005785 ngày 04/6/2025 của Cục Thi hành án
dân sự tỉnh Bắc Giang (nay là Thị hành án dân sự tỉnh Bắc Ninh). Xác nhận bà
Nguyễn Thị M đã nộp đủ án phí sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo bản án: Bà Nguyễn Thị M có quyền kháng cáo trong
thời hạn 30 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày bản án
được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.
Ông Trương Văn T, anh Trương Quang K có quyền kháng cáo trong thời
hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày bản án được
niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.
Nơi nhận:
-VKSND tỉnh Bắc Ninh;
- THADS tỉnh Bắc Ninh;
- UBND xã Đ, tỉnh Bắc Ninh;
-Cổng thông tin điện tử TAND;
-Các đương sự;
-Lưu hồ sơ vụ án;
-Lưu THCTP.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Nguyễn Gia Lương
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 07/10/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 25/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 22/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 15/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 11/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 04/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 04/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 28/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 28/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 28/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 28/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 26/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 25/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 22/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 22/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm