Bản án số 15/2025/HC-ST ngày 11/06/2025 của TAND TP. Đà Nẵng
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 15/2025/HC-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 15/2025/HC-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 15/2025/HC-ST
Tên Bản án: | Bản án số 15/2025/HC-ST ngày 11/06/2025 của TAND TP. Đà Nẵng |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND TP. Đà Nẵng |
Số hiệu: | 15/2025/HC-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 11/06/2025 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Ngô Thị B đối với UBND quận S, thành phố Đà Nẵng, Sở Nông nghiệp và Môi trường thành phố Đ. Xử |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Bản án số: 15/2025/HC-ST
Ngày: 11/6/2025
V/v “Khiếu kiện yêu cầu hủy
quyết định hành chính”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa: Ông Trần Hoài Sơn
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Nguyễn Phi Hùng
Ông Đoàn Ngọc Đăng
- Thư ký phiên tòa: Bà Phạm Thị Kiều Hạnh - Thư ký Tòa án nhân dân thành
phố Đà Nẵng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng tham gia phiên toà:
Bà Đặng Ngọc Hoài Linh - Kiểm sát viên.
Ngày 11 tháng 6 năm 2025, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét
xử sơ thẩm công khai vụ án hành chính thụ lý số 32/2024/TLST-HC ngày 01/10/2024
về việc “Khiếu kiện yêu cầu hủy quyết định hành chính” theo Quyết định đưa vụ án ra
xét xử số 25/2025/QĐXXST-HC ngày 01/4/2025, Thông báo số 66/TB-TA ngày
18/4/2025 về việc thay đổi thời gian mở lại phiên toà và Quyết định hoãn phiên toà số
37/2025/QĐST-HC ngày 19/5/2025 giữa các đương sự:
1. Người khởi kiện: Bà Ngô Thị B, sinh năm: 1954; Địa chỉ: Số 30 đường N, tổ
92, phường M, quận S, thành phố Đà Nẵng.
+ Người đại diện theo uỷ quyền: Ông Nguyễn Mạnh Cường, sinh năm: 1989 và
ông Phạm Văn Thắng, sinh năm: 1992; Cùng địa chỉ: Số 35 đường T, phường Hoà
Thuận Tây, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. Có mặt.
2. Người bị kiện:
2.1. Uỷ ban nhân dân (UBND) quận S, thành phố Đà Nẵng; Địa chỉ: Số 02
đường Đ, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng.
+ Người đại diện theo uỷ quyền: Ông Huỳnh Văn H - Chức vụ: Phó Chủ tịch
UBND quận S, thành phố Đà Nẵng. Có mặt.
+ Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Ông Ưng Lê Khánh H - Chức vụ:
Phó Trưởng Phòng Tài nguyên và Môi trường quận S, thành phố Đà Nẵng. Có mặt.
2
2.2. Sở Nông nghiệp và Môi trường thành phố Đ; Địa chỉ: Số 24 đường T,
quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng.
+ Người đại diện theo uỷ quyền: Ông Trần Quốc H - Chức vụ: Phó Giám đốc
Sở Nông nghiệp và Môi trường thành phố Đ. Vắng mặt.
+ Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Ông Nguyễn Hồng S Địa chỉ: Số 57
đường Q, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
3.1. Ông Ngô Tấn S, sinh năm: 1973 và bà Trần Thị H, sinh năm: 1975; Cùng
địa chỉ: Số 28 đường N, tổ 92, phường M, quận S, thành phố Đà Nẵng. Có mặt.
3.2. Công ty cổ phần Đầu tư phát triển nhà Đ; Địa chỉ: Số 38 đường N, phường
Thạch Thang, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.
3.3. Bà Trịnh Thị N, sinh năm: 1985;
3.4. Bà Trịnh Thị N1, sinh năm: 1978;
3.5. Bà Trịnh Thị Như T, sinh năm: 1987;
3.6. Ông Trịnh Bá C, sinh năm: 1984;
3.7. Ông Trịnh Bá N, sinh năm: 1988;
3.8. Bà Trịnh Thị Tuyết N, sinh năm: 1983;
3.9. Bà Trịnh Thị Xuân T, sinh năm: 1977;
Cùng địa chỉ: Số 30 đường N, tổ 92, phường M, quận S T, thành phố Đà Nẵng.
Ông Trịnh Bá N có mặt; các ông (bà): Trịnh Thị N, Trịnh Thị N1, Trịnh Thị Như
T, Trịnh Bá C, Trịnh Thị Tuyết N, Trịnh Thị Xuân T có đơn xin xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Tại đơn khởi kiện, đơn sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện của người khởi kiện bà
Nguyễn Thị B, trong quá trình tố tụng và tại phiên toà người đại diện theo uỷ quyền của
người khởi kiện là ông Nguyễn Mạnh C và ông Phạm Văn T trình bày:
Ngày 29/6/2006, vợ chồng ông Trịnh Văn C (đã chết) và bà Ngô Thị B có mua
01 lô đất (phiếu tái định cư) của bà Huỳnh Thị Sương. Ngày 04/7/2006, bà Sương đến
UBND phường M ký Giấy cam kết chuyển giao quyền đứng tên lô đất số 130, phân khu
B3, địa chỉ khu dân cư Nam Phan Bá Phiến cho vợ chồng ông C, bà B và đã được
UBND phường M xác nhận có sự mua bán lô đất trên, ông C đã giao đủ số tiền cho bà
Sương, đến tháng 8/2006 thì bà Sương hoàn thành các thủ tục và sau đó đã giao đủ giấy
tờ lô đất trên cho vợ chồng ông C, bà B (gia đình bà B đã xây dựng nhà ở kiên cố).
Tháng 10/2006, bà Sương đến gặp và yêu cầu ông C, bà B đưa các giấy tờ đất
cho bà Sương để bà Sương đem đi điều chỉnh lại số lô, từ 130 sang 130A để có thời hạn
nợ tiền đất 10 năm. Vì tin tưởng nên ông C, bà B đã giao toàn bộ các giấy tờ của lô đất
số 130-B3, KDC Nam Phan Bá Phiến cho bà Sương đi chỉnh sửa.
Sau khi nhận được các giấy tờ pháp lý của lô đất số 130-B3, KDC Nam Phan Bá
Phiến do vợ chồng bà B giao, ngày 02/11/2006 bà Sương tiếp tục ký Giấy cam kết bán
3
lô đất này cho vợ chồng ông Ngô Tấn S và bà Trần Thị H. Ngày 14/12/2006, bà Sương
đưa vợ chồng ông S đến UBND phường Thọ Quang ký Giấy cam kết và chứng thực về
việc chuyển giao quyền đứng tên lô đất 130-B3 cho vợ chồng ông S và bà Sương đã chỉ
lô đất 130-B3 cho ông S làm nhà.
Đến khoảng tháng 10/2010, bà Sương bị khởi tố về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài
sản” và phải chấp hành hình phạt tù theo Bản án số 21/2010/HSST ngày 25, 26/11/2010
của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng. Tại trang 15 Bản án số 21/2010/HSST nêu
trên đã xác định giao dịch mua bán giữa vợ chồng ông C, bà B với bà Huỳnh Thị Sương
là giao dịch hợp pháp, được pháp luật công nhận. Còn ông Ngô Tấn S và bà Trần Thị
H là bị hại do hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của bà Huỳnh Thị Sương. Sau đó, để
giải quyết cho 07 hộ dân là bị hại trong vụ án bà Huỳnh Thị Sương lừa đảo chiếm đoạt
tài sản, tại Văn bản số 2130/VP-QLĐBGT ngày 05/7/2011 của Văn phòng UBND thành
phố Đà Nẵng về việc “Thẩm định đơn giá chuyển quyền sử dụng đất đối với 07 lô đất”
đã thống nhất: Hộ ông Ngô Tấn S và bà Trần Thị lô số 130A, PK B3, đường 5,5m Khu
dân cư Nam Phan Bá Phiến.
Nhưng hiện nay, ông Ngô Tấn S và bà Trần Thị H được Sở Tài Nguyên và Môi
trường thành phố Đ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài
sản gắn liền trên đất (GCNQSDĐất) số BR 729074 ngày 28/3/2014 đối với lô đất số
130, PK B3, đường 5,5m Khu dân cư Nam Phan Bá Phiến (trên giấy tờ hợp pháp lô đất
này là của vợ chồng ông C, bà B).
Căn cứ theo những nội dung trên, việc UBND quận S ra Quyết định giao đất số
1258/QĐ-UBND ngày 17/3/1014 và Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đ cấp
GCNQSDĐất cho lô 130-B3 (lô đất gia đình ông C, bà B đã mua hợp pháp) là chưa
đúng quy định của pháp luật, sai so với Bản án số 21/2010/HSST và làm sai với Văn
bản số 2130/VP-QLĐBGT của Văn phòng UBND thành phố Đà Nẵng nên đã xâm
phạm trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình bà B. Gia đình bà B là những
người sử dụng, quản lý hợp pháp đối với lô đất 130, PK-B3 nhưng UBND quận Sơn
Trà đã ra Quyết định giao đất và Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố ra quyết định
cấp GCNQSDĐất cho ông S, bà H. Các quyết định này đã xâm phạm nghiêm trọng đến
quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình ông C, bà B.
Do đó bà Ngô Thị B làm đơn khởi kiện yêu cầu Toà án tuyên huỷ Quyết định số
1258/QĐ-UBND ngày 17/3/2014 của UBND quận Sơn Trà về việc giao đất cho ông
Ngô Tấn S và bà Trần Thị H và huỷ GCNQSDĐất số BR 729074, số vào số cấp CTs
34314 do Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đà Nẵng cấp ngày 28/3/2014 cho
ông Ngô Tấn S, bà Trần Thị H.
* Trong quá trình tham gia tố tụng và tại phiên toà, đại diện theo uỷ quyền của
người bị kiện UBND quận S là ông Huỳnh Văn H trình bày:
- Về việc ban hành Quyết định số 1258/QĐ-UBND ngày 17/3/2014 của UBND
quận S về việc giao đất cho ông Ngô Tấn S và bà Trần Thị H:
Theo hồ sơ lưu trữ về việc giao đất đối với thửa đất số 130-B3, KDC phía Nam
đường Phan Bá Phiến, phường Thọ Quang thể hiện:
4
Ngày 26/02/2014, Công ty cổ phần Đầu tư phát triển nhà Đ có Tờ trình số 80/TTr-
NDN về việc đề nghị ban hành Quyết định giao đất và cấp GCNQSDĐất cho người
chuyển đổi tên đã nộp đủ 100% tiền sử dụng đất là ông Ngô Tấn S và bà Trần Thị H
(người được bố trí tái định cư là ông Trương Văn Ba, bà Huỳnh Thị Sương) lô đất số
130 phân khu B3 Khu dân cư Nam Phan Bá Phiến, quận Sơn Trà.
Tại hồ sơ do Công ty Cổ phần Đầu tư phát triển nhà Đ nộp kèm theo Tờ trình số
80/TTr-NDN có: Hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất số 174/HĐ-NPBP ngày
17/8/2006 giữa bên chuyển quyền sử dụng đất là Công ty cổ phần Đầu tư phát triển nhà
Đ và bên nhận chuyển quyền sử dụng đất là bà Huỳnh Thị Sương đối với lô đất nêu
trên; Phụ lục hợp đồng số 151PL/HĐ-NPBP ngày 26/02/2014 giữa bên chuyển quyền
sử dụng đất là Công ty cổ phần Đầu tư phát triển nhà Đ và bên nhận chuyển quyền sử
dụng đất là ông Ngô Tấn S và bà Trần Thị H đối với lô đất nêu trên; Giấy cam kết “V/v
Giao quyền đứng tên trong GCNQSD đất TĐC” giữa bên chuyển đổi tên là ông Trương
Văn Ba, bà Huỳnh Thị Sương và bên nhận chuyển đổi tên là ông Ngô Tấn S và bà Trần
Thị H được UBND phường Thọ Quang xác nhận ngày 14/12/2006; Phiếu phân lô đứng
tên bà Huỳnh Thị Sương cấp ngày 03/7/2006; Quyết định số 1660/QĐ-UB ngày
08/3/2005 của Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng về việc phê duyệt mức hỗ trợ và bố
trí tái định cư; Biên bản bàn giao đất “lô đất số 130/B3-KDC phía Nam đường Phan Bá
Phiến” do Công ty cổ phần Đầu tư phát triển nhà Đ lập ngày 08/8/2006; Biên lai thu tiền
số 0031370 ngày 30/12/2013.
Ngày 17/3/2014, UBND quận S ban hành Quyết định số 1258/QĐ-UBND về
việc giao đất cho ông Ngô Tấn S và bà Trần Thị H đối với lô đất nêu trên.
Về thẩm quyền ban hành quyết định giao đất: UBND quận S ban hành Quyết
định số 1258/QĐ-UBND về việc giao đất cho ông Ngô Tấn S và bà Trần Thị H theo
quy định tại khoản 2 Điều 37 Luật Đất đai năm 2003.
Về nội dung của quyết định giao đất: UBND quận S căn cứ vào hồ sơ do Công
ty cổ phần Đầu tư phát triển nhà Đ nộp kèm theo Tờ trình số 80/TTr-NDN.
Về trình tự, thủ tục giao đất thực hiện theo Công văn số 11895/UBND-QLĐTh
ngày 31/12/2013 của UBND thành phố Đà Nẵng (tại Công văn số 11895/UBND-
QLĐTh thì các Ban quản lý dự án, các Công ty, các Ban giải tỏa đền bù, Trung tâm
(gọi tắt là đơn vị thực hiện giao đất) được UBND thành phố giao nhiệm vụ bố trí đất
tái định cư có trách nhiệm xác lập hồ sơ giao đất tái định cư, biên bản bàn giao đất thực
tế, trích lục sơ đồ thửa đất, các giấy tờ khác có liên quan và chịu trách nhiệm đối với số
liệu về diện tích đất, kích thước, hình thể thửa (lô) đất được giao và việc giao đất phải
đảm bảo đúng với phương án tái định cư đã được cơ quan thẩm quyền phê duyệt hoặc
Quyết định của UBND thành phố) và Công văn số 8291/UBND-QLĐTh ngày
19/9/2013 của UBND thành phố Đà Nẵng (liên quan đến việc cho phép giải quyết lần
đầu theo đề nghị đối với trường hợp người nhận quyền sử dụng đất thuộc diện giải tỏa,
di dời, bố trí đất tái định cư, nếu đã nộp đủ tiền theo quy định nhưng chưa được cấp
GCNQSDĐất, có nhu cầu chuyển đổi tên).
- Về hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài
sản khác gắn liền với đất số số BR 729074, số vào sổ cấp CTs 34314 do Sở Tài nguyên

5
và Môi trường thành phố Đà Nẵng cấp ngày 28/3/2014 cho ông Ngô Tấn S và bà Trần
Thị H:
Ông Ngô Tấn S và bà Trần Thị H được Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố
Đ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất (sau đây viết tắt là Giấy chứng nhận) số BR 729074 ngày 28/3/2014 đối với thửa
đất số 130, tờ bản đồ số B3 Khu dân cư Nam Bá Phiến, phường Thọ Quang, quận Sơn
Trà.
Theo hồ sơ lưu trữ cấp Giấy chứng nhận, cơ sở cấp Giấy chứng nhận đối với thửa
đất nêu trên:
Ngày 26/02/2014, Công ty cổ phần Đầu tư phát triển nhà Đ có Tờ trình số 80/TTr-
NDN về việc đề nghị ban hành Quyết định giao đất và cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho người chuyển đổi tên đã nộp đủ 100% tiền sử dụng đất là ông Ngô Tấn S
và bà Trần Thị H (người được bố trí tái định cư là ông Trương Văn Ba, bà Huỳnh Thị
Sương) lô đất số 130 phân khu B3 Khu dân cư Nam Phan Bá Phiến, quận Sơn Trà.
Tại hồ sơ do Công ty cổ phần Đầu tư phát triển nhà Đ nộp kèm theo Tờ trình số
80/TTr-NDN có Hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất số 174/HĐ-NPBP ngày
17/8/2006 giữa bên chuyển quyền sử dụng đất là Công ty Cổ phần đầu tư phát triển nhà
Đ và bên nhận chuyển quyền sử dụng đất là bà Huỳnh Thị Sương đối với lô đất nêu
trên; Phụ lục hợp đồng số 151PL/HĐ-NPBP ngày 26/2/2014 giữa bên chuyển quyền sử
dụng đất là Công ty cổ phần Đầu tư phát triển nhà Đ và bên nhận chuyển quyền sử dụng
đất là ông Ngô Tấn S và bà Trần Thị H đối với lô đất nêu trên; Giấy cam kết “V/v Giao
quyền đứng tên trong Giấy CNQSD đất TĐC” giữa bên chuyển đổi tên là ông Trương
Văn Ba, bà Huỳnh Thị Sương và bên nhận chuyển đổi tên là ông Ngô Tấn S và bà Trần
Thị H được UBND phường Thọ Quang xác nhận ngày 14/12/2006; Phiếu phân lô đứng
tên bà Huỳnh Thị Sương cấp ngày 03/7/2006; Quyết định số 1660/QĐ-UB ngày
08/3/2005 của Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng về việc phê duyệt mức hỗ trợ và bố
trí tái định cư; Biên bản bàn giao đất “lô đất số 130/B3-KDC phía Nam đường Phan Bá
Phiến” do Công ty cổ phần Đầu tư phát triển nhà Đ lập ngày 08/8/2006; Biên lai thu tiền
số 0031370 ngày 30/12/2013.
Ngày 17/3/2014, UBND quận S ban hành Quyết định số 1258/QĐ- UBND
về việc giao đất cho ông Ngô Tấn S và bà Trần Thị H đối với lô đất nêu trên.
Trên cơ sở Quyết định số 1258/QĐ-UBND về việc giao đất cho ông Ngô Tấn
S, bà Trần Thị H và hồ sơ do Công ty cổ phần Đầu tư phát triển nhà Đ lập (trong
đó thể hiện cụ thể số lô, phân khu và thể hiện đã nộp đủ tiền sử dụng đất đối với lô
đất nêu trên), Chi nhánh Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất thành phố Đà Nẵng
tại quận Sơn Trà đã lập hồ sơ chuyển Cơ quan Thuế và trình Văn phòng Đăng ký
quyền sử dụng đất thành phố Đà Nẵng xem xét, trình Sở Tài nguyên và Môi trường
cấp Giấy chứng nhận số BR 729074 cho ông Ngô Tấn S và bà Trần Thị H đối với
thửa đất nêu trên.
Về trình tự, thủ tục giao đất và cấp Giấy chứng nhận đối với lô đất nêu trên,
Chi nhánh Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất thành phố Đà Nẵng tại quận Sơn
Trà (nay là Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai quận Sơn Trà) đã thực hiện theo

6
Công văn số 11895/UBND-QLĐTh ngày 31/12/2013 của UBND thành phố Đà
Nẵng và Công văn số 8291/UBND-QLĐTh ngày 19/9/2013 của UBND thành phố
Đà Nẵng.
- Liên quan đến việc rà soát lại hồ sơ giao đất và cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BR 729074, số
vào sổ cấp CTs 34314 do Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đ cấp ngày
28/3/2014 cho ông Ngô Tấn S và bà Trần Thị H:
Ngày 06/11/2023, UBND quận S nhận được đơn của bà Ngô Thị B với nội
dung đề nghị kiểm tra và rà soát hồ sơ cấp GCNQSD đất của ông Ngô Tấn S và bà
Trần Thị H tại lô đất 130-B3 đường 5,5m KDC Nam Phan Bá Phiến và cấp lại
GCNQSD đất cho bà Ngô Thị B và ông Trịnh Văn C. UBND quận Sơn Trà đã tiến
hành rà soát hồ sơ, thu thập tài liệu từ các đơn vị có liên quan và đã báo cáo UBND
thành phố theo Báo cáo số 147/BC-UBND ngày 22/5/2024. UBND thành phố đã
giao Sở Tài nguyên và Môi trường kiểm tra, tham mưu UBND thành phố xử lý.
Qua quá trình rà soát hồ sơ, UBND quận S nhận thấy Công ty ổ phần Đầu tư
phát triển nhà Đ lập hồ sơ để trình ban hành Quyết định giao đất và cấp Giấy chứng
nhận cho ông Ngô Tấn S, bà Trần Thị H là chưa đúng quy định, cụ thể như sau:
Bà Huỳnh Thị Sương và ông Trương Văn Ba là hộ giải tỏa Dự án Khu công
nghiệp và Dịch vụ Thủy sản Thọ Quang và được bố trí 01 lô đất phụ đường 5,5m.
Ngày 03/7/2006, Ban GTĐB các dự án ĐTXD số 2 cấp Phiếu phân lô đất phụ cho
bà Huỳnh Thị Sương tại lô 130-B3 đường 5,5m KDC Nam Phan Bá Phiến và đề
nghị Công ty Đầu tư Phát triển Nhà giao đất cho chủ hộ.
Ngày 08/8/2006, Công ty Đầu tư phát triển nhà Đ bàn giao lô đất số 130-B3
KDC phía Nam đường Phan Bá Phiến cho bà Huỳnh Thị Sương. Ngày 17/8/2006,
Công ty Đầu tư phát triển nhà Đ ký Hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất số
174/HĐ-NPBP cho bà Huỳnh Thị Sương lô đất số 130-B3 KDC phía Nam đường
Phan Bá Phiến với đơn giá hộ phụ là 1.200.000đ/m
2
, tổng giá trị hợp đồng
97.200.000 đồng, nợ tiền sử dụng đất quy ra vàng 98% là 78,77 chỉ (trả chậm trong
10 năm không tính lãi).
Ông Ngô Tấn S - bà Trần Thị H và bà Ngô Thị B - ông Trịnh Văn C là các
cá nhân có liên quan đến vụ án “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” của bà Huỳnh Thị
Sương đã được Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm và tuyên theo
Bản án số 21/2010/HSST ngày 25, 26/11/2010 và Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà
Nẵng xét xử phúc thẩm và tuyên theo Bản án số 113/2011/HSPT ngày 09/3/2011.
Tại trang 15 của Bản án sơ thẩm số 21/2010/HSST có nêu:
“Mặc dù tại phiên tòa vợ chồng ông Ngô Tấn S, bà Trần Thị H và luật sư
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông S, bà H cho rằng ông S, bà H không phải
là người bị hại vì ông bà đã mua lô đất số 130-B3 KDC Nam Phan Bá Phiến của
Huỳnh Thị Sương có hồ sơ giấy tờ đầy đủ, đã qua phường chứng thực và ông S bà
H đã làm nhà đúng trên lô đất số 130 của mình nhưng qua lời khai của bị cáo
Sương, của vợ chồng ông Trịnh Văn C và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thể hiện,
thì Huỳnh Thị Sương đã bán lô đất số 130-B3 KDC Nam Phan Bá Phiến cho vơợ

7
chồng ông Trịnh Văn C và bà Ngô Thị B. Ngày 04/7/2006, Sương cùng vợ chồng
ông C đến UBND phường Mân Thái ký cam kết chuyển giao quyền đứng tên lô đất
trên cho ông C bà B và được UBND phường M chứng thực. Vợ chồng ông C đã trả
đủ tiền cho Sương và sau đó Sương cũng giao đủ các loại giấy tờ liên quan đến lô
đất cho vợ chồng ông C như hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất giữa Công ty Đầu
tư và phát triển nhà Đ với Sương, biên bản bàn giao đất của Công ty, giấy cam kết
chuyển giao quyền đứng tên lô đất, những hồ sơ này đã được lưu giữ tại Công ty
Đầu tư và phát triển nhà Đ. Nhưng đến ngày 02/11/2006, Sương tiếp tục ký giấy
cam kết bán lô đất trên cho vợ chồng ông Ngô Tấn S bà Trần Thị H với giá 44 triệu
đồng và ngày 14/12/2006 Sương đưa vợ chồng ông S đến UBND phường Thọ
Quang ký giấy cam kết và chứng thực việc chuyển giao quyền đứng tên lô đất cho
vợ chồng ông S, tại đây Sương cũng đã giả chữ ký ông Trương Văn Ba (chồng của
Sương) vào trong giấy cam kết, sau đó chỉ đất cho vợ chồng ông S làm nhà. Như
vậy, Sương đã có hành vi gian dối để chiếm đoạt của vợ chồng ông S số tiền 44
triệu đồng nên Cáo trạng truy tố Sương có hành vi lừa đảo chiếm đoạt của vợ chồng
ông S số tiền 44 triệu đồng là có căn cứ. Còn có chăng việc vợ chồng ông C làm
nhà không đúng số lô đất Sương đã bán cho vợ chồng ông C thì chỉ là sai sót của
nhân viên Công ty Đầu tư và phát triển nhà Đ và vợ chồng ông Chua trong việc
xác định vị trí đất để vợ chồng ông C làm nhà và đây là một quan hệ khác, nếu giữa
công ty và vợ chồng ông C có tranh chấp thì giải quyết với nhau.”.
Tại trang 19 của Bản án sơ thẩm số 21/2010/HSST, Tòa tuyên bị cáo Huỳnh
Thị Sương phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, xử 15 năm tù và buộc bồi thường
lại số tiền chiếm đoạt cho các bị hại, trong đó bồi thường cho vợ chồng ông Ngô
Tấn S - bà Trần Thị H là 44 triệu đồng.
Ngày 26/5/2011, Công ty cổ phần Đầu tư phát triển nhà Đ có Tờ trình số
671/TTr-NDN về việc đề nghị bố trí tái định cư cho 07 hộ dân bị hại trong vụ án
bà Huỳnh Thị Sương lừa đảo tại quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng, theo đó đề xuất
UBND thành phố cho phép chuyển quyền sử dụng đất cho 07 hộ mỗi hộ một lô đất
diện hộ phụ, theo giá tại Quyết định 121/2003/QĐ-UBND ngày 24/12/2003, cho
nợ 100% quy ra vàng 98% trong thời hạn 10 năm.
Ngày 05/7/2011, Văn phòng UBND thành phố có Công văn số 2130/VP-
QLĐBGT về việc thẩm định đơn giá chuyển quyền sử dụng đất với 07 lô đất, với
nội dung:
“Xét nội dung Tờ trình số 671/TTr-NDN ngày 26/5/2011 của Công ty Cổ
phần Đầu tư phát triển nhà Đ về việc đề nghị bố trí đất tái định cư cho 07 hộ dân
bị hại trong vụ án bà Huỳnh Thị Sương lừa đảo tại quận Sơn Trà, thành phố Đà
Nẵng; tại cuộc họp giao ban ngày 13/6/2011, Chủ tịch và các Phó Chủ tịch UBND
thành phố đã thống nhất (theo Thông báo số 162/TB-VP ngày 20/6/2011 của Văn
phòng UBND thành phố) như sau:
1. Đồng ý chủ trương chuyển quyền sử dụng đất 07 lô đất (06 lô tại KDC
Nam Phan Bá Phiến và 01 lô tại KDC Mân Thái 2 mở rộng) cho 07 hộ dân có tên
sau đây:

8
1.1. Hộ ông Phạm Bá Hội và bà Phan Thị Kim Anh, lô đất số 56, PK B4
đường 7,5m KDC Nam Phan Bá Phiến.
…
1.6. Hộ ông Ngô Tấn S và bà Trần Thị H lô số 130a, PK B3 đường 5,5m
KDC Nam Phan Bá Phiến.
1.7. Hộ ông Huỳnh Văn Bảy, lô đất số 16, PK L7 đường 7,5m KDC Mân Thái
2 mở rộng.
2. Giao Sở Tài chính (cơ quan thường trực Hội đồng thẩm định giá đất thành
phố) xác định đơn giá chuyển quyền theo giá thị trường đối với 07 lô đất tại Điểm
1 nêu trên báo cáo UBND thành phố xem xét phê duyệt.”.
Ngày 05/9/2011, UBND thành phố có Quyết định số 7623/QĐ-UBND về
Quy định giá đất để thu tiền sử dụng đất đối với 07 lô đất do Công ty cổ phần Đầu
tư phát triển nhà Đ quản lý, trong đó giá đất đường N (đường 5,5m) KDC Nam
Phan Bá Phiến là 8.480.000 đồng/m
2
.
Hồ sơ đề nghị giao đất và cấp GCNQSDĐất cho ông Ngô Tấn S và bà Trần
Thị H do Công ty cổ phần Đầu tư phát triển nhà Đ lập và chuyển đến UBND quận
Sơn Trà, Chi nhánh Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất một cấp thành phố Đà
Nẵng tại quận Sơn Trà không đầy đủ thông tin, không có các hồ sơ sau: Bản án số
21/2010/HSST ngày 25, 26/11/2010 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng; Bản
án số 113/2011/HSPT ngày 09/3/2011 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng;
Công văn số 2130/VP-QLĐBGT ngày 05/7/2011 của Văn phòng UBND thành phố
và Quyết định số 7623/QĐ-UBND ngày 05/9/2011 của UBND thành phố.
Theo nội dung Bản án số 21/2010/HSST ngày 25, 26/11/2010 thì Giấy cam
kết chuyển đổi tên của vợ chồng ông Trương Văn Ba, bà Huỳnh Thị Sương cho vợ
chồng ông Ngô Tấn S, bà Trần Thị H ngày 14/12/2006 do UBND phường Thọ
Quang xác nhận là không đúng do bà Huỳnh Thị Sương đã giả chữ ký ông Trương
Văn Ba (chồng của Sương).
Công văn số 2130/VP-QLĐBGT ngày 05/7/2011 của Văn phòng UBND
thành phố: UBND thành phố Đà Nẵng thống nhất chuyển quyền cho hộ ông Ngô
Tấn S và bà Trần Thị H lô số 130a, PK B3 đường 5,5m KDC Nam Phan Bá Phiến.
Quyết định số 7623/QĐ-UBND ngày 05/9/2011 của UBND thành phố quy
định giá đất đường N (đường 5,5m) KDC Nam Phan Bá Phiến là 8.480.000
đồng/m
2
. Tuy nhiên, giá đất để tính thu tiền sử dụng đất theo Phụ lục Hợp đồng số
151PL/HĐ-NPBP là 1.200.000 đồng/m
2
.
Bên cạnh đó, theo hồ sơ do Công ty cổ phần Đầu tư phát triển nhà Đ trình
cấp Giấy chứng nhận cho ông S, bà H thì tại sơ đồ thể hiện thứ tự từ hướng đông
sang là lô đất 129-B3 đến lô 130A-B3 và đến lô 130-B3 nhưng theo sơ đồ Bàn giao
quỹ đất KDC Nam Phan Bá Phiến của Công ty cổ phần Đầu tư phát triển nhà Đ là
bên giao (có đóng dấu) thì thể hiện thứ tự từ hướng đông sang là lô đất 129-B3 đến
lô 130-B3 và đến lô 130A-B3. Hiện nay, thực tế thứ tự từ hướng đông sang là ngôi

9
nhà ông Trịnh Văn C, bà Ngô Thị B đang sử dụng và tiếp đến là ngôi nhà ông Ngô
Tấn S và bà Trần Thị H đang sử dụng.
Căn cứ vào tài liệu và các phân tích nêu trên, UBND quận S nhận định việc
ban hành Quyết định giao đất và cấp Giấy chứng nhận cho ông Ngô Tấn Sơn, bà
Trần Thị H theo hồ sơ do Công ty cổ phần Đầu tư phát triển nhà Đ nộp là chưa
đúng quy định.
* Trong quá trình tham gia tố tụng và tại phiên toà, đại diện theo uỷ quyền
của người bị kiện Sở Nông nghiệp và Môi trường thành phố Đ là ông Trần Quốc H
vắng mặt, tuy nhiên có Văn bản số 304/STNMT-VPĐKĐĐ ngày 15/01/2024 về việc
nêu quan điểm vụ án như sau:
- Đối với nội dung đề nghị hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BR 729074, số vào sổ cấp CTs
34314 do Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đ cấp ngày 28/3/2014 cho ông
Ngô Tấn S và bà Trần Thị H:
Về việc cấp Giấy chứng nhận số BR 729074 cho ông Ngô Tấn S, bà Trần
Thị H: Ông S và bà H được Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đ cấp Giấy
chứng nhận số BR 729074 ngày 28/3/2014 đối với thửa đất số 130, tờ bản đồ số B3
Khu dân cư Nam Bá Phiến, phường Thọ Quang, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng.
Theo hồ sơ lưu trữ cấp Giấy chứng nhận, cơ sở cấp Giấy chứng nhận đối với
thửa đất nêu trên: Ngày 26/02/2014, Công ty cổ phần Đầu tư phát triển nhà Đ có
Tờ trình số 80/TTr-NDN về việc đề nghị ban hành Quyết định giao đất và cấp
GCNQSDĐất cho người chuyển đổi tên đã nộp đủ 100% tiền sử dụng đất là ông
Ngô Tấn S và bà Trần Thị H (người được bố trí tái định cư là ông Trương Văn Ba,
bà Huỳnh Thị Sương) lô đất số 130 phân khu B3 Khu dân cư Nam Phan Bá Phiến,
quận Sơn Trà. Tại hồ sơ do Công ty cổ phần Đầu tư phát triển nhà Đ nộp kèm theo
Tờ trình số 80/TTr-NDN có Hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất số 174/HĐ-NPBP
ngày 17/8/2006 giữa bên chuyển quyền sử dụng đất là Công ty cổ phần Đầu tư phát
triển nhà Đ và bên nhận chuyển quyền sử dụng đất là bà Huỳnh Thị Sương đối với
lô đất nêu trên; Phụ lục hợp đồng số 151/HĐ- NPBP ngày 26/02/2014 giữa bên
chuyển quyền sử dụng đất là Công ty cổ phần Đầu tư phát triển nhà Đ và bên nhận
chuyển quyền sử dụng đất là ông Ngô Tấn S và bà Trần Thị H đối với lô đất nêu
trên; Giấy cam kết “V/v Giao quyền đứng tên trong Giấy CNQSD đất TĐC” giữa
bên chuyển đổi tên là ông Trương Văn Ba, bà Huỳnh Thị Sương và bên nhận chuyển
đổi tên là ông Ngô Tấn S và bà Trần Thị H được UBND phường Thọ Quang xác
nhận ngày 14/12/2006; Phiếu phân lô đứng tên bà Huỳnh Thị Sương cấp ngày
03/7/2006; Quyết định số 1660/QĐ-UB ngày 08/3/2005 của Chủ tịch UBND thành
phố Đà Nẵng về việc phê duyệt mức hỗ trợ và bố trí tái định cư; Biên bản bàn giao
đất “lô đất số 130/B3 - KDC phía Nam đường Phan Bá Phiến” do Công ty cổ phần
Đầu tư phát triển nhà Đ lập ngày 08/8/2006; Biên lai thu tiền số 0031370 ngày
30/12/2013. Ngày 17/3/2014, UBND quận S ban hành Quyết định số 1258/QĐ-
UBND ngày 17/3/2014 về việc giao đất cho ông Ngô Tấn S và bà Trần Thị H đối
với lô đất nêu trên.

10
Trên cơ sở Quyết định số 1258/QĐ-UBND về việc giao đất cho ông Ngô Tấn
S, bà Trần Thị H và hồ sơ do Công ty cổ phần Đầu tư phát triển nhà Đ lập (trong
đó thể hiện cụ thể số lô, phân khu và thể hiện đã nộp đủ tiền sử dụng đất đối với lô
đất nêu trên), Chi nhánh Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất thành phố Đà Nẵng
tại quận Sơn Trà đã lập hồ sơ chuyển Cơ quan Thuế và trình Văn phòng Đăng ký
quyền sử dụng đất thành phố Đà Nẵng xem xét, trình Sở Tài nguyên và Môi trường
cấp Giấy chứng nhận BR 729074 cho ông Ngô Tấn S và bà Trần Thị H đối với thửa
đất nêu trên.
Về trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận đối với lô đất nêu trên: Sở Tài
nguyên và Môi trường thành phố Đ đã thực hiện đảm bảo theo đúng trình tự, thủ
tục nêu tại Công văn số 11895/UBND-QLĐTh ngày 31/12/2013 của UBND thành
phố Đà Nẵng và Công văn số 8291/UBND-QLĐTh ngày 19/9/2013 của UBND
thành phố Đà Nẵng liên quan đến việc cho phép giải quyết lần đầu theo đề nghị đối
với trường hợp người nhận quyền sử dụng đất thuộc diện giải tỏa, di dời, bố trí đất
tái định cư, nếu đã nộp đủ tiền theo quy định nhưng chưa được cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, có nhu cầu chuyển đổi tên. Đồng thời, tại Công văn số
11895/UBND-QLĐTh thì các Ban quản lý dự án, các Công ty, các Ban giải tỏa đền
bù, Trung tâm (gọi tắt là đơn vị thực hiện giao đất) được UBND thành phố giao
nhiệm vụ bố trí đất tái định cư có trách nhiệm xác lập hồ sơ giao đất tái định cư,
biên bản bàn giao đất thực tế, trích lục sơ đồ thửa đất, các giấy tờ khác có liên quan
và chịu trách nhiệm đối với số liệu về diện tích đất, kích thước, hình thể thừa (lô)
đất được giao và việc giao đất phải đảm bảo đúng với phương án tái định cư đã
được cơ quan thẩm quyền phê duyệt hoặc Quyết định của UBND thành phố.
- Liên quan đến việc rà soát lại hồ sơ cấp Giấy chứng nhận số BR 729074,
số vào sổ cấp CTs 34314 do Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đ cấp ngày
28/3/2014 cho ông Ngô Tấn S và bà Trần Thị H. Ngày 22/5/2024, UBND quận S
có Báo cáo số 147/BC-UBND báo cáo UBND thành phố đối với nội dung Đơn của
bà Ngô Thị B về việc đề nghị kiểm tra và rà soát hồ sơ cấp cấp Giấy chứng nhận
cho ông Ngô Tấn S và bà Trần Thị H tại lô đất 130-B3 đường 5,5m KDC Nam Phan
Bá Phiến. Theo nội dung Báo cáo số 147/BC-UBND và đối chiếu các giấy tờ kèm
theo, Sở Tài nguyên và Môi trường nhận thấy:
Theo Công văn số 30/CV-NDN ngày 25/4/2024 về việc phản hồi và cung
cấp thông tin liên quan đến hồ sơ cấp Giấy chứng nhận đối với lô đất 130-B3 KDC
Nam Phan Bá Phiến của Công ty cổ phần Đầu tư phát triển nhà Đ gửi UBND quận
S có các giấy tờ sau (giấy tờ này Công ty không cung cấp khi đề nghị cấp Giấy
chứng nhận cho ông Ngô Tấn S, bà Trần Thị H): Bản án số 21/2010/HS-ST ngày
24, 26/11/2010 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng; Bản án số 113/2011/HS-
PT ngày 09/3/2011 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng; Tờ
trình số 671/TTr-NDN ngày 26/5/2011 của Công ty cổ phần Đầu tư phát triển nhà
Đà Nẵng; Công văn số 2130/VP-QLĐBGT ngày 05/7/2011 của Văn phòng UBND
thành phố Đà Nẵng; Quyết định số 7623/QĐ-UBND ngày 05/9/2011 của UBND
thành phố Đà Nẵng.

11
Theo Bản án số 21/2010/HS-ST tại phần Nhận thấy trang 9 của Bản án nêu:
“Năm 2005, hộ bà Huỳnh Thị Sương, Trương Văn Ba (tổ 19, Nại Hiên Đông, quận
Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng) bị giải tỏa ... và được ban GTĐB các dự án ĐTXD
số 02 ĐN bố trí tái định cư lô đất số 130, phân khu B3, đường 5,5m KDC PBP.
Ngày 29/6/2006, Sương bán lô đất trên cho ông Trịnh Văn C, bà Ngô Thị B... Ngày
04/7/2006, Huỳnh Thị Sương cùng ông Trịnh Văn C đến UBND phường M ký cam
kết chuyển giao quyền đứng tên lô đất số 130- B3 cho ông C, bà B và đã được
UBND phường M chứng thực. Đến tháng 8/2006 thì Sương ký hợp đồng chuyển
quyền sử dụng đất với Công ty cổ phần Đầu tư phát triển nhà Đ, hoàn thành các thủ
tục nhận đất và sau đó đã giao đủ các giấy tờ lô đất trên cho vợ chồng ông C. Đến
tháng 10/2006 thì Sương đến gặp ông C và nói với ông C là đưa các giấy tờ đất cho
Sương để Sương đem đi điều chỉnh lại số lô, từ 130 đến 130A để có thời hạn nợ
tiền sử dụng đất 10 năm, ông C tin nên đã giao toàn bộ các giấy tờ của lô đất số
130-B3 Nam Phan Bá Phiến cho Sương nhận. Sau khi nhận được các giấy tờ pháp
lý của lô đất số 130-B3 Nam Phan Bá Phiến do ông C giao, ngày 02/11/2006 Sương
tiếp tục ký Giấy cam kết bán lô đất này cho vợ chồng ông Ngô Tấn S, bà Trần Thị
H với giá không bao sổ đỏ là 44.000.000 đồng... Ngày 14/12/2006, Sương đưa vợ
chồng ông S đến UBND phường Thọ Quang ký cam kết và chứng thực v/v chuyển
giao quyền đứng tên lô đất 130-B3 cho vợ chồng ông S, ông S đã giao cho Sương
nhận đủ số tiền đất; Sương đã chỉ lô đất 130A-B3 cho ông S làm nhà. Ngày
08/01/2009 ông S tiến hành làm nhà ở trên lô đất 130A-B3. Ngày 09/01/2009 Công
ty Công ty cổ phần Đầu tư phát triển nhà Đ phát hiện và phối hợp cùng UBND
phường Thọ Quang tiến hành kiểm tra lập biên bản việc ông S xây nhà trái phép.
Lô đất 130A-B3 Công ty Công ty cổ phần Đầu tư phát triển nhà Đ đang quản lý.
Như vậy, qua việc mua bán trên Sương đã thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt của
vợ chồng ông Ngô Tấn S số tiền 44.000.000 đồng.”.
Tại phần xét thấy trang 15 của Bản án sơ thẩm số 21/2010/HS-ST nêu: “Mặc
dù tại phiên tòa vợ chồng ông Ngô Tấn S, bà Trần Thị H và luật sư bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp cho ông S, bà H cho rằng ông S, bà H không phải là người bị
hại vì ông bà đã mua lô đất số 130-B3 KDC Nam Phan Bá Phiến của Huỳnh Thị
Sương có hồ sơ giấy tờ đầy đủ, đã qua phường chứng thực và ông S bà H đã làm
nhà đứng trên lô đất số 130 của mình nhưng qua lời khai của bị cáo Sương, của vợ
chồng ông Trịnh Văn C và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án thể hiện thì Huỳnh Thị
Sương đã bán lô đất số 130-B3 KDC Nam Phan Bá Phiến cho vợ chồng ông Trịnh
Văn C và bà Ngô Thị B. Ngày 04/7/2006, Sương cùng vợ chồng ông C đến UBND
phường M ký cam kết chuyển giao quyền đứng tên lô đất trên cho ông C bà B và
được UBND phường M chứng thực. Vợ chồng ông C đã trả đủ tiền cho Sương và
sau đó Sương cũng giao đủ các loại giấy tờ liên quan đến lô đất cho vợ chồng ông
C như hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất giữa Công ty Đầu tư và phát triển nhà
Đ với Sương, biên bản bàn giao đất của Công ty, giấy cam kết chuyển giao quyền
đứng tên lô đất, những hồ sơ này đã được lưu giữ tại Công ty Đầu tư và phát triển
nhà Đ. Nhưng đến ngày 02/11/2006, Sương tiếp tục ký giấy cam kết bán lô đất trên
cho vợ chồng ông Ngô Tấn S, bà Trần Thị H với giá 44 triệu đồng và ngày
14/12/2006 Sương đưa vợ chồng ông S đến UBND phường Thọ Quang ký giấy

12
cam kết và chứng thực việc chuyển giao quyền đứng tên lô đất cho vợ chồng ông
S, tại đây Sương cũng đã giả chữ ký ông Trương Văn Ba (chồng của Sương) vào
trong giấy cam kết, sau đó chỉ đất cho vợ chồng ông S làm nhà. Như vậy Sương đã
có hành vi gian dối để chiếm đoạt của vợ chồng ông S số tiền 44 triệu đồng nên cáo
trạng truy tố Sương có hành vi lừa đảo chiếm đoạt của vợ chồng ông S số tiền 44
triệu đồng là có căn cứ. Còn có chăng việc vợ chồng ông C làm nhà không đúng số
lô đất Sương đã bán cho vợ chồng ông Chua thì chỉ là sai sót của nhân viên Công
ty đầu tư và phát triển Nhà Đ và vợ chồng ông C trong việc xác định vị trí đất để
vợ chồng ông C làm nhà và đây là một quan hệ khác, nếu giữa công ty và vợ chồng
ông C có tranh chấp thì giải quyết với nhau.”. Tại phần Quyết định trang 19 của
Bản án sơ thẩm số 21/2010/HS-ST, có nêu: “Tuyên bị cáo Huỳnh Thị Sương phạm
tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản... Buộc bà Huỳnh Thị Sương phải bồi thường lại số
tiền chiếm đoạt cho các bị hại, trong đó bồi thường cho vợ chồng ông Ngô Tấn Sơn
- bà Trần Thị Hoa là 44.000.000 đồng...”. Như vậy, theo trích dẫn nội dung Bản án
sơ thẩm số 21/2010/HS-ST trên thì ông Ngô Tấn S, bà Trần Thị H là người bị hại
trong vụ án hình sự, bà Sương lừa đảo chiếm đoạt tài sản và buộc bà Sương bồi
thường cho ông Ngô Tấn S - bà Trần Thị H là 44.000.000 đồng. Còn đối với lô đất
số 130-B3 KDC Nam Phan Bá Phiến thì Huỳnh Thị Sương đã bán cho vợ chồng
ông Trịnh Văn C và bà Ngô Thị B. Ngày 04/7/2006, Sương cùng vợ chồng ông C
đến UBND phường Mân Thái ký cam kết chuyển giao quyền đứng tên lô đất trên
cho ông C bà B và được UBND phường Mân Thái chứng thực. Vợ chồng ông C đã
trả đủ tiền cho Sương và sau đó Sương cũng giao đủ các loại giấy tờ liên quan đến
lô đất cho vợ chồng ông C như hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất giữa Công ty
đầu tư và phát triển Nhà Đ với Sương, biên bản bàn giao đất của Công ty, giấy cam
kết chuyển giao quyền đứng tên lô đất, những hồ sơ này đã được lưu giữ tại Công
ty Đầu tư và phát triển nhà Đ.
Theo Công văn số 2130/VP-QLĐBGT ngày 05/7/2011 của Văn phòng
UBND thành phố Đà Nẵng: “Xét nội dung Tờ trình số 671/TTr-DND ngày
26/5/2011 của Công ty cổ phần Đầu tư phát triển nhà Đà Nẵng về việc đề nghị bố
trí đất tái định cư cho 07 hộ dân bị hại trong vụ án bà Huỳnh Thị Sương lừa đảo
tại quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng: Chủ tịch và các Phó Chủ tịch UBND thành
phố đã thống nhất như sau:
1. Đồng ý chủ trương chuyển quyền sử dụng đất 07 lô đất (06 lô tại KDC
Nam Phan Bá Phiến và 01 lô tại KDC Mân Thái 2 mở rộng) cho 07 hộ dân có tên
sau đây: …
1.6. Hộ ông Ngô Tấn S và bà Trần Thị H lô số 130a, PK B3 đường 5,5m
KDC Nam Phan Bá Phiến.
2. Giao Sở Tài chính (cơ quan thường trực Hội đồng thẩm định giá đất thành
phố) xác định đơn giá chuyển quyền theo giá thị trường đối với 07 lô đất tại Điểm
1 nêu trên báo cáo UBND thành phố xem xét phê duyệt.”.
Sau đó, UBND thành phố Đà Nẵng đã có Quyết định số 7623/QĐ-UBND
ngày 05/9/2011 về việc Quy định giá đất để thu tiền sử dụng đất đối với 07 lô đất
do Công ty cổ phần Đầu tư phát triển nhà Đ quản lý, trong đó giá đất đường N

13
(đường 5,5m) KDC Nam Phan Bá Phiến là 8.480.000 đồng/m² (Lô đất 130A thuộc
đường N).
Do đó, căn cứ theo Công văn số 2130/VP-QLĐBGT và Quyết định số
7623/QĐ-UBND thì trường hợp của ông S, bà H thuộc trường hợp được UBND
thành phố đồng ý chủ trương chuyển quyền sử dụng lô đất số 130A, PK B3 đường
5,5m KDC Nam Phan Bá Phiến và xác định đơn giá chuyển quyền theo giá thị
trường là 8.480.000 đồng/m². Tuy nhiên, tại hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận
cho ông Sơn, bà Hoa thì Công ty cổ phần Đầu tư phát triển nhà Đ xác định đơn giá
chuyển quyền sử dụng đất (hộ phụ) là 1.200.000đ/m².
Theo hồ sơ do Công ty cổ phần Đầu tư phát triển nhà Đ trình cấp Giấy chứng
nhận cho ông S, bà H thì tại sơ đồ thể hiện thứ tự từ hướng đông sang là lô đất 129
đến lô 130A và đến lô 130 nhưng theo sơ đồ Bàn giao quỹ đất KDC Nam Phan Bá
Phiến của Công ty cổ phần Đầu tư phát triển nhà Đ là bên giao (có đóng dấu) thì
thể hiện thứ tự từ hướng đông sang là lô đất 129 đến lô 130 và đến lô 130A. Hiện
nay, thực tế thứ tự từ hướng đông sang là ngôi nhà ông Trịnh Văn C, bà Ngô Thị B
đang sử dụng và tiếp đến là ngôi nhà ông Ngô Tấn S và bà Trần Thị H đang sử
dụng (có đính kèm hình ảnh). Từ những nội dung trên, xét thấy việc Công ty cổ
phần Đầu tư phát triển nhà Đ lập thủ tục đề nghị giao đất, cấp Giấy chứng nhận trên
cơ sở đã thu tiền sử dụng đất (theo đơn giá 1.200.000đ/m²) cho ông Ngô Tấn S và
bà Trần Thị H là không đúng bản chất nguồn gốc sử dụng đất theo Bản án sơ thẩm
số 21/2010/HS-ST và Công văn số 2130/VP-QLĐBGT và việc xác định nghĩa vụ
tài chính không đúng theo Quyết định số 7623/QĐ-UBND. Đồng thời, sơ đồ vị trí
lô đất đề nghị cấp Giấy chứng nhận cho ông S, bà H do Công ty cổ phần Đầu tư
phát triển nhà Đ lập cũng không đúng vị trí theo sơ đồ Bàn giao quỹ đất KDC Nam
Phan Bá Phiến của Công ty cổ phần Đầu tư phát triển nhà Đ là bên giao.
- Sở Tài nguyên và Môi trường có quan điểm đối với vụ án như sau:
Theo Bản án phúc thẩm số 113/2011/HS-PT ngày 09/3/2011, tại phần Nhận
thấy trang 5 của Bản án nêu: “... Nhằm đảm bảo quyền lợi của các hộ sau này, Toà
sơ thẩm tách mối quan hệ giữa Công ty cổ phần Đầu tư phát triển Nhà Đ với những
người bị hại ra để các bên thoả thuận giải quyết với nhau, nếu không được thì khiếu
kiện đến các cơ quan có thẩm quyền giải quyết là hợp tình hợp lý. Tại phiên toà
phúc thẩm, những người bị hại đề nghị Công ty phải có thiện chí tạo điều kiện đề
xuất lên UBND thành phố Đà Nẵng quan tâm xem xét, giúp đỡ để đảm bảo quyền
lợi cho họ được tiếp tục an cư trên những lô đất đã xây nhà. Đại diện Công ty ghi
nhận nguyện vọng này của những người bị hại và sẽ phối hợp cùng những người
bị hại đề xuất lên UBND thành phố Đà Nẵng để xem xét giải quyết. Xét quan điểm
của những người bị hại và của Công ty là phù hợp với tính nhân đạo của Nhà nước
và pháp luật,...”. Sau khi có Bản án phúc thẩm số 113/2011/HS-PT, Công ty cổ
phần Đầu tư phát triển nhà Đ có Tờ trình số 671/TTr-NDN ngày 26/5/2011 trình
UBND thành phố Đà Nẵng về việc đề nghị bố trí TĐC cho 07 hộ dân bị hại (mỗi
hộ 01 lô đất theo diện hộ phụ) trong vụ án bà Huỳnh Thị Sương, trong đó có hộ ông
Ngô Tấn S và bà Trần Thị H.

14
Ngày 05/7/2011, Văn phòng UBND thành phố Đà Nẵng đã có Công văn số
2130/VP-QLĐBGT ngày 05/7/2011 đồng ý chủ trương chuyển quyền sử dụng lô
đất số 130A, PK B3 đường 5,5m KDC Nam Phan Bá Phiến và ngày 05/9/2011,
UBND thành phố Đà Nẵng đã có Quyết định số 7623/QĐ-UBND về việc quy định
giá đất để thu tiền sử dụng đất đối với 07 lô đất do Công ty cổ phần Đầu tư phát
triển nhà Đ quản lý, trong đó giá đất đường N (đường 5,5m) KDC Nam Phan Bá
Phiến là 8.480.000 đồng/m². Căn cứ theo chủ trương và Quyết định giá đất nêu
trên, Công ty cổ phần Đầu tư phát triển nhà Đ có Tờ trình số 80/TTr-NDN về việc
đề nghị ban hành Quyết định giao đất và cấp GCNQSDĐất cho người chuyển đổi
tên đã nộp đủ 100% tiền sử dụng đất là ông Ngô Tấn Sn và bà Trần Thị H. Tuy
nhiên, tại hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận cho ông Sơn và bà Hoa thì Công ty
cổ phần Đầu tư phát triển nhà Đ xác định đơn giá chuyển quyền sử dụng đất (hộ
phụ) là 1.200.000đ/m². Ngày 17/3/2014, UBND quận Sơn Trà ban hành Quyết định
giao đất số 1258/QĐ-UBND đối với thửa đất số 130-B3, KDC phía Nam đường
Phan Bả Phiến, phường Thọ Quang, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng để cấp Giấy
chứng nhận cho ông Ngô Tấn S và bà Trần Thị H. Ngày 28/3/2014, Sở Tài nguyên
và Môi trường thành phố Đ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất có số phát hành BR 729074, số vào số cấp
CTs 34314 cho ông Ngô Tấn S và bà Trần Thị H đối với thửa đất số 130, tờ bản đồ
số B3, tại địa chỉ KDC Nam Bá Phiến, phường Thọ Quang, quận Sơn Trà, thành
phố Đà Nẵng. Từ những nội dung nêu trên, Sở Tài nguyên và Môi trường nhận thấy
việc cấp GCNQSDĐất cho ông Ngô Tấn S và bà Trần Thị H là không đúng bản chất
về nguồn gốc cũng như đơn giá đất của UBND thành phố quy định và sơ đồ vị trí
bàn giao đất bố trí của KDC phía Nam Phan Bá Phiến. Nguyên nhân xuất phát từ
hồ sơ do Công ty cổ phần Đầu tư phát triển nhà Đ xác lập, nộp và đề nghị cơ quan
có thẩm quyền giao đất và cấp Giấy chứng nhận đối với lô đất nêu trên cho ông
Ngô Tấn S và bà Trần Thị H.
Việc xác định nghĩa vụ tài chính theo Phụ lục hợp đồng số 151PL/HĐ- NPBP
ngày 26/2/2014 với giá 1.200.000đ/m² là không đúng theo giá đất UBND thành
phố quy định tại Công văn số 2130/VP-QLĐBGT ngày 05/7/2011 của Văn phòng
UBND thành phố Đà Nẵng và Quyết định số 7623/QĐ-UBND ngày 05/9/2011 của
UBND thành phố. Đồng thời theo điểm d, đ khoản 2 Điều 152 Luật Đất đai năm
2024 quy định các trường hợp đính chính, thu hồi, huỷ Giấy chứng nhận đã cấp như
sau:
“Điều 152. Đính chính, thu hồi, hủy giấy chứng nhận đã cấp: 2. Nhà nước
thu hồi giấy chứng nhận đã cấp trong các trường hợp sau đây: d. Giấy chứng nhận
đã cấp không đúng thẩm quyền, không đúng đối tượng sử dụng đất, không đúng
điện tích đất, không đủ điều kiện được cấp, không đúng mục đích sử dụng đất hoặc
thời hạn sử dụng đất hoặc nguồn gốc sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất
đai tại thời điểm cấp giấy chứng nhận; đ) Giấy chứng nhận đã cấp bị Tòa án có
thẩm quyền tuyên hủy;”.
Do đó, Sở Tài nguyên và Môi trường kính đề nghị Toà án nhân dân thành
phố Đà Nẵng xem xét, tuyên huỷ Giấy chứng nhận số BR 729074, số vào số cấp

15
CTS 34314 do Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đ cấp ngày 28/3/2014 cho
ông Ngô Tấn S và bà Trần Thị H.
* Tại phiên toà, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện
UBND quận S, ông Ưng Lê Khánh H trình bày:
Thống nhất với lời trình bày của người đại diện theo uỷ quyền của người bị
kiện UBND quận S, thành phố Đà Nẵng.
* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trình bày:
+ Trong quá trình tham gia tố tụng và tại phiên toà ông Ngô Tấn S và bà
Trần Thị H trình bày:
Năm 2006, vợ chồng chúng tôi đã mua lại phần đất của bà Huỳnh Thị Sương,
được UBND phường Thọ Quang xác nhận vào năm 2006, chúng tôi có nộp giấy tờ
đất lô 130, khu tái định cư Nam Phan Bá Phiến cho Công ty Cổ phần đầu tư phát
triển nhà Đ. Vợ chồng chúng tôi đã thực hiện đúng nghĩa vụ về đất đai, nộp tiền
đầy đủ vào ngân sách nhà nước theo quy định. Sau đó, Sở Tài nguyên và Môi trường
thành phố Đ đã xác nhận, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BR 729074, số vào số cấp CTs 34314. Vào
năm 2021, chúng tôi xin cấp phép cải tạo nhà ở và UBND quận S đã cấp giấy phép
cho làm nhà và từ thời điểm đó đến nay, chúng tôi luôn hoàn thành nghĩa vụ thuế
hằng năm cho Nhà nước.
Đề nghị Toà án giải quyết đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho chúng tôi,
cơ quan nào làm sai quy định thì cơ quan đó chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Chúng tôi đã hoàn thành nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước nên mới được Nhà
nước công nhận quyền sử dụng đất.
+ Tại phiên toà ông Trịnh Bá N trình bày:
Các ông (bà) Trịnh Thị N, Trịnh Thị N1, Trịnh Thị Như T, Trịnh Bá C, Trịnh
Thị Tuyết N, Trịnh Thị Xuân T và ông là con của ông Trịnh Văn C và bà Ngô Thị
B. Hiện bà B khởi kiện thì ông thống nhất với yêu cầu của bà B.
+ Các ông (bà) Trịnh Thị N, Trịnh Thị N1, Trịnh Thị Như T, Trịnh Bá C,
Trịnh Thị Tuyết N, Trịnh Thị Xuân T không có văn bản trình bày ý kiến về yêu cầu
khởi kiện của bà Nguyễn Thị B.
+ Công ty cổ phần Đầu tư phát triển nhà Đ không có văn bản trình bày ý
kiến về yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị B.
* Tòa án đã tiến hành tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận,
công khai chứng cứ và tiến hành đối thoại để các đương sự thống nhất với nhau về
việc giải quyết vụ án nhưng không có kết quả.
* Phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng tham
gia phiên tòa:
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử vụ án,
Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước
thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đúng trình tự quy định của pháp luật. Đối với

16
các đương sự, gồm người khởi kiện, người bị kiện và một số người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan trong quá trình Tòa án thụ lý giải quyết vụ án, đã thực hiện đúng
quy định của Luật Tố tụng hành chính.
Đối với Công ty cổ phần Đầu tư phát triển nhà Đ là đơn vị ban đầu có sự sai
sót dẫn đến việc cấp Giấy chứng nhận cho hộ ông Ngô Tấn S, bà Trần Thị H nhưng
quá trình giải quyết vụ án không có ý kiến và không tham gia tố tụng làm ảnh hưởng
đến quá trình xét xử nên cần kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền xem xét.
- Về quan điểm giải quyết vụ án: Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 193 Luật Tố
tụng hành chính, đề nghị chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Ngô Thị B về
việc huỷ các quyết định sau:
+ Quyết định số 1258/QĐ-UBND ngày 17/3/2014 của UBND quận Sơn Trà,
thành phố Đà Nẵng về việc giao đất cho ông Ngô Tấn S và bà Trần Thị H
+ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất số BR 729074, số vào số cấp CTs 34314 do Sở Tài nguyên và Môi
trường thành phố Đà Nẵng cấp ngày 28/3/2014 cho ông Ngô Tấn S, bà Trần Thị H.
- Án phí hành chính sơ thẩm: Các đương sự phải chịu theo quy định của pháp
luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, căn cứ vào kết quả tranh
tụng các chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa. Sau khi nghe lời trình bày của
các bên đương sự và tranh luận tại phiên tòa. Sau khi nghe ý kiến phát biểu của
Kiểm sát viên về việc giải quyết vụ án, việc tuân thủ pháp luật của Hội đồng xét xử
cũng như các bên đương sự trong quá trình tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng.
Sau khi nghị án thảo luận, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Ngày 20/02/2025 tại kỳ họp thứ 22, khoá X của Hội đồng nhân dân
thành phố Đà Nẵng đã ban hành Nghị quyết số 01/NQ-HĐND về việc thành lập 05
sở thuộc UBND thành phố Đà Nẵng, theo đó Nông nghiệp và Môi trường thành
phố Đ được thành lập trên cơ sở hợp nhất Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố
Đ và Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thành phố Đ. Do đó, Hội đồng xét xử
xác định tư cách người bị kiện đối với yêu cầu huỷ GCNQSDĐất nói trên là Sở
Nông nghiệp và Môi trường thành phố Đ.
[1.2] Tại phiên tòa, đại diện theo uỷ quyền và người bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của người bị kiện Sở Nông nghiệp và Môi trường thành phố Đ, người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan Công ty cổ phần Đầu tư phát triển nhà Đ đã được triệu
tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng vắng mặt; Các ông (bà): Trịnh Thị N, Trịnh Thị N1,
Trịnh Thị Như T, Trịnh Bá C, Trịnh Thị Tuyết N, Trịnh Thị Xuân T có đơn đề nghị
xét xử vắng mặt. Căn cứ và Điều 157 Luật Tố tụng hành chính, Hội đồng xét xử
tiến hành xét xử vắng mặt đương sự trên.
[1.3] Về đối tượng, thẩm quyền khởi kiện: Người khởi kiện yêu cầu hủy
Quyết định số 1258/QĐ-UBND ngày 17/3/2014 của UBND quận S về việc giao đất

17
cho ông Ngô Tấn S và bà Trần Thị H (sau đây viết tắt là Quyết định số 1258/QĐ-
UBND). Và huỷ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài
sản khác gắn liền với đất số BR 729074, số vào số cấp CTs 34314 do Sở Tài nguyên
và Môi trường thành phố Đ cấp ngày 28/3/2014 cho ông Ngô Tấn S, bà Trần Thị H
(sau đây viết tắt là GCNQSDĐất). Các quyết định hành chính trên thuộc đối tượng
khởi kiện vụ án hành chính quy định tại Điều 3 Luật Tố tụng hành chính nên thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng theo các Điều 30,
32 Luật Tố tụng hành chính.
[1.4] Về thời hiệu khởi kiện: Ngày 06/11/2023, bà Ngô Thị B có Đơn kiến
nghị đến UBND quận S đề nghị kiểm tra và rà soát hồ sơ cấp GCNQSDĐất cho
ông Ngô Tấn S, bà Trần Thị H. Ngày 06/6/2024, bà B nộp Đơn khởi kiện tại Toà
án nhân dân thành phố Đà Nẵng nên còn thời hiệu khởi kiện.
[2] Về nội dung:
[2.1] Tại phiên tòa, người đại diện theo uỷ quyền của người khởi kiện bà Ngô
Thị B giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Người bị kiện UBND quận S và Sở Nông
nghiệp và Môi trường thành phố Đ đề nghị Toà án chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi
kiện của bà Ngô Thị B.
[2.2] Xét yêu cầu khởi kiện hủy GCNQSDĐất do Sở Nông nghiệp và Môi
trường thành phố Đ cấp, thì thấy:
Bà Huỳnh Thị Sương và ông Trương Văn Ba là hộ giải tỏa Dự án Khu công
nghiệp và Dịch vụ thủy sản Thọ Quang và được bố trí 01 lô đất phụ đường 5,5m.
Ngày 17/8/2006, Công ty Đầu tư phát triển nhà Đ ký Hợp đồng chuyển quyền sử
dụng đất số 174/HĐ-NPBP cho bà Huỳnh Thị Sương đối với lô đất số 130-B3 KDC
Nam đường Phan Bá Phiến với đơn giá hộ phụ là 1.200.000đ/m
2
. Đến ngày
29/6/2006, bà Sương chuyển nhượng lô đất trên cho vợ chồng ông Trịnh Văn C, bà
Ngô Thị B. Việc chuyển nhượng giữa các bên đã được UBND phường M, quận
Sơn Trà chứng thực vào ngày 04/7/2006. Đến tháng 8/2006, bà Sương ký hợp đồng
chuyển quyền sử dụng đất với Công ty Đầu tư phát triển nhà Đ, hoàn thành các thủ
tục nhận đất và sau đó đã giao đủ các giấy tờ lô đất trên cho vợ chồng ông C, bà B.
Đến tháng 10/2006, bà Sương đã nói dối ông C đưa giấy tờ lô đất trên đi điều chỉnh
lại số lô từ 130 sang 130A để có thời hạn nợ tiền sử dụng đất 10 năm.
Sau khi nhận được các giấy tờ pháp lý của lô đất số 130-B3 Nam đường Phan
Bá Phiến do ông C giao, ngày 02/11/2006 bà Sương tiếp tục ký Giấy cam kết
chuyển nhượng lô đất này cho vợ chồng ông Ngô Tấn S, bà Trần Thị H với giá
không bao sổ đỏ là 44.000.000 đồng (Bốn mươi tư triệu đồng). Việc chuyển nhượng
giữa các bên đã được UBND phường Thọ Quang chứng thực vào ngày 14/12/2006,
ông S đã giao đủ tiền cho bà Sương, bà Sương đã chỉ lô đất 130A-B3 cho vợ chồng
ông S, bà H làm nhà. Ngày 08/01/2009, vợ chồng ông S tiến hành làm nhà ở trên
lô đất 130A-B3. Ngày 09/01/2009, Công ty Đầu tư phát triển nhà Đ phát hiện và
phối hợp cùng UBND phường Thọ Quang tiến hành kiểm tra lập biên bản việc vợ
chồng ông Sơn xây nhà trái phép. Tại thời điểm bà Sương chuyển nhượng lô đất

18
130A-B3 cho vợ chồng ông S thì lô đất này do Công ty Đầu tư phát triển nhà Đ
đang quản lý.
Như vậy, bà Sương đã thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt của vợ chồng
ông Ngô Tấn S, bà Trần Thị H số tiền 44.000.000 đồng. Do đó tại Bản án hình sự
sơ thẩm số 21/2010/HS-ST ngày 25, 26/11/2010 của Toà án nhân dân thành phố
Đà Nẵng đã xác định ông Ngô Tấn S và bà Trần Thị H là bị hại trong vụ án “Lừa
đảo chiếm đoạt tài sản” và tuyên bà Huỳnh Thị Sương phải bồi thường cho ông
Ngô Tấn S và bà Trần Thị H số tiền 44.000.000 đồng từ việc chuyển nhượng lô đất
130-B3 Nam đường Phan Bá Phiến, phường Thọ Quang, quận Sơn Trà, thành phố
Đà Nẵng. Còn thực tế lô đất số 130-B3 KDC Nam đường Phan Bá Phiến thì Huỳnh
Thị Sương đã chuyển nhượng cho vợ chồng ông Trịnh Văn C, bà Ngô Thị B và đã
nhận đủ tiền trước khi chuyển nhượng cho ông S và bà H nên giao dịch này được
công nhận.
Sau khi Bản án số 21/2010/HS-ST có hiệu lực pháp luật, Công ty cổ phần
Đầu tư phát triển nhà Đ có Tờ trình số 671/TTr-NDN ngày 26/5/2022 đề nghị Chủ
tịch UBND thành phố Đà Nẵng bố trí tái định cư cho 07 hộ dân là bị hại trong vụ
án bà Huỳnh Thị Sương “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Theo đó, Công ty cổ phần
Đầu tư phát triển nhà Đ đề nghị UBND thành phố Đà Nẵng cho phép chuyển quyền
sử dụng đất cho 07 hộ mỗi hộ 01 lô đất diện hộ phụ, theo giá tại Quyết định
121/2003/QĐ-UBND ngày 24/12/2003, cho nợ 100%, quy ra vàng 98% trong thời
hạn 10 năm, trong đó có hộ ông Ngô Tấn S và bà Trần Thị H.
Tại Công văn số 2130/VP-QLĐBGT ngày 05/7/2011 của UBND thành phố
Đà Nẵng chuyển Sở Tài chính và Công ty cổ phần Đầu tư phát triển nhà Đà Nẵng
có nội dung: “Xét nội dung Tờ trình số 671/TTr-DND ngày 26/5/2011 của Công ty
Cổ phần Đầu tư Phát triển nhà Đà Nẵng về việc đề nghị bố trí đất tái định cư cho
07 hộ dân bị hại trong vụ án bà Huỳnh Thị Sương lừa đảo tại quận Sơn Trà, thành
phố Đà Nẵng; Chủ tịch và các phó Chủ tịch UBND thành phố đã thống nhất như
sau:
1. Đồng ý chủ trương chuyển quyền sử dụng đất 07 lô đất (06 lô tại KDC
Nam Phan Bá Phiến và 01 lô tại KDC Mân Thái 2 mở rộng) cho 07 hộ dân có tên
sau đây: ...
1.6. Hộ ông Ngô Tấn S và bà Trần Thị H lô số 130A, PK B3 đường 5,5m
KDC Nam Phan Bá Phiến.
2. Giao Sở Tài chính (cơ quan thường trực Hội đồng thẩm định giá đất thành
phố) xác định đơn giá chuyển quyền theo giá thị trường đối với 07 lô đất tại Điểm
1 nêu trên báo cáo UBND thành phố xem xét phê duyệt.”.
Ngày 05/9/2011, UBND thành phố Đà Nẵng ban hành Quyết định số
7623/QĐ-UBND về việc quy định giá đất để thu tiền sử dụng đất đối với 07 lô đất
do Công ty cổ phần Đầu tư phát triển nhà Đ quản lý, trong đó giá đất đường Nam
Thọ 5 (đường 5,5m) KDC Nam Phan Bá Phiến là 8.480.000 đồng/m
2
(Lô đất 130A
thuộc đường N của hộ ông Ngô Tấn S và bà Trần Thị H). Như vậy, căn cứ theo
Công văn số 2130/VP-QLĐBGT và Quyết định số 7623/QĐ-UBND thì trường hợp

19
của ông S, bà H thuộc trường hợp được UBND thành phố đồng ý chủ trương chuyển
quyền sử dụng lô đất số 130A, PK B3 đường 5,5m KDC Nam Phan Bá Phiến và
xác định đơn giá chuyển quyền theo giá thị trường là 8.480.000 đồng/m
2
. Công ty
cổ phần Đầu tư phát triển nhà Đ có Tờ trình số 80/TTr-NDN về việc đề nghị ban
hành Quyết định giao đất và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người
chuyển đổi tên đã nộp đủ 100% tiền sử dụng đất là ông Ngô Tấn S và bà Trần Thị
H. Tuy nhiên, tại hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận cho ông S, bà H thì Công ty
cổ phần Đầu tư phát triển nhà Đ xác định đơn giá chuyển quyền sử dụng đất (hộ
phụ) là 1.200.000đ/m
2
là không đúng đơn giá quy định tại Quyết định số 7623/QĐ-
UBND.
Theo hồ sơ do Công ty cổ phần Đầu tư phát triển nhà Đ trình cấp Giấy chứng
nhận cho ông S, bà H thì tại sơ đồ thể hiện thứ tự từ hướng đông sang là lô đất 129
đến lô 130A và đến lô 130, nhưng theo sơ đồ Bàn giao quỹ đất KDC Nam Phan Bá
Phiến của Công ty cổ phần Đầu tư phát triển nhà Đ là bên giao (có đóng dấu) thì
thể hiện thứ tự từ hướng đông sang là lô đất 129 đến lô 130 và đến lô 130A. Thực
tế, thứ tự từ hướng đông sang là ngôi nhà của ông Trịnh Văn C, bà Ngô Thị B đang
sử dụng và tiếp đến là ngôi nhà của ông Ngô Tấn S và bà Trần Thị H đang sử dụng.
Từ những nhận định trên, có đủ cơ sở xác định việc Công ty cổ phần Đầu tư
phát triển nhà Đ lập thủ tục đề nghị giao đất, cấp Giấy chứng nhận trên cơ sở đã
thu tiền sử dụng đất (theo đơn giá 1.200.000đ/m
2
) cho ông Ngô Tấn S và bà Trần
Thị H là không đúng bản chất nguồn gốc sử dụng đất theo Bản án sơ thẩm số
21/2010/HS-ST; Công văn số 2130/VP-QLĐBGT và xác định nghĩa vụ tài chính
không đúng theo Quyết định số 7623/QĐ-UBND. Đồng thời, sơ đồ vị trí lô đất đề
nghị cấp Giấy chứng nhận cho ông S, bà H do Công ty cổ phần Đầu tư phát triển
nhà Đ N lập cũng không đúng vị trí theo sơ đồ Bàn giao quỹ đất KDC Nam Phan
Bá Phiến của Công ty cổ phần Đầu tư phát triển nhà Đà Nẵng là bên giao. Thực tế
hiện nay, hộ ông Ngô Tấn S và bà Trần Thị H đã xây nhà ở kiên cố trên lô đất số
130A, PK B3 đường 5,5m KDC Nam đường Phan Bá Phiến nên phải xác định
nghĩa vụ tài chính theo giá đất là 8.480.000đồng/m
2
theo Quyết định số 7623/QĐ-
UBND. Mặt khác, Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đ đã căn cứ vào Quyết
định giao đất số 1258/QĐ-UBND ngày 17/3/2014 của UBND quận S đối với thửa
đất số 130-B3, KDC phía Nam đường Phan Bá Phiến, phường Thọ Quang để cấp
Giấy chứng nhận cho hộ ông Ngô Tấn S, bà Trần Thị H đối với thửa đất số 130-
B3 mà không phải 130A-B3 là không đúng vị trí lô đất hộ ông S, bà H đang quản
lý, sử dụng nên dẫn đến việc thu tiền sử dụng đất không đúng làm thất thu ngân
sách nhà nước.
Lô đất số 130-B3, KDC Nam đường Phan Bá Phiến, phường Thọ Quang là
do hộ bà Ngô Thị B đang quản lý, sử dụng và nhận chuyển nhượng từ bà Huỳnh
Thị Sương. Việc Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố cấp Giấy chứng nhận cho
ông S, bà H đối với lô đất số 130-B3 KDC phía Nam đường Phan Bá Phiến, phường
Thọ Quang là thửa đất hiện nay hộ bà Ngô Thị B đang quản lý sử dụng không đúng
quy định làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà Ngô Thị B. Do đó,
HĐXX xét thấy yêu cầu khởi kiện của bà Ngô Thị B về việc hủy Giấy chứng nhận

20
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BR
729074 do Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đà Nẵng cấp ngày 28/3/2024
cho vợ chồng ông Ngô Tấn S, bà Trần Thị H là có cơ sở nên được chấp nhận.
[2.3] Xét yêu cầu khởi kiện đối với việc hủy Quyết định số 1258/QĐ-UBND,
thì thấy:
Như phân tích trên, trước thời điểm ngày 17/3/2014 UBND quận S ban hành
Quyết định giao đất số 1258/QĐ-UBND thì thửa đất số 130-B3, KDC phía Nam
đường Phan Bá Phiến, phường Thọ Quang là do hộ bà Ngô Thị B đang quản lý, sử
dụng và nhận chuyển nhượng từ bà Huỳnh Thị Sương đã được giải quyết tại Bản
án hình sự số 21/2010/HS-ST ngày 25, 26/11/2010 của Toà án nhân dân thành phố
Đà Nẵng. Đối với thửa đất số 130A-B3 Nam đường Phan Bá Phiến, phường Thọ
Quang do Công ty cổ phần Đầu tư phát triển nhà Đ quản lý, nhưng hộ ông S và bà
H là bị hại trong vụ án bà Huỳnh Thị Sương đã làm nhà ở từ năm 2009 và bị Công
ty cổ phần Đầu tư phát triển nhà Đ, UBND phường Thọ Quang lập biên bản xử lý
vi phạm hành chính về việc xây nhà trái phép. Theo Công văn số 2130/VP-
QLĐBGT ngày 05/7/2011 của UBND thành phố Đà Nẵng thì hộ ông Ngô Tấn S,
bà Trần Thị H được bố trí lô đất số 130A-B3 Nam đường Phan Bá Phiến, phường
Thọ Quang, nhưng UBND quận S đã ban hành Quyết định số 1258/QĐ-UBND
ngày 17/3/2014 giao cho hộ ông Ngô Tấn S, bà Trần Thị H lô đất số 130-B3, KDC
phía Nam đường Phan Bá Phiến, phường Thọ Quang mà hộ bà Ngô Thị B đã làm
nhà ở kiên cố trước đó và nhận chuyển nhượng từ bà Huỳnh Thị Sương là không
đúng vị trí lô đất và không đúng với bản chất sự việc. Trên cơ sở Quyết định giao
đất số 1258/QĐ-UBND của UBND quận S, ngày 28/3/2024 Sở Tài nguyên và Môi
trường thành phố Đ đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà
ở và tài sản khác gắn liền với đất số BR 729074 là không đúng pháp luật, xâm phạm
đến quyền và lợi ích hợp pháp của hộ bà Ngô Thị B. Do đó, để giải quyết triệt để
vụ án, đảm bảo quyền lợi của các bên đương sự, HĐXX xét thấy cần chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của bà Ngô Thị B, hủy Quyết định giao đất số 1258/QĐ-UBND
17/3/2014 của UBND quận S.
Nguyên nhân dẫn đến sự sai sót trong việc cấp Giấy chứng nhận cho hộ ông
Ngô Tấn S, bà Trần Thị H là xuất phát từ hồ sơ do Công ty cổ phần Đầu tư phát
triển nhà Đ xác lập, nộp và đề nghị cơ quan có thẩm quyền giao đất và cấp Giấy
chứng nhận đối với lô đất nêu trên cho ông Ngô Tấn S và bà Trần Thị H. Như vậy,
lỗi thuộc về Công ty cổ phần Đầu tư phát triển nhà Đ và UBND quận S. Do đó, để
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự và tránh gây thất thoát
cho ngân sách nhà nước, HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Ngô Thị B
cũng như Văn bản ý kiến trình bày của người bị kiện là Sở Nông nghiệp và Môi
trường thành phố Đ và người đại diện theo uỷ quyền, người bảo vệ quyền lợi ích
hợp pháp của UBND quận S tại phiên toà, tuyên hủy Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất số BR 729074 ngày 28/3/2014 và hủy Quyết định giao đất số 1258/QĐ-
UBND ngày 17/3/2014 để UBND quận S thực hiện việc thu tiền sử dụng đất theo
đơn giá 8.480.000 đồng/m
2
và cấp lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với
thửa đất số 130A-PK B3 đường 5,5m KDC Nam đường Phan Bá Phiến, phường

21
Thọ Quang, quận Sơn Trà cho ông Ngô Tấn S và bà Trần Thị H theo đúng quy định
pháp luật.
[3] Về án phí hành chính sơ thẩm: Do chấp nhận yêu cầu khởi kiện nên người
bị kiện UBND quận Sơn T, Sở Nông nghiệp và Môi trường thành phố Đ phải chịu
án phí hành chính sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào: Các Điều 30, 32, 157, khoản 2 Điều 193, các Điều 196, 206, 213
của Luật Tố tụng hành chính; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Ngô Thị B đối với UBND quận S,
thành phố Đà Nẵng, Sở Nông nghiệp và Môi trường thành phố Đ.
Xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Ngô Thị B, tuyên huỷ:
- Quyết định số 1258/QĐ-UBND ngày 17/3/2014 của UBND quận S, thành
phố Đà Nẵng về việc giao đất cho ông Ngô Tấn S và bà Trần Thị H.
- Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất số BR 729074, số vào số cấp CTs 34314 do Sở Tài nguyên và Môi
trường thành phố Đ cấp ngày 28/3/2014 cho ông Ngô Tấn S, bà Trần Thị H.
2. Án phí hành chính sơ thẩm: Người bị kiện UBND quận S, Sở Nông nghiệp
và Môi trường thành phố Đ mỗi đương sự phải chịu án phí hành chính sơ thẩm là
300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng).
- Hoàn trả số tiền tạm ứng án phí hành chính 300.000 đồng (Ba trăm ngàn
đồng) cho người khởi kiện bà Ngô Thị B theo Biên lai thu số 0003781 ngày
21/8/2024 tại Cục Thi hành án dân sự thành phố Đà Nẵng.
Án xử công khai sơ thẩm, các đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng
cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Riêng đương sự vắng mặt tại phiên tòa sơ thẩm có quyền kháng cáo trong
thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc Tòa án niêm yết bản án tại địa
phương.
Nơi nhận:
- VKSND thành phố Đà Nẵng;
- Cục THADS thành phố Đà Nẵng;
- Các đương sự;
- Lưu: Hồ sơ vụ án, VT.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Trần Hoài Sơn
22
23
24
25
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 22/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 21/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 20/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 20/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 20/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 16/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 16/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 15/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 15/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 15/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 14/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 14/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 14/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm