Bản án số 145/2024/DS-PT ngày 30/09/2024 của TAND tỉnh Bạc Liêu về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 145/2024/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 145/2024/DS-PT ngày 30/09/2024 của TAND tỉnh Bạc Liêu về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh Bạc Liêu
Số hiệu: 145/2024/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 30/09/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Y án sơ thẩm
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BẠC LIÊU
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Bản án số: 145/2024/DS-PT
Ngày 30 - 9 - 2024
V/v Tranh chấp quyền sử dụng đất
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẠC LIÊU
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Lê Thanh Hùng
Các Thẩm phán: Bà Giang Thị Cẩm Thuý
Bà Huỳnh Thị Kiều Anh
- Thư phiên tòa: Ông Nguyễn Anh Khoa - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Bạc Liêu.
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu tham gia phiên tòa:
Trần Hồng Thắm - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 27 và 30 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh
Bạc Liêu xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số 55/2024/TLPT-DS
ngày 24 tháng 6 năm 2024 về việc Tranh chấp quyền sử dụng đất.
Do Bản án dân sự sơ thẩm số 78/2023/DS-ST ngày 21 tháng 12 năm 2023
của Tòa án nhân dân huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa ván ra xét xử phúc thẩm số 73/2024/QĐ-PT ngày
05 tháng 7 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn:Trương Thị T, sinh năm 1951. Địa chỉ: Ấp C, thị trấn G,
huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu.
Người đại diện theo uỷ quyền của T: Bùi Kim N, sinh năm 1976. Địa
chỉ: Ấp D, thị trấn G, huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu. (có mặt)
- Bị đơn: Ông Như T1, sinh năm 1972. Địa chỉ: Ấp D, thị trấn G, huyện
Đ, tỉnh Bạc Liêu. (vắng mặt)
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ủy ban nhân dân huyện Đ. Địa chỉ: Ấp G, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Tuấn K, chức vụ: Chủ tịch Ủy ban
nhân huyện Đ. (có yêu cầu xét xử vắng mặt)
2. Nguyễn Thị L, sinh năm 1975. Địa chỉ: Ấp D, thị trấn G, huyện Đ,
tỉnh Bạc Liêu. (vắng mặt)
2
3. Anh Võ Tấn L1, sinh năm 1994. Địa chỉ: Ấp D, thị trấn G, huyện Đ, tỉnh
Bạc Liêu. (vắng mặt)
4. Anh Tấn Đ, sinh năm 1996. Địa chỉ: Ấp D, thị trấn G, huyện Đ, tỉnh
Bạc Liêu. (vắng mặt)
5. Đài khí tượng thuỷ văn tỉnh Bạc Liêu. Địa chỉ: Số A đường B, Phường
H, thành phố B, tỉnh Bạc Liêu. Người đại diện theo pháp luật: Ông Huỳnh Minh
N1, sinh năm 1989. (có yêu cầu xét xử vắng mặt)
- Người kháng cáo:Trương Thị T là nguyên đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
*Tại đơn khởi kiện, quá trình làm việc tại Tòa án và tại phiên tòa, đại diện
theo uỷ quyền của nguyên đơn trình bày:
Nguồn gốc phần đất tranh chấp năm 1986 Trương Thị T sang
nhượng 01 căn nhà cấp 04 của Thị H và sau đó bà T tiếp tục sang nhượng
của ông Nguyễn Văn T2 cậu ruột của H phần đất có chiều ngang 13,5m
chiều dài 7m nối liền với căn nhà cấp 4. Bà T cất nhà ở ổn định và làm trại giống
Kim N; tuy nhiên vẫn chưa làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau đó, trong
quá trình sử dụng thì trại giống xuống cấp nên bà T tháo dỡ và xây lại trại giống,
trong quá trình đó Trạm thủy văn G thương lượng để xây dựng hàng rào
cắm mốc không vào đất nên con gái T Bùi Kim N mới tên vào biên
bản thoả thuận. Trong quá trình xây dựng, Trạm Thủy Văn Gành H1 không thực
hiện đúng văn bản thoả thuận, xây dựng lấn vào diện tích đất của T, T đã
khiếu nại và không cho xây dựng. Đến năm 2018, thì Ủy ban nhân dân tỉnh B
công văn yêu cầu Trạm thuỷ văn tháo dhàng rào đã xây dựng năm 2007. Sau
khi Trạm thuỷ văn dời hàng rào ra khỏi phần đất của T, tbà T chuẩn bị để
cất trại giống nhưng bị bệnh phải điều trị bệnh, trong quá trình điều trbệnh ở nhà
phần đất đó đã bông Võ Như T1 lấn chiếm qua đo đạc thực tế là 28,08m
2
. Trước
khi đi điều trị bệnh T đã đnền tông cốt thép đhoàn thiện xây dựng nhưng
ông T1 đã ngang nhiên cất nhà và lấn chiếm phần diện tích đất của T, trong
các buổi hgiải ông T1 cũng thừa nhận cái kho ông cất để đồ tạm không phải
là đất của ông.
Theo đơn khởi kiện, T khởi kiện yêu cầu ông Như T1 tháo dỡ căn
nhà trả lại hiện trạng phần đất tranh chấp có diện tích 31m
2
, đất toạ lạc tại ấp
D, thị trấn G, huyện Đ. Tuy nhiên, qua đo đạc thực tế diện tích đát tranh chấp
28,08m
2
nên T rút lại một phần yêu cầu khởi kiện đối với diện tích 2,92 m
2
,
chỉ yêu cầu ông Võ Như T1 tháo dỡ căn nhà trả lại hiện trạng phần đất tranh
chấp có diện tích 28,08m
2
. Ngoài ra, bà T rút lại một phần yêu cầu khởi kiện,
không yêu cầu ông T1 phải bồi thường thiệt hại cho T số tiền 40.000.000 đồng
như khởi kiện ban đầu.
Tại phiên toà đại diện bà T xác định: Bà T không yêu cầu định giá cấu trúc
3
nhà toạ lạc trên phần đất tranh chấp 28,08 m
2
nêu trên.
*Bị đơn ông Võ Như T1 trình bày tại các biên bản ghi lời khai:
Năm 2014, ông có sang nhượng phần đất của ông Nguyễn Ngọc T3 và bà
Huỳnh Huệ L2 thửa đất số 58 tờ bản đồ số 36 diện tích 109,7m. Khi ông
sang nhượng đất thì phần sau dính đến phần đất tranh chấp giữa ông
Trương Thị T, lúc đó phần đất chưa được san lấp bằng phẳng nên ông trồng
cây dừa để lu nước sử dụng. Thời gian sau, Ủy ban nhân dân tỉnh B giải
quyết theo hướng Trạm thuỷ văn Gành o dời hàng rào ra, giao lại phần đất dư
ra cho Ủy ban nhân dân huyện Đ quản những hộ đất phía trước được
quyền mua đất phía sau, ông cũng đã nộp đơn xin mua lại phần đất hiện nay
đang tranh chấp với chính quyền địa phương do ông đất liền kề phía trước
nhưng chưa được giải quyết do đang tranh chấp. Hiện nay theo yêu cầu khởi
kiện của Trương Thị T thì ông không đồng ý do đây đất của Ủy ban nhân
dân huyện Đ đang quản lý không phải đất thuộc quyền quản lý, sử dụng của T.
Ông T3 xác định ông không yêu cầu định giá cấu trúc nhà toạ lạc trên phần
đất tranh chấp nêu trên. Trường hợp qua xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
T thì ông T3 đồng ý tự tháo dỡ các công trình kiến trúc trên đất, không yêu cầu
bồi thường.
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: UBND huyện Đ trình bày: Phần
diện tích 28,08m
2
hiện Trương Thị T yêu cầu tranh chấp quyền sử dụng đất với
ông NT1 nằm trong khu đất do Trạm thủy văn Gành Hào quản lý, được
UBND tỉnh M (cũ) cấp theo Quyết định số 140/QĐ-UB ngày 17/6/1976 với diện
tích 2.500m
2
để xây dựng công trình Trạm thủy văn G theo Quyết định thành
lập số 244.QĐ/TC ngày 22/7/1978 của T4. Sau khi Trạm thủy văn G được giao
đất, Trạm đã tiến hành xây dựng mốc độ cao quốc gia, hệ độ cao Mũi N2các
công trình khác đưa vào sử dụng từ năm 1980 đến nay. Hiện nay, UBND tỉnh B
điều chỉnh giảm diện tích 451,7m
2
(Trong đó 28,8m
2
N tranh chấp quyền
sử dụng đất với ông T1 nêu trên).
Căn cứ Thông báo số 47/TB-UBND ngày 26/3/2018 của Ủy ban nhân dân
tỉnh B về việc kết luận của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh X việc lấn chiếm đất
Trạm Thủy văn Gành Hào xử sở n đất Đài Khí tượng thủy văn tỉnh Bạc
Liêu: Thống nhất với phương án của Đ khí tượng thuỷ văn khu vực N theo hướng
điều chỉnh giảm 01 phần diện tích đất của Trạm thủy văn G hiện do các hdân
đang lấn chiếm, nhằm ổn định trên địa bàn huyện. Phần diện tích đất các hộ dân
đang lấn chiếm 451,7m
2
(Trong đó có diện tích 28,8m
2
N tranh chấp quyền sử
dụng đất với ông T1) giao Ủy ban nhân dân huyện Đ xem xét, xử theo đúng
quy định của pháp luật hiện hành.
Do đó, việc phát sinh tranh chấp nêu trên đề nghị Tòa án xác minh làm
và xử lý theo đúng quy định của pháp luật.
4
Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Đài khí tượng thuỷ văn tỉnh Bạc
Liêu trình bày: Trước đây năm 1978, UBND tỉnh M giao cho Trạm thuỷ văn
Gành Hào diện tích đất chiều ngang 50m chiều dài 50m chưa cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất. Sau đó, Trạm Thủy văn G sử dụng xây hàng rào,
tuy nhiên thì chỉ xây được hai mặt của hàng rào do 2 mặt còn lại các hộ dân lấn
chiếm xảy ra tranh chấp. vậy, UBND tỉnh B giải quyết tranh chấp và yêu
cầu Trạm thủy văn G dời hàng rào một đoạn sau những hộ dân đang sử dụng
Trạm Thủy văn G cũng đồng ý xây hàng rào dời lại theo yêu cầu của UBND tỉnh
B. Hiện tại, Đài khí tượng thuỷ văn tỉnh Bạc Liêu đã được cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho với diện tích được cấp 1.652,50m
2
. Đối với phần đất tranh
chấp hiện nay của các bên Đài khí tượng thuỷ văn tỉnh Bạc Liêu xác định nguồn
gốc đất của Trạm thủy văn G tuy nhiên do đã bị thu hồi theo quyết định của Ủy
ban nhân dân tỉnh B, nên hiện nay Đài khí tượng thuỷ văn tỉnh Bạc Liêu không
ý kiến cũng như yêu cầu trong vụ án này, đề nghị Tòà án giải quyết theo
đúng quy định của pháp luật.
Nguyễn Thị L, anh Tấn L1, anh Tấn Đ: Sau khi thụ vụ án, Tòa
án đã tống đạt hợp lệ văn bản ttụng, cũng như triệu tập nhưng bà Nguyễn Thị L,
anh Võ Tấn L1, anh Võ Tấn Đ không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp,
tiếp cận, công khai chứng cứ, hòa giải cũng không tham gia phiên tòa xét xử
sơ thẩm nên không có lời khai.
Từ những nội dung trên, tại bản án dân sự thẩm số 78/2023/DS-ST ngày
21/12/2023 của Tòa án nhân dân huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu quyết định:
1. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của Trương Thị T về yêu cu
ông Như T1 tháo dỡ nhà, trả li din tích đất 2,92m
2
; đất tọa lạc ấp D, thị trấn
G, huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu yêu cầu ông Võ Như T1 bồi thường thiệt hại số tiền
40.000.000 đồng.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trương Thị T về yêu cu
ông NT1 tháo dỡ nhà, tr li din tích đất 28,08m
2
; đất tọa lạc ấp D, thị
trấn G, huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu. Đất tranh chấp có vị trí và số đo như sau:
- Hướng Đông giáp đất bà Trương Thị T có số đo 3,9m.
- Hướng Tây giáp đất do UBND huyện Đ quản lý có số đo 3,9m.
- Hướng Nam giáp đất do UBND huyện Đ quản lý có số đo 7,2m.
- Hướng Bắc giáp đất của ông Võ Như T1 có số đo 7,2m.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về chi ptố tụng, án phí quyền kháng cáo
của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 04/01/2024, nguyên đơn bà Trương Thị T kháng cáo yêu cầu Tòa án
cấp phúc thẩm xem xét buộc ông Võ Như T1 tháo dỡ toàn bộ căn nhà trên đất để
trả lại quyền sử dụng đất cho T. Ngoài ra, T yêu cầu ông Như T1 phải
5
bồi thường phần hàng rào đã bị đập phá giá trị 40.000.000 đồng thiệt hại của
Công ty S do ông T1 lấn chiếm đất làm ảnh hưởng với số tiền 400.000.000 đồng.
Tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu
kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu phát biểu quan điểm:
- Về việc chấp hành pháp luật tố tụng: Từ khi thụ đến khi xét xử phúc
thẩm, Thẩm phán, Hội đồng xét xử phúc thẩm, Thư các đương sự đã thực
hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về quan điểm giải quyết vụ án: Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố
tụng dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bà Trương
Thị T. Giữ nguyên Bản án dân sự thẩm số 77/2023/DS-ST ngày 25 tháng 9
năm 2023 của Toà án nhân dân huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu toàn bộ các tài liệu, chứng cứ có lưu trong hồ sơ vụ án
đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên toà, ý kiến đề
xuất của Kiểm sát viên, sau khi thảo luận, nghị án, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thẩm quyền, tư cách tham gia tố tụng, trình tự thủ tục tố tụng trong
quá trình giải quyết vụ án ở giai đoạn sơ thẩm đã được Tòa án cấp sơ thẩm nhận
định và phù hợp theo quy định của pháp luật.
[2] Về nội dung vụ án:
Xét yêu cầu của Trương Thị T khởi kiện yêu cầu ông Như T1 tháo
dỡ nhà, tr li din tích đất 28,08m
2
; đất tọa lạc ấp D, thị trấn G, huyện Đ, tỉnh
Bạc Liêu. Đất tranh chấp có vị trí và số đo như sau:
- Hướng Đông giáp đất bà Trương Thị T có số đo 3,9m.
- Hướng Tây giáp đất do UBND huyện Đ quản lý có số đo 3,9m.
- Hướng Nam giáp đất do UBND huyện Đ quản lý có số đo 7,2m.
- Hướng Bắc giáp đất của ông Võ Như T1 có số đo 7,2m.
Thông báo số 47/TB-UBND ngày 26/3/2018 của Ủy ban nhân dân tỉnh B
về việc kết luận của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh X việc lấn chiếm đất Trạm
Thủy văn Gành Hào xử lý sở nđất Đài Ktượng thủy văn tỉnh Bạc Liêu
xác định: Thống nhất với phương án của Đ khí tượng thuỷ văn khu vực N theo
hướng điều chỉnh giảm 01 phần diện tích đất của Trạm thủy văn G hiện do các hộ
dân đang lấn chiếm, nhằm ổn định trên địa bàn huyện. Phần diện tích đất các hộ
dân đang lấn chiếm 451,7m
2
(Trong đó diện tích 28,8m
2
N tranh chấp quyền
sử dụng đất với ông T1) giao Ủy ban nhân dân huyện Đ xem xét, xlý theo đúng
quy định của pháp luật hiện hành.
6
Theo Công văn số 4207/UBND ngày 09/11/2022 của Ủy ban nhân dân
huyện Đ xác định diện tích 28,08m
2
là đất Nnước cấp cho Trạm thủy văn G,
huyện Đ; Thông báo số 47/TB-UBND ngày 26/3/2018 của Ủy ban nhân dân tỉnh
B giao Ủy ban nhân dân huyện Đ xem xét xử đúng theo quy định của pháp luật.
(Bút lục 194)
Như vậy, đối với diện tích 28,08m
2
đến thời điểm hiện tại theo các văn bản
nêu trên vẫn thuộc đất công, Ủy ban nhân dân huyện Đ được giao quản lý và giải
quyết tranh chấp. Mặc dù bà T được Chính quyền ở địa phương xác nhận và cho
phép xây dựng trại tôm giống ngày 14/01/2010 (Bút lục 12), những người lân
cận làm chứng (được chính quyền địa phương xác nhận) đất tranh chấp do T
quản sử dụng, ông T1 tự ý lấn chiếm. Tuy nhiên, Ủy ban nhân dân huyện Đ
chưa quyết định hoặc văn bản giải quyết. Nên phần diện tích đất này không
thuộc thẩm quyền giải quyết ca Toà án.
Đối với nhà tiền chế do ông Như T1 xây dựng trên diện tích 28,08m
2
nêu trên là hành vi xây dựng công trình trái phép trên đất do Ủy ban nhân dân
huyện Đ quản . Do thẩm quyền xvi phạm hành chính đối với hành vi lấn
chiếm đất công của ông Như T1 chưa được Ủy ban nhân dân cấp thẩm
quyền xử nên không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án theo trình tự tố
tụng dân sự.
Ngoài ra, việc tranh chấp của bà Trương Thị T do Ủy ban nhân dân huyện
Đ xem xét giải quyết, nên Trương Thị T quyền yêu cầu y ban nhân dân
huyện Đ xem xét giải quyết diện tích đất 28.08m
2
Ủy ban nhân dân tỉnh B đã
giao cho Ủy ban nhân dân huyện Đ.
[3] Đối với kháng cáo yêu cầu ông Võ Như T1 phải bồi thường phần hàng
rào đã bị đập phá giá trị 40.000.000 đồng, Hội đồng xét xử xét thấy:
Tại đơn thay đổi một phần đơn khởi kiện của Trương Thị T đngày
27/01/2021 (Bút lục 89), bà T xác định không yêu cầu ông Võ Như T1 bồi thường
thiệt hại 40.000.000 đồng Bùi Kim N (con gái T) đứng tên giấy phép kinh
doanh sản xuất giống thủy sản để N khởi kiện vụ án khác. Cuối đơn
chữ của T. Trong quá trình giải quyết ván cấp thẩm, N cũng không
nhất chỉ yêu cầu ông T1 trả quyền sử dụng đất và di dời nhà tại biên bản hòa giải
ngày 31/10/2023 (Bút lục 224-226). Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã đình chỉ giải
quyết đối với yêu cầu bồi thường phần hàng rào đã bị đập phá giá trị 40.000.000
đồng. Do Tòa án cấp thẩm chưa xem xét giải quyết đối với yêu cầu này nên
Tòa án cấp phúc thẩm không đặt ra xem xét, giải quyết. Bà T có quyền khởi kiện
yêu cầu bồi thường thiệt hại ở một vụ án khác.
[4] Đối với kháng cáo yêu cầu bồi thường thiệt hại của Công ty S do ông
T1 lấn chiếm đất làm ảnh hưởng với số tiền 400.000.000 đồng.
7
Do yêu cầu này chưa được đặt ra xem xét, giải quyết cấp sơ thẩm, đồng
thời để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự, đảm bảo hai cấp xét
xử, Tòa án cấp phúc thẩm không đặt ra xem xét.
[5] Từ những chứng cứ nêu trên, HĐXX không căn cứ chấp nhận kháng
cáo của Trương Thị T. Chấp nhận ý kiến đề xuất của kiểm sát viên tại phiên
tòa. Giữ nguyên bản án thẩm số số 78/2023/DS-ST ngày 21/12/2023 Tòa án
nhân dân huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu.
[6] Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà Trương Thị T là người cao tuổi
đơn xin miễn án phí nên bà T được miễn nộp tiền án phí phúc thẩm.
[7] Các phần khác của bản án không bị kháng cáo, kháng nghị đã hiệu
lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Trương Thị T, giữ nguyên Bản
án thẩm 78/2023/DS-ST ngày 21 tháng 12 năm 2023 của Tòa án nhân dân
huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu.
Căn cứ khoản 6 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39,
Điều 244, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 585, Điều 589 Bộ luật Dân sự;
Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của Trương Thị T vyêu cầu
ông Như T1 tháo dỡ nhà, trả li din tích đất 2.92m
2
; đất tọa lạc ấp D, thị trấn
G, huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu yêu cầu ông Võ Như T1 bồi thường thiệt hại số tiền
40.000.000 đồng.
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trương Thị T về yêu cầu ông
Võ Như T1 tháo dnhà, trả li din tích đất 28.08m
2
; đất tọa lạc ấp D, thị trấn G,
huyện Đ, tỉnh Bạc Liêu. Đất tranh chấp có vị trí và số đo như sau:
- Hướng Đông giáp đất bà Trương Thị T có số đo 3,9m.
- Hướng Tây giáp đất do UBND huyện Đ quản lý có số đo 3,9m.
- Hướng Nam giáp đất do UBND huyện Đ quản lý có số đo 7,2m.
- Hướng Bắc giáp đất của ông Võ Như T1 có số đo 7,2m.
8
Trương Thị T quyền yêu cầu UBND huyện Đ xem xét giải quyết diện
tích đất 28.08m
2
UBND tỉnh B đã giao cho UBND huyện Đ xem xét giải
quyết.
3. Chi phí xem xét, thẩm định định giá tài sản 1.662.220 đồng,
Trương Thị T phải chịu toàn bộ. Bà T đã dự nộp xong và chi phí hết.
4. Về án phí dân sự sơ thẩm và phúc thẩm: Bà Trương Thị T được miễn án
phí do là người cao tuổi và có đơn xin miễn án phí.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân s
quyền thỏa thuận, quyền yêu cầu thi hành án, tnguyện thi hành án hoặc bị cưỡng
chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời
hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TANDCC tại TPHCM;
- VKSND tỉnh Bạc Liêu;
- TAND huyện Đông Hải;
- CCTHADS huyện Đông Hải;
- Các đương sự;
- Lưu HS, Tổ HCTP.
Tải về
Bản án số 145/2024/DS-PT Bản án số 145/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 145/2024/DS-PT Bản án số 145/2024/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất