Bản án số 141/2025/DS-PT ngày 24/06/2025 của TAND tỉnh An Giang về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 141/2025/DS-PT

Tên Bản án: Bản án số 141/2025/DS-PT ngày 24/06/2025 của TAND tỉnh An Giang về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND tỉnh An Giang
Số hiệu: 141/2025/DS-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 24/06/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp về quyền sử dụng đất và yêu cầu mở lối đi qua bất động sản liền kề
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN
TỈNH AN GIANG
Bản án số: 141/2025/DS-PT
Ngày 24 tháng 6 năm 2025
V/v tranh chấp quyền sử
dụng đất, yêu cầu mở lối đi
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Huỳnh Thanh Tâm
Các Thẩm phán: Bà Phạm Thị Minh Châu và ông Trương Văn Hai;
- Thư phiên tòa: Huỳnh Ngọc Loan, TTòa án nhân dân tỉnh An
Giang.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang tham gia phiên toà: Ông
Phạm Trường San, Kiểm sát viên.
Ngày 24 tháng 6 năm 2025, tại trụ sTòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử
phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ số 264/2024/TLPT- DS ngày 02 tháng 10
năm 2024 về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Do Bản án dân sự thẩm số 262/2024/DS-ST ngày 13 tháng 8 năm 2024 của
Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang bị kháng cáo;
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 406/2024/QĐXXPT-DS
ngày 09 tháng 12 năm 2024 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Phan Th B, sinh năm 1949; đa ch: s I t A, khóm T,
phưng M, thành ph L, tnh An Giang, có mt.
2. B đơn:
- Ông Trn Ngc M, sinh năm 1945, vắng mt;
- Bà Trn Th L, sinh năm 1958, có mặt;
Địa ch: s I t A, khóm T, phường M, thành ph L, tnh An Giang.
Đại din hp pháp ca ông Trn Ngc M: Trn Th Ngc T, sinh năm
1992; địa ch: s I t A, khóm T, phường M, thành ph L, tnh An Giang (theo giy
y quyn ngày 04/03/2024), có mt.
3. Người kháng cáo: Ông Trn Ngc M, sinh năm 1945, Trn Th L, sinh
năm 1958; địa ch: s I t A, khóm T, phường M, thành ph L, tnh An Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Nguyên đơn Phan Th B trình bày: Ngày 15/10/2007 Phan Th B đưc
y ban nhân dân thành ph L, tnh An Giang cp giy chng nhn quyn s dng
đất s H.04216 gA, thuc thửa đt s 41, t bản đồ s 58, din tích 408,1m
2
; loi
2
đất lâu năm khác diện tích 1.578,1m
2
thuc thửa đất s 35 (hin nay chuyn
nhưng mt phn 978,1m
2
cho ông Trn Thanh P, theo giy chng nhn quyn s
dụng đt, quyn s hu nhà tài sn khác gn lin với đt s CN18631, ngày
16/10/2023 do Văn phòng Đ1 chi nhánh L2 cấp), đt ta lc ti phường M, thành
ph L, tnh An Giang. Do hai phn diện tích đt không lin nhau không lối đi
ra vào nên ngày 15/6/2016 bà B tha thun vi ông Trn Ngc M chuyển nhượng
lối đi qua phần đất ca ông M nhm thun li cho việc đi li. Phía ông M đồng ý
bán cho bà B mt phn diện tích đất để cho B dùng làm lối đi kích thước
chiu ngang 2m x chiu dài 10m, với giá 16.000.000 đồng, hai bên lập văn bản
và có người làm chng.
Sau khi mlối đi, B sử dụng một thời gian từ năm 2016 đến 2022 thì vợ
ông M Trần Thị L rào chắn, không tạo điều kiện cho B ra vào phần diện
tích đất đã nhận chuyển nhượng. Sự việc phát sinh tranh chấp và được Ủy ban nhân
dân phường M, thành phố L hòa giải nhưng không thành nên B khởi kiện yêu
cầu ông M L phải thực hiện mlối đi kích thước chiều ngang 2m x chiều
dài 10m theo tờ thỏa thuận ngày 15/6/2016.
Bị đơn Trần Thị L trình bày: Theo yêu cầu khởi kiện của của nguyên đơn,
L không đồng ý, do ông M, bà L không nhận số tiền 16.000.000 đồng mua bán
đất với B; riêng bà L xác định nội dung tờ thỏa thuận ghi sai tên và năm sinh, họ
tên năm sinh chính xác được pháp luật thừa nhận Trần Thị L, sinh năm 1958,
hơn nữa B không giấy tờ tài liệu, chứng cứ chứng minh đã giao số tiền
16.000.000 đồng cho ông M. B cho rằng đã đưa tiền nhưng không giấy tờ,
không có người làm chứng. L yêu cầu giám định chữ ký, chữ viết của ông
Trần Ngọc M, tuy nhiên sau đó L tự nguyện rút lại yêu cầu Tòa án giám định chữ
ký, chữ viết của ông Trần Ngọc M.
Ông Trần Ngọc M do bà Trần Thị Ngọc T đại diện theo y quyền trình bày:
Không đồng ý toàn bộ yêu cầu khởi kiện của B; thống nhất ý kiến trình bày của
bà L. Đối với chữ ký, chữ viết của bà Phan Thị B trong tờ thỏa thuận ngày
15/6/2016 không phải là chữ của B do tại thời điểm năm 2016 B đang
nước ngoài, chưa về Việt Nam nên không thể ký tên trong biên bản. Do không đồng
ý yêu cầu khởi kiện nên không yêu cầu giám định hoặc yêu cầu thêm đối với yêu
cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại Bản án sơ thẩm số 262/2024/DS-ST ngày 13 tháng 8 năm 2024 của Tòa án
nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang đã tuyên xử:
Công nhận Tờ thỏa thuận mua bán lối đi chung ngày 15/06/2016 giữa Phan
Thị B, sinh năm 1949 với ông Trần Ngọc M sinh năm 1945, Trần Thị L, sinh
năm 1958 (bà Trần Thị Bé L1, sinh năm 1948).
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Phan ThB đối với ông Trần
Ngọc M Trần Thị L. Bà Phan Thị B được quản lý, sử dụng phần diện tích đất
tổng diện tích 11,2m
2
. Trong đó; 10,7m
2
thể hiện tại các điểm 29, 25, 32, 10;
3
0,5m
2
thể hiện tại các điểm 11, 29, 25, 33 theo Bản trích đo hiện trạng khu đất do
Văn phòng đăng ký đất đai – Chi nhánh L2 lập ngày 08/05/2024.
Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Phan Thị B đối với ông
Trần Ngọc M và bà Trần Thị L về yêu cầu đối với phần diện tích 8,8m
2
.
Phan Thị B, ông Trần Ngọc M, bà Trần Thị L liên hệ quan thẩm
quyền đăng ký, khai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đt theo quy định pháp
luật.
(Các số liệu của phần diện tích đất tranh chấp kèm theo Bản trích đo hiện
trạng khu đất Văn phòng đăng ký đất đai - Chi nhánh L2 lập ngày 08/05/2024)
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, chi ptố tụng quyền kháng cáo của
các đương sự.
Sau khi xét xử thẩm, ngày 14/8/2024, bị đơn bà Trần Thị L, ông Trần Ngọc
M có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.
Tại phiên toà phúc thẩm:
- Nguyên đơn B giữ nguyên yêu cầu khởi kiện về việc yêu cầu bị đơn mở
lối đi.
- Bị đơn L và đại diện theo uỷ quyền của ông M: không chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn, giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Xác định ông M L
không thỏa thuận chuyển nhượng diện tích đất 2m x 10m g16.000.000 đồng cho
B. Do ông M khi đó bbệnh tai biếng nên mặc dù ông M tên trong tờ thỏa
thuận ngày 15/6/2016 nhưng thể không minh mẫn. B không mặt tại Việt
Nam vào năm 2016 mà do bà O ký tên thay; diện tích đất do bà L đứng tên là tài sản
chung của ông M L nhưng chỉ một mình ông M tên không hiệu
lực. Về nội dung tờ thỏa thuận ghi tiền chuyển nhượng 16.000.000 đồng nhưng
ông M không có nhận tiền. Bà B khai ông M có nhận tiền nhưng sau đó cho rằng là
đổ cát làm đường đi. Ngoài ra, B thể sử dụng lối đi qua đất của ông Đ thay
đi qua đất của bà L, ông M.
* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang phát biểu quan điểm:
Về tố tụng: Trong qtrình thụ lý, Thẩm phán đã thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn theo đúng quy định tại Điều 48 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Tại phiên tòa
Hội đồng xét xử, Thư phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng
dân sự về phiên tòa phúc thẩm, đảm bảo đúng các nguyên tắc, phạm vi xét xử, thành
phần sự mặt của các thành viên Hội đồng xét xử, thủ tục phiên a được đảm
bảo đúng pháp luật của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
Về chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án
tại phiên tòa, các đương sự đã thực hiện đúng quyền nghĩa vụ theo quy định
của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015, tuyên xử: không chấp nhận kháng cáo của ông ông M, L,
sửa bản án thẩm số 262/2024/DS-ST ngày 13/8/2024 của Tòa án nhân dân thành
4
phố Long Xuyên về chi phí tố tụng, án phí dân thẩm nội dung tuyên trong
phần quyết định: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Phan
Thị B về mở lối đi. Phan Thị B được quyền quản lý, sử dụng phần đất diện ch
11,2m
2
. Trong đó: 10,7m
2
tại các điểm 29, 25, 32, 10 diện tích 0,5m
2
tại các
điểm 11, 29, 25, 33 theo Bản trích đo hiện trạng khu đất do Văn phòng đăng đất
đai - chi nhánh L2 lập ngày 08/5/2024.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về thủ tục tố tụng:
Bị đơn ông M, L kháng cáo trong thời hạn luật định, được miễn nộp tạm
ứng án phí phúc thẩm nên được chấp nhận xem xét giải quyết theo trình tphúc
thẩm.
[2] Về nội dung:
Theo nguyên đơn trình bày, do nhu cầu sử dụng đất làm lối đi từ diện tích
đất thuộc thửa số 41, diện tích 408,1 m
2
thuộc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
số H.04216gA, ngày 15/10/2017 của Phạm Thị B1, sang diện tích đất thuộc thửa
số 255, diện tích 978,1m
2
thuộc quyền sử dụng của ông Trần Thanh P để ra đường
công cộng nên bà B1 đã thỏa thuận chuyển nhượng diện tích đất ngang 2m, dài 10m
của ông M, bà L. Các bên có lập Tờ thỏa thuận mua bán lối đi chung ngày
15/6/2016, số tiền mua bán 16.000.000 đồng, chữ bên bán Trần Ngọc M,
bên mua Phan Thị B và người làm chứng ông Trần Hữu B2. B khai
không trực tiếp tên trong Tờ thỏa thuận trên do Trần Thị Hoàng O con
của bà B thực hiện thỏa thuận theo ý kiến của bà B.
L đại diện của ông M lời khai không thừa nhận nội dung thỏa thuận
trong Tờ thỏa thuận mua bán lối đi chung ngày 15/06/2016 do bà B xuất trình, đồng
thời xác định không nhận 16.000.000 đồng của B. Tuy nhiên, tại phiên tòa
thẩm phúc thẩm, L đại diện theo ủy quyền của ông M đều khai ông M
tên trong Tờ thỏa thuận ngày 15/6/2016, phía B đổ cát vào các hào thuộc
đất của ông M, bà L để lối đi và B đã sử dụng lối đi từ khi đổ cát đến khi xảy
ra tranh chấp.
Tại Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 17/01/2025 của Tòa án nhân dân
tỉnh An Giang ghi nhận: Diện tích đất 408,1 m
2
do B được cấp quyền sdụng
tiếp giáp các thửa đất: số 40 (diện tích 1.545,6 m
2
), thửa số 37 (diện tích 1.477,2 m
2
)
do L được cấp quyền sử dụng; thửa số 42 (diện tích 443,5 m
2
) do Trần Thị
Mỹ T1 đang sử dụng thửa số 44 do ông Trần Thanh P1 đang sử dụng. Thửa đất
số 41 của bà B đất cây lâu năm, sử dụng trồng chuối tiếp giáp thửa 38 của ông
Trần Hữu Đ, bà B không có lối đi ra đường công cộng.
Hiện trạng đất liên quan tranh chấp diện tích là 11,2 m
2
, theo Bản trích đo hiện
trạng khu đất của Văn phòng đăng đất đai chi nhánh L2 lập ngày 08/5/2024
một phần diện ch thuộc thửa số 37 của L qua các điểm 11, 29, 25, 33 (0,5 m
2
);
29, 25, 32, 10 (10,7 m
2
). Trên diện tích đất này chuồng nuôi vịt do L xây
dựng, kết cấu khung sắt, lưới, tấm nhựa không xác định diện tích.
5
B trình bày trước đây sử dụng lối đi phần đất hiện đang tranh chấp để
đi sang phần đất thuộc quyền sử dụng của Trần Thanh P để ra đường công cộng, sau
khi L làm chuồng vịt, rào lại thì không có lối đi, dẫn đến tranh chấp. L và
chị T cũng xác định sau khi bà L xây dựng chuồng vịt thì bà B không đi được.
Như vậy, có căn cứ xác định, đất B bị vây bọc bởi các thửa đất khác nên
B sử dụng lối đi trên đất của bà L và ông M để ra đường công cộng. Từ khi bà L
cất chuồng vịt và rào chắn lối đi thì B không còn lối đi.
Đối với việc thỏa thuận mua n đất làm lối đi theo Tờ thỏa thuận ngày
15/6/2016. Mặc dù bà L đại diện của ông M không thừa nhận chuyển nhượng đất
ngang 2m, dài 10m cho B ông M không nhận tiền 16.000.000 đồng. Tuy
nhiên, bà L cũng thừa nhận ông M tên trong Tờ thỏa thuận và phía bà B cũng
cho đổ cát san lấp các phần hào trên đất của B và L để m lối đi, điều này
phù hợp với lời khai nhận của B về việc đã trả chi psan lấp cát làm lối đi thay
vì trả tiền cho ông M.
Từ đó, cho thấy có việc thỏa thuận mua bán đất làm lối đi, phía ông M và bà L
không nhận tiền của bà B mà bà B chịu chi phí đổ cát vào các hào trủng trên đất của
ông M, L, trong đó phần đất bà B sử dụng làm lối đi. Phía ông M L cũng
được hưởng lợi từ việc B san lấp đất trủng và trên thực tế, B cũng đã sử dụng
lối đi sau khi san lấp cát trong thời gian dài.
Theo đơn khởi kiện, diện tích đất B yêu cầu được sử dụng 20m
2
, tuy
nhiên qua kết quả đo đạc theo Bản trích đo ngày 08/5/2024 của Văn phòng Đ1 chi
nhánh L2 thì diện tích B chỉ dẫn đo đạc 23,2m
2
phần diện tích 0,5m
2
vị trí
thuộc quyền sử dụng của L. Trong đó: Diện tích 11,2m
2
thuộc giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất của Trần Thị L (thửa đất số 37, tờ bản đsố 58; diện tích
1477,2m
2
), gồm: 10,7m
2
thể hiện tại các điểm 29, 25, 32, 10 0,5m
2
thể hiện tại
các điểm 11, 29, 25, 33. Còn lại diện tích đất thuộc quyền sdụng của ông Trần
Hữu Đ (thửa 38) là 5,1 m
2
; thuộc thửa 41 của B là 6,8m
2
; thuộc
thửa 37 của bà L
là 0,6m
2
.
Việc B thỏa thuận với ông M, L mua phần đất để làm lối đi phù hợp
quy định tại Điều 254 Bộ luật Dân sự năm 2015 về quyền về lối đi qua bất động sản
liền kề. B đã sử dụng lối đi trên đất thuộc quyền sử dụng của L, phù hợp
với nội dung thỏa thuận tại Tờ thỏa thuận ngày 15/6/2016. Tuy việc thỏa thuận mua
bán đất không đảm bảo về điều kiện hiệu lực của hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất nhưng đã được các bên thực hiện trên thực tế.
Theo yêu cầu khởi kiện B yêu cầu L ông M mlối đi ngang 2m, dài
10m. Tòa án cấp sơ thẩm thụ xác định quan hệ tranh chấp là tranh chấp quyền s
dụng đất, lối đi đúng nhưng khi xét xử lại xác định quan hệ tranh chấp hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, từ đó áp dụng Điều 129 Bộ luật Dân sự, công
nhận thỏa thuận chuyển nhượng đất theo Tờ thỏa thuận ngày 15/6/2016 giữa B
với ông M, L không chính xác, không đúng với yêu cầu khởi kiện đã thụ lý,
thực chất đây tranh chấp về quyền sdụng đất, yêu cầu mở lối đi qua bất động
6
sản liền kề theo Điều 254 Bộ luật Dân sự năm 2015. Do đó, cần xác định lại quan
hệ pháp luật tranh chấp cho đúng với yêu cầu khởi kiện của đương sự.
Về nội dung, Tòa án cấp sơ thẩm công nhận cho bà B được quyền sử dụng diện
tích đất 11,2m
2
nằm trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do L đứng tên
(bao gồm: 10,7m
2
thể hiện tại các điểm 29, 25, 32, 10 và 0,5m
2
thể hiện tại các điểm
11, 29, 25, 33 theo bản trích đo hiện trạng ngày 08/05/2024 của Văn phòng Đ1 chi
nhánh L2) n cứ, phù hợp quy định của pháp luật. L và ông M kháng cáo
nhưng không cung cấp được chứng cứ nào khác nên không có cơ sở chấp nhận.
Tuy nhiên, cần sửa bản án sơ thẩm về cách tuyên án trong phần quyết định
về án phí dân sự sơ thẩm, chi phí tố tụng, như sau:
[3] Về án phí dân sự sơ thẩm:
Tòa án cấp thẩm tuyên không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn nhưng không nhận định về nghĩa vụ chịu án phí thẩm của nguyên
đơn không phù hợp quy định tại Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 Điều
27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14. Tuy nhiên, B người cao tuổi, đơn
xin miễn án phí nên được miễn nộp án phí dân sự sơ thẩm.
Do bị đơn người cao tuổi nhưng không đơn xin miễn án phí, Tòa án cấp
thẩm buộc bị đơn chịu án phí dân sự thẩm căn cứ. Tại cấp phúc thẩm, bị
đơn ông M, bà L có đơn xin miễn tạm ứng án phí và án phí. Căn cứ điểm đ khoản 1
Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, bị đơn được miễn án phí. Do đó cần
sửa bản án sơ thẩm về án phí dân sự sơ thẩm.
[4] Về chi phí tố tụng:
Tòa án cấp thẩm không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn lẽ ra, nguyên đơn phải chịu 50% chi phí tố tụng nhưng lại buộc bị đơn ông M
L phải liên đới trách nhiệm nộp tổng số tiền 6.800.000 đồng không đúng
quy định.
Nguyên đơn đã nộp chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ; định giá tài sản, thẩm
định giá tài sản 2.000.000 đồng (theo phiếu chi ngày 09/04/2024) và 4.800.000
đồng (theo phiếu thu số 0941, ngày 17/06/2024 của Công ty Cổ phần T2), tổng cộng
là 6.800.000 đồng.
Ngoài ra, B nộp chi phí đo đạc 3.217.100 đồng (theo hợp đồng đo đạc)
chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ (tại cấp phúc thẩm) là 400.000 đồng. Tại phiên
tòa phúc thẩm, bà B tự nguyện chịu nên không đề cập giải quyết.
Như vậy, cần sửa bản án sơ thẩm, B phải chịu 3.400.000 đồng chi phí tố
tụng (đã thực hiện xong);
Ông M L phải chịu 3.400.000 đồng chi phí tố tụng nghĩa vụ hoàn
lại cho bà B số tiền 3.400.000 đồng.
Quan điểm của Kiểm t viên Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang đề nghị
không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn, sửa bản án thẩm của Tòa án
7
nhân dân thành phố Long Xuyên về cách tuyên phần quyết định, án phí sơ thẩm, chi
phí tố tụng là phù hợp nhận định Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[5] Về án phí phúc thẩm: Do sửa án thẩm nên L ông M không phải
chịu án phí phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 2 Điều 308; khoản 1 Điều 148 của Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015; khoản 2 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016
của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản
lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án;
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Trần Ngọc M và bà Trần Thị L.
Sửa bản án dân sự sơ thẩm số 262/2024/DS-ST ngày 13 tháng 8 năm 2024 của
Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang về án phí, chi phí tố tụng và
cách tuyên án.
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Phan Thị B về việc yêu cầu
ông Trần Ngọc MTrần Thị L mở lối đi.
Phan Thị B được sử dụng diện tích đất 11,2m
2
làm lối đi, trong đó 10,7m
2
thể hiện tại các điểm 29, 25, 32, 10; 0,5m
2
thể hiện tại các điểm 11, 29, 25, 33 theo
Bản trích đo hiện trạng khu đất do Văn phòng đăng đất đai chi nhánh L2 lập
ngày 08/05/2024.
Phan Thị B được liên hệ quan thẩm quyền đăng ký, khai cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định pháp luật.
Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Phan Thị B đối với ông
Trần Ngọc M Trần Thị L vyêu cầu được sử dụng đối với phần diện tích
8,8m
2
.
2. Về chi phí tố tụng:
Bà Phan Thị B phải chịu: 3.400.000 đồng (đã thực hiện xong);
Ông Trần Ngọc M Trần Thị L nghĩa vụ hoàn lại cho B 3.400.000
đồng.
3. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Bà B, ông M và bà L được miễn nộp.
4. Án phí dân sự phúc thẩm: Ông M và bà L không phải chịu.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự
quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, quyền tự nguyện thi
hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 9 Luật Thi
8
hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật
Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TANDCC tại TP.HCM;
- VKSND tỉnh An Giang ;
- TAND thành phố Long Xuyên;
- Chi cục THADS thành phố Long Xuyên;
- Tòa Dân sự;
- Phòng KTNV và THA;
- Văn phòng;
- Các đương sự (để thi hành);
- Lưu HS.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Huỳnh Thanh Tâm
Tải về
Bản án số 141/2025/DS-PT Bản án số 141/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 141/2025/DS-PT Bản án số 141/2025/DS-PT

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất