Bản án số 138/2024/DS ngày 22/02/2024 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp hợp đồng bảo hiểm
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 138/2024/DS
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 138/2024/DS
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 138/2024/DS
Tên Bản án: | Bản án số 138/2024/DS ngày 22/02/2024 của TAND tỉnh Bến Tre về tranh chấp hợp đồng bảo hiểm |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng bảo hiểm |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Bến Tre |
Số hiệu: | 138/2024/DS |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 22/02/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn Tổng Công ty cổ phần B. Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH BẾN TRE
Bản án số: 138/2024/DS – PT;
Ngày: 22/02/2024;
V/v tranh chấp hợp đồng bảo hiểm
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẾN TRE
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
-
Ông Nguyễn Thế Hồng;
Ông Phan Thanh Tòng;
Ông Lê Minh Đạt.
- Thư ký phiên tòa: Bà Nguyễn Minh Phương - Thư ký Tòa án nhân dân
tỉnh Bến Tre.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre tham gia phiên tòa: Bà
Trần Thị Kim Ngân - Kiểm sát viên.
Ngày 22 tháng 02 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét
xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 575/2023/TLPT- DS ngày 07
tháng 12 năm 2023 về tranh chấp hợp đồng bảo hiểm.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 136/2023/DS-ST ngày 20/9/2023 của Tòa án
nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 427/2023/QĐ-PT ngày
31 tháng 01 năm 2024, giữa các đương sự:
1. Bà Phan Thị Tuyết H; sinh năm 1962
Địa chỉ: 050/AT, ấp A, xã A, huyện B, tỉnh Bến Tre.
Ông Võ Thanh D, sinh năm
1992; địa chỉ: C, Đ, phường G, thành phố B, tỉnh Bến Tre; là người đại diện
theo ủy quyền của nguyên đơn (theo văn bản ủy quyền ngày 13/02/2023); có
mặt.
2. Tổng công ty cổ phần B
Trụ sở: 26, T, phường N, quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
Ông Vũ Anh T - Chức vụ: Tổng Giám đốc.
- Ông Nguyễn Huy T1 - Chức vụ: Phó Giám đốc Ban bảo hiểm hàng hải
của Tổng Công ty cổ phần B, địa chỉ: số B, T, phường N, Quận A, Thành phố
2
Hồ Chí Minh; là người đại diện theo ủy quyền (Theo văn bản ủy quyền ngày
28/3/2023); vắng mặt.
- Ông Nguyễn Nhật H1 - Chức vụ: Chuyên viên pháp lý của Tổng Công ty
cổ phần B, địa chỉ: số B, T, phường N, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh; là
người đại diện theo ủy quyền (Theo văn bản ủy quyền ngày 30/8/2023; vắng
mặt.
- Ông Trần Nhật Q - Chức vụ: Trưởng phòng nghiệp vụ của Công ty B1,
địa chỉ: số A, đường N, phường P, thành phố B, tỉnh Bến Tre; là người đại diện
theo ủy quyền (Theo văn bản ủy quyền ngày 28/3/2023); có mặt.
3.
3.1. Công ty B1;
Trụ sở: Số A, đường N, phường P, thành phố B, tỉnh Bến Tre.
Bà Nguyễn Thị N - Chức vụ: Giám đốc.
Công ty B1: Ông Trần Nhật
Q - Chức vụ: Trưởng phòng nghiệp vụ của Công ty B1, địa chỉ: số A, đường N,
phường P, thành phố B, tỉnh Bến Tre; là người đại diện theo ủy quyền (Theo văn
bản ủy quyền ngày 12/4/2023); có mặt.
3.2. Ngân hàng N1.
Trụ sở:2 đường L, phường T, quận B, thành phố Hà Nội.
Ông Tiết Văn T2 - Chức vụ: Tổng Giám
đốc.
Ngân hàng N1: Bà Huỳnh
Thị Hồng V - Phó Giám đốc Ngân hàng N1 - Chi nhánh Thành phố B, địa chỉ:
đường N, phường A, thành phố B, tỉnh Bến Tre; là người đại diện theo ủy quyền
của Giám đốc Ngân hàng N1 - Chi nhánh Thành phố B (Theo văn bản ủy quyền
ngày 12/4/2023); có đơn xin vắng mặt.
- : Tổng Công ty cổ phần B.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
D trình bày:
Ngày 07/3/2021, bà H ký hợp đồng bảo hiểm tàu cá số MHS/02014851 do
Công ty B1 phát hành đối tượng bảo hiểm là thân tàu cá BT – 98354-TS, hiệu
lực từ 07/3/2021 đến 06/3/2022 giá trị tham gia bảo hiểm là 2.515.000.000 đồng
theo điều kiện bảo hiểm mọi rủ ro, người thụ hưởng là Ngân hàng N1 - Chi
nhánh Thành phố B.
3
Vào ngày 24/5/2021, sau khi tàu cá BT – 98354-TS đã hành trình về Cảng
cá B để bốc dỡ hàng thủy sản, tàu cá BT – 98354-TS đã hành trình về neo đậu
tại bến nhà thuộc xã A, huyện B, tỉnh Bến Tre. Khi neo đậu ông Phạm Văn T3,
là người được giao nhiệm vụ trực trông coi tàu cá BT – 98354-TS. Vào ngày
26/5/2021, khi ông T3 đang ngồi uống nước vệ sinh trên bờ, vừa trông coi thì
phát hiện khói bốc lên và lửa ở cabin của tàu cá BT – 98354-TS. Ngay lập tức
ông T3 truy hô và tiến hành cho lùi ngay 03 tàu cá neo đậu bên cạnh đó ra ngoài
sông để tránh cháy lan, nổ lực làm giảm thiệt hại về số lượng tàu cá đồng thời
yêu cầu sự giúp đỡ của Bộ đội Biên phòng và Đội cứu hỏa phòng cháy, chữa
cháy hỗ trợ dập tắt lửa.
Sau khi phát sinh sự kiện bảo hiểm, bà H liên hệ Công ty B1 yêu cầu bồi
thường. Ngày 27/5/2021, Bảo M yêu cầu đề nghị Công ty TNHH G (LCL) giám
định. Ngày 01/4/2022, LCL có báo cáo giám định và nêu chi phí khắc phục sự
cố là 2.000.800.000 đồng. Ngày 03/4/2022 bà H có đơn yêu cầu Bảo Minh B bồi
thường.
Ngày 20/4/2022, Tổng công ty cổ phần B có công văn số 0689/2022 –
BM/HH từ chối bồi thường bảo hiểm với lý do: “Tàu được bảo hiểm đậu tại bến
không được neo, buộc chắc chắn, không có thuyền viên trực hoặc thuyền viên
trực bỏ tàu đi vắng trừ khi có lệnh dời tàu của cơ quan có thẩm quyền”. Đến
ngày 23/6/2022, Tổng công ty cổ phần B có công văn 1178/2022-BM/HH thông
báo vẫn giữ nguyên quan điểm từ chối bồi thường. Việc công ty B1 căn cứ vào
lý do loại trừ bảo hiểm theo khoản 5.2.3 Điều khoản bảo hiểm thân tàu cá vì cho
rằng khi sự cố xảy ra trên tàu cá không có người trông coi là không thỏa đáng,
xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bà H. Bởi vì trong
quá trình giao kết thực hiện bảo hiểm tàu cá bà H không được biết về các điều
khoản, nội dung hợp đồng, cũng như hoàn toàn không được cung cấp; giải thích
Điều khoản bảo hiểm thân tàu cá dẫn đến việc bà H hoàn toàn không biết về
điều khoản loại trừ bảo hiểm. Do đó, việc Công ty B1 áp dụng điều khoản trên
để từ chối bảo hiểm là không đảm bảo quyền lợi của bà H. Hơn nữa, nguyên
nhân sự cố được xác định là khách quan, không phải do con người phá hoại mà
do chập điện trong buồng máy theo ghi nhận tại Báo cáo giám định tàu cá số
279017/LCL ngày 01/4/2022 của LCL CONTROL, đồng thời người coi tàu là
ông T3 phát hiện sự cố đã nổ lực và khẩn trương thực hiệc các biện pháp nhằm
làm giảm thiệt hại đến mức có thể.
Vì vậy, bà H khởi kiện yêu cầu Tổng công ty cổ phần B phải bồi thường số
tiền chi trả bảo hiểm là 2.000.800.000 đồng và phần tiền lãi trả chậm với mức lãi
suất 0,83%/tháng tính từ ngày 20/4/2022 cho đến khi xét xử sơ thẩm với số tiền
là 282.290.000 đồng.
4
Khi tham gia bảo hiểm thì người thụ hưởng là Ngân hàng N1 - Chi nhánh
Thành phố B. Bà H không đồng ý với lời trình bày của Công ty B1 vì: bà H có
bố trí người trông coi, Bảo M cho rằng nếu bồi thường chỉ bồi thường 56,2% là
không đúng vì phần bà H yêu cầu nằm trong mức bảo hiểm, việc khấu trừ 2,5%
số tiền bồi thường bà H không đồng ý vì bà H không biết điều này. Bà H tham
gia đóng Bảo hiểm và đưực Bảo Minh xác nhận thì đề nghị Bảo M bồi thường
để tránh trường hợp kéo dài.
H1 Q
trình bày:
Tổng công ty cổ phần B yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu vì bên nguyên
đơn không thừa nhận chữ ký trong hợp đồng nên không phát sinh trách nhiệm
giữa nguyên đơn và bị đơn. Trường hợp nếu công nhận hợp đồng bảo hiểm thì:
Tàu cá này tham gia bảo hiểm với giá trị là 2.515.000.000 đồng/4.470.000.000
đồng tương đương 56,2%. Nguyên đơn cho rằng Bảo M không giải thích về điều
kiện bảo hiểm là không đúng vì tàu này đã tham gia bảo hiểm nhiều lần và mỗi
lần tham gia Bảo Minh đều cung cấp qui tắc, giải thích và chủ tàu cũng đã ký
nhận trong Giấy yêu cầu bảo hiểm và Bảng kê giá trị tàu.
Việc bà H yêu cầu bồi thường 2.000.800.000 đồng là không hợp lý vì căn
cứ vào Qui tắc bảo hiểm số 1454/2020-BM/HH ngày 01/7/2020 tại điều 5.2.3:
“Tàu được bảo hiểm đậu tại bến không được neo, buộc chắc chắn, không có
thuyền viên trực hoặc thuyền viên trực bỏ tàu đi vắng trừ khi có lệnh dời tàu của
cơ quan có thẩm quyền”. Bà H có giao cho ông T3 trông coi tàu cá, nhưng tại
thời điểm tàu bị cháy ông T3 không có mặt trên tàu, ông đã rời tàu khoảng 30
phút như vậy tổn thất trên thuộc điểm loại trừ bảo hiểm 5.2.5 của Qui tắc bảo
hiểm. Bảo Minh không đồng ý bồi thường vì tổn thất trên thuộc điều khoản loại
trừ.
Trong trường hợp tổn thất trên thuộc phạm vi bảo hiểm thì số tiền bồi
thường không phải là 2.000.800.000 đồng vì tàu cá tham gia chỉ 56,2% nên số
tiền phải giảm xuống và phải khấu hao 2,5% trên số tiền bồi thường.
Nếu trong phạm vi bảo hiểm mà Bảo M phải bồi thường thì số tiền bồi
thường là 56,2% của số tiền 2.000.800.000 đồng nhưng phải khấu trừ đi 2,5%
theo qui định trong hợp đồng bảo hiểm.
Ngân hàng N1 - Chi nhánh thà- bà V trình bày:
Bà Phan Thị Tuyết H có vay Ngân hàng N1 - Chi nhánh T và thế chấp tàu
cá số BT 98354-TS và BT 98254-TS. Đến ngày 01/7/2022 bà H đã trả cho ngân
hàng một số tiền khoản 6.000.000.000 đồng và ngân hàng đã xuất tài sản là hai
tàu cá trên (tài sản là tàu cá thế chấp tại ngân hàng). Ngân hàng không còn liên
5
quan đến tài sản này nên yêu cầu cơ quan chức năng giải quyết theo qui định của
pháp luật và xin vắng mặt trong vụ kiện này.
Sau khi hòa giải không thành, Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre đã đưa
ra xét xử vụ án trên. Tại Bản án dân sự sơ thẩm số: 136/2023/DS-ST ngày 20
tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre đã
tuyên:
Căn cứ vào các Điều 26, 35, 147, 207, 227, 228 và Điều 266 của Bộ luật Tố
tụng dân sự;
Căn cứ điểm 15, 16, 21 Luật Kinh doanh bảo hiểm;
Căn cứ vào Điều 468 và Điều 357 của Bộ luật Dân sự;
Căn cứ vào Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban thường vụ Quốc hội Qui định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của của bà Phan Thị Tuyết H; cụ thể
tuyên:
Tổng công ty cổ phần B phải bồi thường thiệt hại do vụ tai nạn cháy tàu cá
BT-98354-TS ngày 24/5/2021 gây ra theo theo Hợp đồng bảo hiểm tàu cá số
MHS/02014851 ngày 07/3/2021 cho bà Phan Thị Tuyết H tổng số tiền là
1.251.031.072 đồng (Một tỷ hai trăm năm mươi mốt triệu không trăm ba mươi
mốt ngàn bảy trăm hai đồng).
Tổng Công ty cổ phần B phải trả cho bà Phan Thị Tuyết H chi phí giám
định chữ ký là: 1.830.000 đồng (Một triệu tám trăm ba mươi ngàn đồng).
Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường
hợp cơ quan thi thành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể
từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các
khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong,
tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền
lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468
Bộ luật dân sự năm 2015.
Bác một phần yêu cầu của bà H đối với việc yêu cầu Tổng công ty cổ phần
B đối với số tiền 1.032.052.298 đồng (Một tỷ không trăm ba mươi hai triệu
không trăm năm mươi hai ngàn hai trăm chín mươi tám đồng).
Bác yêu cầu phản tố của Tổng công ty cổ phần B về việc tuyên bố Hợp
đồng bảo hiểm MHS/02014851 ngày 07/3/2021 vô hiệu.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về lãi suất chậm thi hành án, án phí và
quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 22/9/2023, bị đơn Tổng công ty cổ phần B kháng cáo toàn bộ bản án
sơ thẩm.
6
Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị
đơn vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo. Nguyên đơn không đồng ý kháng cáo
của bị đơn, đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan thống nhất với nội dung kháng cáo của bị đơn.
Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre:
Về tố tụng: Người tiến hành tố tụng đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật
Tố tụng dân sự, người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ
theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố
tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ nguyên bản án dân sự
sơ thẩm.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời trình bày của các
đương sự, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Xét kháng cáo của bị đơn
và đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng: Bị đơn kháng cáo và thực hiện các thủ tục kháng cáo hợp lệ,
trong thời hạn luật định nên được xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm
theo quy định tại Điều 285, Điều 293 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung: Ngày 07/3/2021, bà H ký hợp đồng bảo hiểm tàu cá số
MHS/02014851 do Công ty B1 phát hành đối tượng bảo hiểm là thân tàu cá BT
– 98354-TS, hiệu lực từ 07/3/2021 đến 06/3/2022 giá trị tham gia bảo hiểm là
2.515.000.000 đồng theo điều kiện bảo hiểm mọi rủ ro, người thụ hưởng là
Ngân hàng N1 - Chi nhánh thành phố B.
Nguyên nhân dẫn đến tàu cá nêu trên cháy theo Kết luận giám định của
Công ty TNHH G là do “Bà H có cử ông T3
trong coi tàu cá nhưng khi xảy ra tàu cháy thì ông T3 vừa lên bờ uống nước cách
chỗ tàu neo đậu khoảng trên dưới 60m. Nguyên nhân cháy là do và
vị trí cháy ban đầu là -98354-, sự cố này
chỉ khi ngọn lửa cháy lớn mới có thể phát hiện. Bên cạnh đó, theo ý kiến kết
luận của giám định viên LCL CONTROL về tổn thất thì: “do chập điện từ bên
trong buồng máy tàu cá BT 98354-TS, gây ra các tổn thất cháy tàu cá BT
98354-TS” còn người trông coi tàu cá thì: “thông thường sau chuyến biển vào
bờ thì thuyền viên làm việc trên tàu sẽ xin về thăm nhà,…Thời gian chuẩn bị từ
01 đến 02 tuần,…Trong lúc chờ đợi thì tàu sẽ neo đậu tại bến cùng với các tàu
khác và sẽ được người trực tàu ở bờ trông coi, thường người này là người thân
quen của chủ tàu, vừa trông coi đội tàu vừa trông coi bến bãi và phụ chạy vật tư
cho chủ tàu,… Một người sẽ trông coi nguyên đội tàu từ hai đến trên chục chiếc,
7
… Người trông coi tàu thường chỉ phụ trách trông coi tài sản trên tàu, không cho
người lạ lên tàu, can thiệp trong trường hợp tàu bị trôi dạt,...”.
Căn cứ tài liệu chứng cứ trong hồ sơ thể hiện tàu cá trên có người trong coi
là ông T3, sau khi ông T3 đi vệ sinh, đang ngồi uống nước trên bờ, ở cách tàu
khoảng 60m. Như vậy, mặc dù ông T3 không ở trên tàu nhưng chỉ ở cách tàu
khoảng 60m nên vẫn trong phạm vi gần có thể quan sát, trông giữ được tàu.
Trong trường hợp này khi phát sinh cháy ông T3 có ở trên tàu mà nguyên nhân
cháy là do chập điện thì ông T3 cũng khó có thể phát hiện để phòng, tránh được
vả lại, ngay khi nhìn thấy tàu bốc khói cháy ông T3 đã tri hô, di dời và tiến hành
cho lùi ngay 03 tàu cá neo đậu bên cạnh đó ra ngoài sông để tránh cháy lan, nổ
lực làm giảm thiệt hại về số lượng tàu cá đồng thời yêu cầu sự giúp đỡ của Bộ
đội biên phòng và đội cứu hỏa phòng cháy, chữa cháy hỗ trợ dập tắt lửa. Do đó,
bà H và ông T3 không vi phạm quy định vào điều khoản loại trừ trách nhiệm
bảo hiểm nêu trên.
Đối với trường hợp loại trừ trách nhiệm bồi thường bảo hiểm theo qui định
tại khoản 2 Điều 16 của Luật kinh doanh Bảo hiểm đã quy định khi ký hợp đồng
bảo hiểm thì những điều khoản loại trừ bảo hiểm phải được ghi vào hợp đồng
bảo hiểm hoặc phụ lục kèm theo hợp đồng bảo hiểm, trong trường hợp này thì
Bảo M chỉ cấp giấy chứng nhận bảo hiểm mà trong giấy chứng nhận bảo hiểm
này không có kèm theo những điều khoản loại trừ trách nhiệm bồi thường bảo
hiểm cho người mua bảo hiểm, điều này cũng chứng minh lời trình bày của bà H
là phù hợp về việc không được phía Công ty B1 giải thích, cung cấp đầy đủ các
thông tin về điều khoản loại trừ trách nhiệm theo quy định tại điểm a khoản 2
Điều 17 Luật Kinh doanh bảo hiểm, do vậy, trong trường hợp này không thuộc
trường hợp loại trừ trách nhiệm bồi thường theo qui định tại khoản 2 Điều 16
Luật kinh doanh bảo hiểm được sửa đổi bổ sung năm 2010. Do đó, hoàn cảnh
xảy ra sự cố cháy tàu không thuộc trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm
theo quy định tại khoản 10 Điều 3 Luật Kinh doanh bảo hiểm.
[3] Đối với yêu cầu phản tố của bị đơn về yêu cầu tuyên hợp đồng bảo
hiểm MHS/02014851 do Tổng Công ty cổ phần B – Công ty B1 cấp cho bà H đối
với tàu cá BT-98354-TS vô hiệu, Tòa án sơ thẩm đã không chấp nhận, các đương
sự không kháng cáo, Viện kiểm sát không kháng nghị nội dung này nên Hội
đồng xét xử phúc thẩm không xem xét.
[4] Căn cứ vào khoản 2 Điều 43 Luật Kinh doanh bảo hiểm “Trong trường
hợp hợp đồng bảo hiểm tài sản dưới giá trị được giao kết, doanh nghiệp bảo
hiểm chỉ chịu trách nhiệm bồi thường theo tỷ lệ giữa số tiền bảo hiểm và giá trị
thị trường của tài sản được bảo hiểm tại thời điểm giao kết hợp đồng”. Giá trị
thực tế của tàu cá BT- 98354 TS là 4.470.000.000đồng, số tiền bảo hiểm
2.515.000.000đồng, tức tỷ lệ bảo hiểm 56,2%. Chị H thống nhất thiệt hại theo
8
kết luận giám định của Công ty TNHH G là 2.000.800.000 đồng. Số tiền này là
toàn bộ chi phí khắc phục sự cố tổn thất sau khi tàu cá BT-98354 TS bị cháy vào
ngày 26/5/2021. Do đó, căn cứ vào khoản 2 Điều 43 Luật kinh doanh bảo hiểm
thì mức chi trả bảo hiểm trong trường hợp này là 2.000.800.000 đồng x 56,2% =
1.124.449.600 đồng. Trong đơn bảo hiểm còn qui định về mức khấu trừ là 2,5%
là 28.111.240 đồng, do đó sau khi khấu trừ còn lại là 1.096.338.360 đồng.
[5] Đối với yêu cầu tính lãi chậm trả cho đến ngày Tòa án xét xử sơ thẩm là
có căn cứ. Tuy nhiên về thời điểm tính lãi chậm trả thấy rằng theo quy định tại
Điều 15 Luật KDBH thì thời điểm phát sinh trách nhiệm bảo hiểm “
” và tại Điều 9 Quy tắc 2288 “
…”. Trong trường
hợp này, do bà H yêu cầu tính từ ngày 20/4/2022 cho đến ngày Tòa án đưa vụ án
ra xét xử sơ thẩm với mức lãi suất 0,83%/ là tự nguyện và phù hợp với qui định
nên được chấp nhận.
Số tiền 1.096.338.360 đồng được tính lãi suất theo mức 0,83%/ tháng từ
20/4/2022 cho đến ngày xét xử là: 1.096.338.360 đồng x 0,83% x 17 tháng =
154.693.342 đồng. Tổng cộng là 1.251.031.702 đồng (Một tỷ hai trăm năm
mươi mốt triệu không trăm ba mươi mốt ngàn bảy trăm lẻ hai đồng). Tòa án sơ
thẩm có sai sót chữ số, cấp phúc thẩm điều chỉnh cho phù hợp.
Từ những phân tích trên, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận một phần yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn, buộc Tổng công ty cổ phần B bồi thường số tiền bảo
hiểm cho bà Phan Thị Tuyết H tổng số tiền 1.251.031.702 đồng, bao gồm:
1.096.338.360 đồng số tiền bồi thường bảo hiểm và 154.693.342 đồng là tiền lãi
suất chậm trả, không chấp nhận yêu cầu của bà H đối với số tiền 1.032.052.298
đồng (Một tỷ không trăm ba mươi hai triệu không trăm năm mươi hai ngàn hai
trăm chín mươi tám đồng) là có căn cứ.
[6] Theo thoả thuận trong “đơn bảo hiểm” cũng như đề nghị của bà Phan
Thị Tuyết H thì tiền bảo hiểm đối với tàu cá BT-98354-TS do Ngân hàng N1–
Chi nhánh thành phố B là người thụ hưởng. Tuy nhiên, Ngân hàng N1– Chi
nhánh thành phố B có văn bản trình bày ý kiến xác định tài sản tàu cá BT-
98354-TS hiện không còn thế chấp tại Ngân hàng và không có phát sinh tranh
chấp nên không yêu cầu giải quyết và từ chối tham gia tố tụng nên Hội đồng xét
9
xử không xem xét giao dịch giữa bà H và Ngân hàng, nếu các bên có phát sinh
tranh chấp sẽ được giải quyết bằng vụ việc khác khi có yêu cầu.
[7] Bị đơn kháng cáo nhưng không đưa ra được tài liệu, chứng cứ chứng
minh cho yêu cầu kháng cáo của mình là có căn cứ nên không được chấp nhận
toàn bộ.
[8] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre là phù
hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[9] Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí dân sự
phúc thẩm.
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn Tổng Công ty cổ phần B.
Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số: 136/2023/DS-ST ngày 20 tháng 9
năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre.
Cụ thể tuyên:
Căn cứ vào các Điều 26, 35, 147, 207, 227, 228 và Điều 266 của Bộ luật Tố
tụng dân sự;
Căn cứ điểm 15, 16, 21 Luật Kinh doanh bảo hiểm;
Căn cứ vào Điều 468 và Điều 357 của Bộ luật Dân sự;
Căn cứ vào Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy
ban thường vụ Quốc hội Qui định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp quản lý và sử
dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của của bà Phan Thị Tuyết H; cụ
thể tuyên:
Tổng công ty cổ phần B phải bồi thường thiệt hại do vụ tai nạn cháy tàu cá
BT-98354-TS ngày 24/5/2021 gây ra theo theo Hợp đồng bảo hiểm tàu cá số
MHS/02014851 ngày 07/3/2021 cho bà Phan Thị Tuyết H tổng số tiền là
1.251.031.702 đồng (Một tỷ hai trăm năm mươi mốt triệu không trăm ba mươi
mốt ngàn bảy trăm lẻ hai đồng).
Tổng Công ty cổ phần B phải trả cho bà Phan Thị Tuyết H chi phí giám
định chữ ký là: 1.830.000 đồng (Một triệu tám trăm ba mươi ngàn đồng).
Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường
hợp cơ quan thi thành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể
từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các
khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong,
10
tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền
lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468
Bộ luật dân sự năm 2015.
Bác một phần yêu cầu của bà H đối với việc yêu cầu Tổng công ty cổ phần
B đối với số tiền 1.032.052.298 đồng (Một tỷ không trăm ba mươi hai triệu
không trăm năm mươi hai ngàn hai trăm chín mươi tám đồng).
Bác yêu cầu phản tố của Tổng công ty cổ phần B về việc tuyên bố Hợp
đồng bảo hiểm MHS/02014851 ngày 07/3/2021 vô hiệu.
- Tổng công ty cổ phần B phải nộp
là 49.530.950 đồng (Bốn mươi chín triệu năm trăm ba mươi ngàn chín trăm năm
mươi đồng) và án phí đối với phần yêu cầu phản tố không được chấp nhận là
300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) nhưng được khấu trừ theo Biên lai thu tiến
tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0007221 ngày 08/9/2023 của Chi cục thi hành
án dân sự thành phố Bến Tre. Bà H không phải chịu án phí.
- Về án phí dân sự phúc thẩm: Tổng Công ty cổ phần B phải chịu án phí là
300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã
nộp 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu số 0007306 ngày
05/10/2023 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Bến Tre.
án dâ
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- VKSND tỉnh Bến Tre;
- Phòng KTNV&THA TAND tỉnh;
- TAND thành phố Bến Tre;
- Chi cục THADS thành phố Bến Tre;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ, văn phòng.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Nguyễn Thế Hồng
Tải về
Bản án số 138/2024/DS
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 138/2024/DS
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 18/09/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 08/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 05/08/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 24/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 23/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 01/07/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 21/06/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 21/06/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 20/06/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 06/06/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 03/06/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 31/05/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 28/05/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 27/04/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 22/04/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 29/03/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 26/03/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 26/03/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 23/02/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm