Bản án số 125/2024/HC-ST ngày 15/08/2024 của TAND huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 125/2024/HC-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 125/2024/HC-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 125/2024/HC-ST
Tên Bản án: | Bản án số 125/2024/HC-ST ngày 15/08/2024 của TAND huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Tiên Phước (TAND tỉnh Quảng Nam) |
Số hiệu: | 125/2024/HC-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 15/08/2024 |
Lĩnh vực: | Hành chính |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ án: | Hành chính |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH QUẢNG NAM
Bản án số: 125/2024/HC-ST
Ngày 15 - 8 - 2024
“V/v: Khiếu kiện quyết định
hành chính, hành vi hành chính
về lĩnh vực quản lý đất đai”
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NAM
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Thanh Tuyên;
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Phạm Ngọc Vinh;
Ông Trần Thanh Liên.
- Thư ký phiên tòa: Bà Trần Thị Thư - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Quảng Nam.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam tham gia phiên
tòa: Ông Huỳnh Văn Hảo - Kiểm sát viên.
Ngày 15 tháng 8 năm 2024, tại trụ sở, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam
xét xử sơ thẩm công khai
vụ án hành chính sơ thẩm thụ lý số 110/2023/TLST-
HC ngày 04 tháng 7 năm 2023 về việc “Khiếu kiện quyết định hành chính,
hành vi hành chính về lĩnh vực quản lý đất đai” theo Quyết định đưa vụ án ra
xét xử số 134/2024/QĐXXST-HC ngày 28 tháng 6 năm 2024, Thông báo về
việc thay đổi thời gian xét xử số 632/TB-TA ngày 19 tháng 7 năm 2024 của
Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam, giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: ông Bùi Ngọc T, sinh năm 1973.
Người đại diện theo ủy quyền: ông Bùi Xuân T, sinh năm 1993.
Cùng địa chỉ: thôn H, xã T, huyện N, tỉnh Quảng Nam. Có mặt.
- Người bị kiện:
1. Ủy ban nhân dân (UBND) huyện N, tỉnh Quảng Nam. Địa chỉ: khối
phố 3, thị trấn Núi Thành, huyện N, tỉnh Quảng Nam.
Người đại diện theo ủy quyền: ông Nguyễn Chí D – Phó Chủ tịch
UBND huyện N, tỉnh Quảng Nam. Có yêu cầu giải quyết vắng mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: ông Nguyễn Như N – Phó
trưởng phòng Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện N. Có mặt.
2. Văn phòng Đăng ký đất đai Quảng Nam. Địa chỉ: số 99A, đường Hù,
phường A, thành phố T, tỉnh Quảng Nam.

2
Người đại diện theo ủy quyền: ông Trần Văn C – Phó Giám đốc Văn
phòng Đăng ký đất đai Q. Có yêu cầu giải quyết vắng mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: ông Phạm Văn T - Giám đốc
Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai N. Có yêu cầu giải quyết vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Bà Ngô Thị Hồng M (Ngô Thị M), sinh năm 1972,
+ Ông Bùi Xuân T, sinh năm 1993,
+ Ông Bùi Xuân S, sinh năm 1998,
+ Ông Bùi Xuân T, sinh năm 2004;
Cùng địa chỉ: Thôn H, xã T, huyện N, tỉnh Quảng Nam.
Ông T có mặt; còn lại có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.
+ Uỷ ban nhân dân xã T, huyện N, tỉnh Quảng Nam.
Người đại diện theo pháp luật: ông Nguyễn Xuân L - Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân xã T, huyện N, tỉnh Quảng Nam.
Địa chỉ: thôn L, xã T, huyện N, tỉnh Quảng Nam. Có yêu cầu giải quyết
vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại hồ sơ vụ án và tại phiên toà, người khởi kiện ông Bùi Ngọc T và đại
diện theo uỷ quyền cho người khởi kiện trình bày:
Năm 1992, ông Bùi Ngọc T và bà Ngô Thị Hồng M có nhận chuyển
nhượng một lô đất có diện tích khoảng 400 m
2
của ông Ngô Nhung, thửa đất có
tứ cận: phía Đông giáp đường Hòa Bình (nay là đường Thanh Niên), phía Bắc
giáp vườn của ông Nguyễn Tánh, phía Nam giáp vườn nhà ông Nguyễn Tám,
phía Tây lấy ranh giới là hàng thông; địa chỉ thửa đất tại: thôn 1A (nay là thôn
H), xã T, huyện N với giá trị chuyển nhượng là 1.500.000 đồng (Một triệu năm
trăm ngàn đồng), các bên mới viết Giấy chuyển nhượng đất ngày 02/9/1992
(được Ban Nhân dân thôn xác nhận vào ngày 04/9/1992). Vợ chồng ông Tiên
làm nhà ở ổn định và liên tục từ năm 1997 đến nay.
Ngày 28/07/2003, UBND huyện N có Quyết định số 4219/QĐ-UB về
việc thừa nhận quyền sử dụng đất cho công dân. Theo đó, thừa nhận quyền sử
dụng đất của ông Bùi Ngọc T và bà Ngô Thị Mản với diện tích 204,3 m
2
đất ở,
tờ bản đồ số 04, tại thôn 1A (nay là thôn H), xã T.
Đến năm 2007, ông Tiên được UBND huyện N cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số AK355437, số vào sổ H02764, ngày 22/10/2007, đối với
thửa đất số 612, tờ bản đồ số 04, diện tích 204,3 m
2
đất ở nông thôn, tại thôn
H (thôn 1A cũ), xã T, huyện N, tỉnh Quảng Nam. Năm 2020, ông Tiên thực
hiện trích đo thửa đất nêu trên.
Theo Mảnh trích đo chỉnh lý số 4826/CNVPĐK ngày 23/12/2020 của Chi
nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai N có thông tin: thửa đất số 787, tờ bản đồ

3
23, diện tích 415 m
2
, mục đích sử dụng đất: đất ở 204,3 m
2
, đất trồng cây lâu
năm 210,7 m
2
. Qua đó thể hiện diện tích đất ở đã được cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất; còn diện tích đất trồng cây lâu năm chưa được cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất. Lúc đó, ông Bùi Ngọc T mới biết diện tích đất
đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không đúng với diện tích ông nhận
chuyển nhượng và sử dụng ổn định.
Ngày 21/4/2022, ông Bùi Ngọc T có đơn xin kiến nghị với nội dung:
Qua đo đạc lại diện tích tích thực tế sử dụng của ông Bùi Ngọc T thì được biết
UBND huyện N cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sổ H02764,
ngày 22/10/2007 cho ông Tiên, bà Mản không đúng thực tế sử dụng, sai hình
thể, diện tích thực tế sử dụng lớn hơn diện tích được cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất. Ngày 10/8/2022, Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện
N, Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai N, UBND nhân dân xã và đại diện
Ban nhân dân thôn H lập biên bản làm việc theo nội dung đơn kiến nghị của
công dân; theo đó thống nhất phần diện tích 210,7 m
2
là phần diện tích tăng
thêm.
Sau đó, ông Bùi Ngọc T nộp hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đối với phần diện tích đất còn lại (gọi là phần diện tích đất tăng thêm)
của thửa đất số 787, tờ bản đồ số 23. Ngày 10/4/2023, Phòng Tài nguyên và
Môi trường huyện N ban hành Phiếu chuyển trả hồ sơ số 52/PCT-TNMT đối
với hồ sơ ông Bùi Ngọc T và bà Ngô Thị Hồng M, loại hồ sơ: xin cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất tăng thêm.
Vì vậy, ông Bùi Ngọc T khởi kiện yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Quảng
Nam xem xét và giải quyết các vấn đề sau:
- Huỷ Phiếu chuyển trả hồ sơ số 52/PCT-TNMT ngày 10/4/2023 của
Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện N đối với hồ sơ ông Bùi Ngọc T và bà
Ngô Thị Hồng M, loại hồ sơ: xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tăng
thêm.
- Buộc Văn phòng Đăng ký đất đai Quảng Nam và Uỷ ban nhân dân
huyện N tiếp nhận lại hồ sơ và thực hiện cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đối với thửa đất số 787, tờ bản đồ số 23 (theo cơ sở dữ liệu mới), diện
tích 415 m
2
tại thôn H, xã T, huyện N, tỉnh Quảng Nam cho hộ ông Bùi Ngọc T
theo đúng quy định của pháp luật.
Sau khi Toà án thụ lý giải quyết vụ án, khi nhận được theo Mảnh trích đo
chỉnh lý bản đồ địa chính số 02-2024 ngày 24/4/2024, ông Bùi Ngọc T mới biết
ngôi nhà ông xây dựng và sử dụng từ năm 1997 đến nay có một phần ngôi nhà
nằm trên diện tích đất đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, một
phần ngôi nhà nằm trên diện tích đất chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất nên ông khởi kiện bổ sung yêu cầu Toà án giải quyết:
- Huỷ Quyết định số 4219/QĐ-UB ngày 28/07/2003 của UBND huyện N
về việc thừa nhận quyền sử dụng đất cho công dân.
- Huỷ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK355437, số vào sổ

4
H02764 do UBND huyện N cấp ngày 22/10/2007 đối với thửa đất số 612, tờ
bản đồ số 4, diện tích 204,3 m² đất ở nông thôn, tại thôn H, xã T, huyện N cho
ông Bùi Ngọc T và bà Ngô Thị Hồng M (vì lý do thừa nhận quyền sử dụng đất
không đúng so với vị trí đã xây dựng nhà ở từ năm 1997).
- Buộc Uỷ ban nhân dân huyện N công nhận toàn bộ diện tích 415 m²
thuộc thửa đất số 787, tờ bản đồ số 23 tại thôn H, xã T, huyện N (theo Mảnh
trích đo chỉnh lý bản đồ địa chính số 02 - 2024 ngày 24/4/2024) cho ông Bùi
Ngọc T và bà Ngô Thị Hồng M.
Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà, người khởi kiện và đại
diện hợp pháp của người khởi kiện rút một phần nội dung yêu cầu khởi kiện về
việc: buộc Văn phòng Đăng ký đất đai Quảng Nam và Uỷ ban nhân dân huyện
N tiếp nhận lại hồ sơ và thực hiện cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
đối với thửa đất số 787, tờ bản đồ số 23 (theo cơ sở dữ liệu mới), diện tích 415
m
2
tại thôn H, xã T, huyện N, tỉnh Quảng Nam cho hộ ông Bùi Ngọc T theo
đúng quy định của pháp luật.
Tại hồ sơ vụ án, người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện (UBND
huyện N), người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện trình bày:
Theo hồ sơ 64/CP thể hiện, thửa đất hiện nay do ông Bùi Ngọc T đang
quản lý, sử dụng thuộc thửa đất số 494, tờ bản đồ số 4, diện tích 45.539 m², loại
đất RT/g do UBND xã T quản lý.
Ngày 28/7/2003, UBND huyện N ban hành Quyết định số 4219/QĐ-UB
về việc thừa nhận quyền sử dụng đất cho công dân. Theo đó, thừa nhận cho ông
Bùi Ngọc T và bà Ngô Thị Mản (thực tế là Ngô Thị Hồng M) diện tích 204,3
m² loại đất ở nông thôn tại tờ bản đồ số 4, thôn 1A (nay là thôn H), xã T; nguồn
gốc là do UBND xã giao, thời điểm sử dụng đất là năm 1998.
Ngày 22/10/2007, UBND huyện N cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất số AK 355437 cho ông Bùi Ngọc T và bà Ngô Thị Hồng M tại thửa đất số
612, tờ bản đồ số 4, diện tích 204,3 m², loại đất ở (được chỉnh lý số thửa từ
Quyết định số 4219/QĐ-UB nói trên).
Năm 2022, ông Bùi Ngọc T có Đơn xin trích lục, trích đo thửa đất và đã
được Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai N đo đạc; kết quả diện tích thửa
đất đo đạc lại là 415 m², tăng so với diện tích được cấp Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất là 210,7 m².
Theo hồ sơ cơ sở dữ liệu thể hiện, thửa đất số 612, tờ bản đồ số 4 được
đo đạc lại thành thửa đất số 787, tờ bản đồ số 23, diện tích 415 m², tăng so với
diện tích được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 210,7 m².
Sau đó, ông Bùi Ngọc T lập thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất tăng thêm tại thửa đất số 787, tờ bản đồ số 23 (theo hồ sơ cơ sở dữ liệu),
diện tích 410 m², bao gồm diện tích thửa đất gốc là 204,3 m² và diện tích tăng
thêm 210,7 m²; phần diện tích tăng thêm được chủ sử dụng đất và các bên liên
quan đo đạc, xác định theo hiện trạng và thể hiện trên hồ sơ là đất cây lâu năm
(không phải là đất vườn, ao trong cùng thửa đất). Hồ sơ đã được UBND xã T,

5
Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai N xác nhận và chuyển đến Phòng Tài
nguyên và Môi trường kiểm tra, trình UBND huyện ký Giấy CNQSD đất.
Qua kiểm tra, Phòng Tài nguyên và Môi trường ban hành Phiếu chuyển
trả số 52/PCT-TNMT ngày 10/4/2023 với lý do hồ sơ không đủ điều kiện cấp.
Qua xem xét nội dung Phiếu chuyển trả số 52/PCT-TNMT ngày
10/4/2023; căn cứ quy định pháp luật tại điểm a khoản 3 Điều 3 Luật Đất đai
2013:
“3. Đối với thửa đất sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau (không phải
là đất vườn, ao trong cùng thửa đất) thì việc xác định loại đất quy định tại
khoản 1 và khoản 2 Điều này thực hiện như sau:
a) Trường hợp xác định được ranh giới sử dụng đất giữa các mục đích
thì tách thửa đất theo từng mục đích và xác định mục đích cho từng thửa đất
đó;”
Tại điểm a Mục 8 Công văn số 362/STNMT-ĐK ngày 14/3/2018 của Sở
Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Nam cũng hướng dẫn, cụ thể “Thửa đất
ở có vườn ao và thửa đất nông nghiệp (được Nhà nước giao đất không thu tiền
sử dụng đất) không có nguồn gốc từ đất vườn ao thì không đủ điều kiện để hợp
thành một thửa đất” việc Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện N ban hành
Phiếu chuyển trả số 52/PCT-TNMT ngày 10/4/2023 là có cơ sở, đúng quy định
của pháp luật.
UBND huyện N không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Bùi Ngọc T
về việc yêu cầu huỷ Phiếu chuyển trả hồ sơ số 52/PCT-TNMT ngày 10/4/2023
của Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện N (hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất tăng thêm của hộ ông Bùi Ngọc T).
Còn ông Bùi Ngọc T bổ sung nội dung khởi kiện yêu cầu hủy Quyết định
số 4219/QĐ-UB ngày 28/7/2003 và Giấy CNQSD đất số AK355437 do UBND
huyện N cấp ngày 22/10/2007 tại thửa đất số 612, tờ bản đồ số 4, diện tích
204,3 m², tại thôn H, xã T, huyện N vì lý do UBND huyện thừa nhận quyền sử
dụng đất không đúng so với vị trí đã xây dựng nhà ở từ năm 1997.
Ngày 02/7/2024, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam kiểm tra hiện trạng
sử dụng đất của ông Bùi Ngọc T. Căn cứ trên kết quả xác định vị trí đất được
cấp Giấy CNQSD đất, hiện trạng nhà ở của ông Bùi Ngọc T so với vị trí được
cấp Giấy CNQSD đất theo sản phẩm đo đạc của Văn phòng Đăng ký đất đai
Quảng Nam cũng như ý kiến của UBND xã T về nguồn gốc, quá trình quản lý
sử dụng, thời điểm xây dựng nhà ở của ông Bùi Ngọc T đề nghị Tòa án nhân
dân tỉnh Quảng Nam giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
Tại hồ sơ vụ án, người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện (Văn
phòng Đăng ký đất đai Quảng Nam) trình bày: Đề nghị giải quyết vụ án theo
quy định của pháp luật.
Ý kiến của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam tham
gia phiên tòa:

6
Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, những
người tiến hành tố tụng và các đương sự đã chấp hành đúng quy định của Luật
Tố tụng hành chính năm 2015.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử:
- Căn cứ khoản 2 Điều 173 của Luật Tố tụng hành chính năm 2015, đình
chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện về việc: buộc Văn phòng Đăng ký đất
đai Quảng Nam và Uỷ ban nhân dân huyện N tiếp nhận lại hồ sơ và thực hiện
cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 787, tờ bản đồ
số 23 (theo cơ sở dữ liệu mới), diện tích 415 m
2
tại thôn H, xã T, huyện N, tỉnh
Quảng Nam cho hộ ông Bùi Ngọc T theo đúng quy định của pháp luật.
- Căn cứ điểm g khoản 1 Điều 143, Điều 165 của Luật Tố tụng hành
chính năm 2015: đề nghị HĐXX đình chỉ giải quyết đối với yêu cầu của ông
Bùi Ngọc T về việc hủy Quyết định số 4219/QĐ-UB ngày 28/07/2003 của
UBND huyện N về việc thừa nhận quyền sử dụng đất cho công dân và Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số AK355437 do UBND huyện N cấp ngày
22/10/2007 đối với thửa đất số 612, tờ bản đồ số 4, diện tích 204,3 m², tại thôn
H, xã T, huyện N cho ông Bùi Ngọc T và bà Ngô Thị Hồng M.
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 193 Luật Tố tụng hành chính năm 2015, đề
nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Bùi Ngọc
T đối với yêu cầu:
- Huỷ Phiếu chuyển trả hồ sơ số 52/PCT-TNMT ngày 10/4/2023 của
Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện N đối với hồ sơ ông Bùi Ngọc T và bà
Ngô Thị Hồng M, loại hồ sơ: xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tăng
thêm.
- Buộc Uỷ ban nhân dân huyện N công nhận toàn bộ diện tích 415 m²
thuộc thửa đất số 787, tờ bản đồ số 23 tại thôn H, xã T, huyện N (theo Mảnh
trích đo chỉnh lý bản đồ địa chính số 02 - 2024 ngày 24/4/2024) cho ông Bùi
Ngọc T và bà Ngô Thị Hồng M.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại
phiên toà, ý kiến trình bày của các bên đương sự và tranh luận tại phiên tòa, ý
kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử xét thấy:
[1]. Về thủ tục tố tụng:
[1.1]. Việc vắng mặt của những người tham gia tố tụng:
Tại phiên toà, vắng mặt đại diện hợp pháp của người bị kiện, người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kiện (Văn phòng Đăng ký đất đai
Quảng Nam), đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng có yêu cầu xét xử vắng mặt; vì
vậy, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt những người tham gia tố
tụng nêu trên theo quy định tại Điều 158 của Luật Tố tụng hành chính năm
2015.
7
[1.2]. Việc người khởi kiện rút một phần nội dung yêu cầu khởi kiện:
Trong quá trình giải quyết vụ án, người khởi kiện, đại diện hợp pháp của
người khởi kiện rút một phần nội dung yêu cầu khởi kiện về việc: buộc Văn
phòng Đăng ký đất đai Quảng Nam và Uỷ ban nhân dân huyện N tiếp nhận lại
hồ sơ và thực hiện cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất
số 787, tờ bản đồ số 23 (theo cơ sở dữ liệu mới), diện tích 415 m
2
tại thôn H, xã
T, huyện N, tỉnh Quảng Nam cho hộ ông Bùi Ngọc T theo đúng quy định của
pháp luật.
Xét thấy việc rút một phần yêu cầu khởi kiện này là tự nguyện, đúng pháp
luật nên căn cứ các Điều 143, 165, 173 của Luật Tố tụng hành chính năm 2015, Hội
đồng xét xử đình chỉ xét xử đối với một phần yêu cầu khởi kiện đã được rút.
[1.3]. Về đối tượng khởi kiện, thẩm quyền giải quyết của Tòa án:
Tại phiên toà, đại diện hợp pháp của người khởi kiện không rút đơn khởi
kiện và yêu cầu Hội đồng xét xử xem xét: huỷ Phiếu chuyển trả hồ sơ số
52/PCT-TNMT ngày 10/4/2023 của Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện N
(hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tăng thêm của hộ ông Bùi
Ngọc T); hủy Quyết định số 4219/QĐ-UB ngày 28/07/2003 của UBND huyện
N về việc thừa nhận quyền sử dụng đất cho công dân; huỷ Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất số AK355437 do UBND huyện N cấp ngày 22/10/2007 đối
với thửa đất số 612, tờ bản đồ số 4, diện tích 204,3 m² đất ở nông thôn tại thôn
H, xã T, huyện N cho ông Bùi Ngọc T và bà Ngô Thị Hồng M; buộc Uỷ ban
nhân dân huyện N công nhận toàn bộ diện tích 415 m² thuộc thửa đất số 787, tờ
bản đồ số 23 tại thôn H, xã T, huyện N (theo Mảnh trích đo chỉnh lý bản đồ địa
chính số 02–2024 ngày 24/4/2024) cho ông Bùi Ngọc T và bà Ngô Thị Hồng
M. Theo quy định tại các Điều 3, 30, 32 của Luật Tố tụng hành chính năm 2015
thì thì đối tượng khởi kiện của vụ án là “Khiếu kiện quyết định hành chính,
hành vi hành chính về lĩnh vực quản lý đất đai” và thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam.
[1.4]. Về quyền khởi kiện và thời hiệu khởi kiện:
Tháng 4/2023, ông Bùi Ngọc T nhận được Phiếu chuyển trả hồ sơ số
52/PCT-TNMT ngày 10/4/2023 của Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện N
(hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tăng thêm của hộ ông Bùi
Ngọc T). Ngày 08/6/2023, ông khởi kiện tại Toà án.
Trong quá trình giải quyết vụ án, ông Bùi Ngọc T biết quyết định thừa
nhận quyền sử dụng đất và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp không
đúng, cụ thể như sau: Theo lời khai của người khởi kiện cũng như đại diện hợp
pháp của người khởi kiện tại phiên toà thể hiện: Năm 2003, vợ chồng ông Bùi
Ngọc T được thừa nhận quyền sử dụng đất, năm 2007 thì được cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất (cụ thể Quyết định số 4219/QĐ-UB ngày 28/07/2003
của UBND huyện N về việc thừa nhận quyền sử dụng đất cho công dân; Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số AK355437 do UBND huyện N cấp ngày
22/10/2007 tại thửa đất số 612, tờ bản đồ số 4, diện tích 204,3 m² đất ở nông
thôn tại thôn H, xã T, huyện N cho ông Bùi Ngọc T và bà Ngô Thị Hồng M).
8
Do không hiểu biết nên lúc làm hồ sơ, ông Bùi Ngọc T nhờ cán bộ giúp đỡ,
hướng dẫn; còn sau khi nhận quyết định thừa nhận quyền sử dụng đất cũng như
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì ông đem cất, không để ý nội dung.
Năm 2020, ông Tiên thực hiện đo trích thửa đất nêu trên. Theo Mảnh trích đo
chỉnh lý số 4826/CNVPĐK ngày 23/12/2020 của Chi nhánh VPĐKĐĐ Núi
Thành có thông tin: thửa đất số 787, tờ bản đồ 23, diện tích 415 m
2
, mục đích
sử dụng đất: đất ở 204,3 m
2
, đất trồng cây lâu năm 210,7 m
2
. Qua đó thể hiện
diện tích đất ở đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; còn diện tích
đất trồng cây lâu năm chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Lúc
đó, ông Bùi Ngọc T mới biết diện tích đất đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất không đúng với diện tích ông nhận chuyển nhượng và sử dụng ổn
định. Và sau khi Toà án thụ lý giải quyết vụ án, khi nhận được Mảnh trích đo
chỉnh lý bản đồ địa chính số 02–2024 ngày 24/4/2024, ông Bùi Ngọc T mới
biết ngôi nhà ông xây dựng và sử dụng từ năm 1997 đến nay, có một phần ngôi
nhà nằm trên diện tích đất đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
một phần ngôi nhà nằm trên diện tích đất chưa được cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất.
Ngày 29/5/2024, ông khởi kiện bổ sung các yêu cầu: hủy Quyết định số
4219/QĐ-UB ngày 28/07/2003 của UBND huyện N về việc thừa nhận quyền
sử dụng đất cho công dân; huỷ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số
AK355437 do UBND huyện N cấp ngày 22/10/2007 đối với thửa đất số 612, tờ
bản đồ số 4, diện tích 204,3 m², tại thôn H, xã T, huyện N cho ông Bùi Ngọc T
và bà Ngô Thị Hồng M; buộc Uỷ ban nhân dân huyện N công nhận toàn bộ
diện tích 415 m² thuộc thửa đất số 787, tờ bản đồ số 23 tại thôn H, xã T, huyện
N (theo Mảnh trích đo chỉnh lý bản đồ địa chính số 02–2024 ngày 24/4/2024)
cho ông Bùi Ngọc T và bà Ngô Thị Hồng M.
Xét thấy, các quyết định hành chính mà ông Bùi Ngọc T khởi kiện có
liên quan đến quyết định hành chính bị khởi kiện, theo quy định tại khoản 1 và
điểm b khoản 2 Điều 193 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 thì:“Hội đồng xét
xử có thẩm quyền xem xét tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi
hành chính...quyết định giải quyết khiếu nại và văn bản quy phạm pháp luật có
liên quan”cũng như Giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ số 01/2017/GĐ-
TANDTC ngày 07/4/2017 thì: “Trong quá trình xét xử, Hội đồng xét xử có
thẩm quyền xem xét tính hợp pháp đối với tất cả các quyết định hành chính
khác có liên quan đến quyết định hành chính bị khởi kiện mà không phụ thuộc
vào việc các quyết định này còn hay hết thời hiệu khởi kiện”.
Đồng thời các nội dung mà ông Bùi Ngọc T khởi kiện bổ sung không
vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu theo quy định tại Điều 173 của Luật Tố
tụng hành chính năm 2015.
Vì vậy, quyền khởi kiện vụ án đảm bảo, đúng theo quy định tại Điều 115
của Luật Tố tụng hành chính năm 2015 và Tòa án xem xét, giải quyết các yêu
cầu của người khởi kiện đảm bảo thời hiệu quy định tại các Điều 116, 193 của
Luật Tố tụng hành chính năm 2015.
9
[2]. Về nội dung vụ án:
[2.1]. Về hồ sơ pháp lý:
Theo Quyết định số 4219/QĐ-UB ngày 28/07/2003 của UBND huyện N
về việc thừa nhận quyền sử dụng đất cho công dân thể hiện: Thừa nhận quyền
sử dụng đất của ông Bùi Ngọc T và bà Ngô Thị Mản với diện tích 204,3 m
2
đất
ở, tờ bản đồ số 04, tại thôn 1A (nay là thôn H), xã T; vị trí ranh giới thửa đất
như trích lục bản đồ kèm theo quyết định (Đông giáp đường Thanh niên, Tây
giáp thửa 489, Nam giáp đất ông Nguyễn Văn Bảy, Bắc giáp đất ông Nguyễn
Văn Tánh. Ngày 22/6/2007, UBND huyện N ban hành Quyết định số 1400/QĐ-
UBND về việc điều chỉnh họ tên tại Quyết định số 4219/QĐ-UB ngày
28/07/2003 của UBND huyện N, theo đó điều chỉnh tên bà Ngô Thị Mản thành
Ngô Thị Hồng M.
Theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK355437, số vào sổ
H02764 của UBND huyện N cấp ngày 22/10/2007 thể hiện: tên người sử dụng
đất: ông Bùi Ngọc T và bà Ngô Thị Hồng M, thửa đất được quyền sử dụng:
thửa đất số 612, tờ bản đồ số 4, diện tích 204,3 m², mục đích sử dụng đất: đất ở
nông thôn, tại thôn 1A (nay là thôn H), xã T, huyện N.
[2.2]. Theo Mảnh trích đo chỉnh lý số 4826/CNVPĐK ngày 23/12/2020
của Chi nhánh VPĐKĐĐ Núi Thành (BL 15) có thông tin: thửa đất số 787, tờ
bản đồ 23 (theo hồ sơ 64/CP là thửa số 612, tờ bản đồ số 4), diện tích 415 m
2
,
mục đích sử dụng đất: đất ở 204,3 m
2
+ đất trồng cây lâu năm 210,7 m
2
, phần
diện tích xin cấp giấy tăng thêm là 210,7 m
2
. Qua đó thể hiện diện tích đất ở đã
được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; còn phần diện tích xin cấp giấy
tăng thêm chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Theo Phiếu xác nhận kết quả đo đạc hiện trạng thửa đất số
2922/CNVPĐK ngày 04/11/2019 (BL 16) thể hiện: Đối với phần diện tích đất
đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cạnh tiếp giáp thửa đất 767
có chiều dài 0,41 mét + 6,21 mét + 1,77 mét= 8,39 mét; cạnh tiếp giáp thửa đất
791 có chiều dài 7,86 +1,14 = 9 mét.
Còn đối với phần diện tích đất chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất (phần xin cấp tăng thêm) cạnh tiếp giáp thửa đất 767 có chiều dài 0,23
+ 8,31 = 8,54 mét; cạnh tiếp giáp thửa đất 791 có chiều dài 8,32 + 0,86 = 9,18
mét.
Theo kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 26/12/2023 (có Mảnh trích
đo địa chính số 02-2024 ngày 24/4/2024 kèm theo) và kết quả xem xét, kiểm
tra hiện trạng ngày 02/7/2024 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Nam thể hiện:
Thửa đất số 787, tờ bản đồ số 23, tổng đo đạc theo hiện trạng là 415 m
2
, thửa
đất được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa đất số 612, tờ bản đồ
số 4, diện tích 204,3 m
2
. Hiện trạng trên đất có nhà trệt, hiên, sân, nhà bếp, chái
sau.
Theo Mảnh trích đo địa chính số 02-2024 ngày 24/4/2024 kèm theo Biên
bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 26/12/2023 thì thửa đất số 787, tờ bản đồ

10
số 23, tổng diện tích đo đạc 415 m
2
, một phần diện tích đất này đã được cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa 612, tờ bản đồ số 4, diện tích
204,3 m
2
. Thửa đất này có cạnh tiếp giáp với thửa đất 767 có chiều dài 0,41 +
7,98 + 0,23 + 8,31 = 16,93 mét; có cạnh tiếp giáp với thửa đất 791 có chiều dài
8,32 + 0,86 + 9,00 = 18,18 mét. Đối với nhà ở: cạnh nhà phía trước 6,19 mét,
cạnh nhà phía giáp thửa đất 767 là 12,83 mét, cạnh nhà phía giáp thửa đất 1109
là 6,19 mét, cạnh nhà phía giáp thửa đất 787 là 12,83 mét.
Theo kết quả xem xét, kiểm tra hiện trạng ngày 02/7/2024 của Toà án
nhân dân tỉnh Quảng Nam thể hiện: Vị trí xây dựng nhà của ông Bùi Ngọc T và
bà Ngô Thị Hồng M như sau: Cạnh nhà phía trước ra hết ranh giới đất: 03 mét
(về phía đường ĐT 613B); từ cạnh nhà phía trước qua ranh giới giáp thửa đất
767: 6,18 mét; cạnh nhà phía sau tiếp giáp thửa đất 716 kéo ra giáp thửa đất
1109: 1,97 mét; cạnh nhà phía trước phía giáp thửa đất 791 kéo ra thửa đất 791:
10,6 mét.
[2.3]. Theo kết quả xác minh của Toà án thể hiện:
Diện tích 415 m² thuộc thửa đất số 787, tờ bản đồ số 23 tại thôn H, xã
T, huyện N hiện nay ông Bùi Ngọc T khởi kiện buộc công nhận quyền sử dụng
đất cho hộ gia đình ông theo hồ sơ 64/CP là thuộc thửa đất số 494, tờ bản đồ số
4, diện tích 45.559 m², loại đất RT/g (Rừng trồng) do UBND xã T quản lý.
Sau khi ông Bùi Ngọc T được UBND huyện giao đất, cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất thì được chỉnh lý trên Sổ mục kê 64/CP thành thửa số
612, tờ bản đồ số 4. Việc chỉnh lý là do cơ quan đăng ký đất đai thực hiện theo
quy định.
Theo hồ sơ cơ sở dữ liệu: Thửa đất số 612, tờ bản đồ số 4 nói trên được
đo đạc lại thành thửa đất số 787, tờ bản đồ số 23, diện tích 415 m
2
(trong đó
bao gồm phần diện tích 204,3 m
2
đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất và phần diện tích 210,7 m² tăng thêm chưa cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất).
Như vậy, theo hồ sơ 64/CP thì phần diện tích 210,7 m² tăng thêm, chưa
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thuộc thửa đất số 494, tờ bản đồ số 4,
diện tích 45.559 m², loại đất RT/g do UBND xã T quản lý.
[2.4]. Xét yêu cầu của người khởi kiện về việc yêu cầu huỷ Phiếu chuyển
trả hồ sơ số 52/PCT-TNMT ngày 10/4/2023 của Phòng Tài nguyên và Môi
trường huyện N (hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tăng thêm
của hộ ông Bùi Ngọc T) thì thấy:
Theo Phiếu lấy ý kiến khu dân cư về nguồn gốc và thời điểm sử dụng đất
ngày 24/8/2020 thể hiện: Phần diện tích đất trồng cây lâu năm tăng thêm 210,7
m
2
do vợ chồng ông Bùi Ngọc T sử dụng ổn định từ trước ngày 01/7/2004; thời
điểm bắt đầu sử dụng năm 1999; không có tranh chấp.
Và trên phần diện tích đất tăng thêm này có nhà ở của vợ chồng ông Bùi
Ngọc T được xây dựng từ năm 1998.
Theo Giấy chuyển nhượng (viết tay) ngày 02/9/1992 thể hiện: ông Ngô

11
Nhung và bà Nguyễn Thị Thơ có chuyển nhượng cho vợ chồng ông Bùi Ngọc
T diện tích ước độ 400 m
2
; Đông giáp đường Hoà Bình, Tây giáp Ranh Thông,
Bắc giáp vườn ông Nguyễn Tánh, Nam giáp nhà ông Nguyễn Tám; được Ban
Nhân dân thôn xác nhận ngày 04/9/1992 với nội dung “Chứng nhận đồng bào
Ngô Nhung có chuyển nhượng lại cho con cháu Bùi Ngọc T 01 lô đất thổ cư,
Đông Tây tứ cận đã ghi trong sơ đồ đất là đúng sự thật. Đề nghị UBND xã,
BĐC xã chứng thực cho đồng bào”.
Theo nội dung Giấy xác nhận ghi ngày 02/6/2024 của ông Bùi Ngọc T
(BL 76) thể hiện: các ông bà Ngô Thị Liên, Ngô Thị Lan, Ngô Văn Thảo (là
các con của ông Ngô Nhung và bà Nguyễn Thị Thơ) đều xác nhận vào năm
1992, ông Ngô Nhung và bà Nguyễn Thị Thơ có chuyển nhượng cho ông Bùi
Ngọc T và bà Ngô Thị Mản một lô đất khoảng 400 m
2
; năm 1997, ông Tiên xây
nhà ở ổn định cho tới nay, không sửa chữa, không cơi nới. Nội dung này cũng
phù hợp với xác nhận của các ông Nguyễn Văn Tánh, ông Nguyễn Bảy. Như
vậy, những người sử dụng đất liền kề (theo kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ
ngày 26/12/2023 của Toà án xác định tứ cận thửa đất như sau: phía Bắc giáp
đất ông Nguyễn Tánh, phía Tây giáp đất ông Ngô Văn Thảo, phía Nam giáp đất
ông Nguyễn Bảy, tứ cận thửa đất được xác định) đều xác nhận ông Bùi Ngọc T
sử dụng đất ổn định, không có cơi nới.
Hội đồng xét xử có cơ sở khẳng định: thửa đất số 787, tờ bản đồ số 23
nguyên trước đây là một thửa (khi nhận chuyển nhượng là 01 thửa khoảng 400
m
2
, ông Bùi Ngọc T sử dụng thửa đất này ổn định, không có cơi nới, không có
tranh chấp. Hơn nữa, ngôi nhà vợ chồng ông Bùi Ngọc T xây dựng vào năm
1997 nằm trên phần diện tích đất đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất và cả phần diện tích đất chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất). Và theo hồ sơ cơ sở dữ liệu được đo đạc lại cũng là một thửa (Theo văn
bản trình bày ý kiến của UBND huyện ngày 10/7/2024 thể hiện: “…Theo hồ sơ
64/CP thể hiện thửa đất ông Bùi Ngọc T đang quản lý, sử dụng thuộc thửa đất
số 494, tờ bản đồ số 4, diện tích 45.539 m², loại đất RT/g do UBND xã T quản
lý. Theo hồ sơ cơ sở dữ liệu thể hiện, thửa đất số 612, tờ bản đồ số 4 được đo
đạc lại thành thửa đất số 787, tờ bản đồ số 23, diện tích 415 m², tăng so với
diện tích được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đất là 210,7 m² ”.
UBND huyện N căn cứ điểm a khoản 3 Điều 3 Luật Đất đai 2013:
“3. Đối với thửa đất sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau (không
phải là đất vườn, ao trong cùng thửa đất) thì việc xác định loại đất quy định
tại khoản 1 và khoản 2 Điều này thực hiện như sau:
a) Trường hợp xác định được ranh giới sử dụng đất giữa các mục đích
thì tách thửa đất theo từng mục đích và xác định mục đích cho từng thửa đất
đó;”
Và điểm a mục 8 Công văn số 362/STNMT-ĐK ngày 14/3/2018 của Sở
Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Nam cũng hướng dẫn, cụ thể:
“Thửa đất ở có vườn ao và thửa đất nông nghiệp (được Nhà nước
giao đất không thu tiền sử dụng đất) không có nguồn gốc từ đất vườn ao thì

12
không đủ điều kiện để hợp thành một thửa đất” để trả hồ sơ là không đúng.
Đúng ra, trong trường hợp này căn cứ điểm d mục 5 Công văn số
362/STNMT-ĐK ngày 14/3/2018 của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng
Nam:
“5. Cấp Giấy chứng nhận trong trường hợp đo đạc lại mà ranh giới
thực tế thửa đất đã thay đổi so với ranh giới thửa đất tại thời điểm có Giấy
chứng nhận hoặc Giấy tờ về quyền sử dụng đất theo quy định tại khoản 20
Điều 2 Nghị định 01/2017/NĐ-CP
d) Trường hợp thửa đất đang sử dụng có diện tích tăng thêm không có
Giấy tờ về quyền sử dụng đất theo quy định thì tùy theo từng trường hợp cụ thể
đã được quy định tại điểm 3 khoản 20 Điều 2 Nghị định 01/2017/NĐ-CP ngày
06/01/2017 của Chính phủ và Chi nhánh chuẩn bị hồ sơ cấp Giấy chứng nhận
cho cả thửa đất đang sử dụng có diện tích tăng thêm theo quy định tại tiết b
điểm 3 khoản 7 Điều 7 Thông tư 33 để chuyển cho phòng Tài nguyên và Môi
trường trình UBND cấp huyện ký cấp Giấy chứng nhận”.
Hội đồng xét xử xét thấy việc UBND huyện N chuyển trả hồ sơ xin cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tăng thêm của hộ ông Bùi Ngọc T là
không đúng, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông. Vì vậy, có
cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông về việc yêu cầu huỷ Phiếu chuyển
trả hồ sơ số 52/PCT-TNMT ngày 10/4/2023 của Phòng Tài nguyên và Môi
trường huyện N (hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tăng thêm
của hộ ông Bùi Ngọc T).
[2.5]. Xét yêu cầu hủy Quyết định số 4219/QĐ-UB ngày 28/07/2003 của
UBND huyện N về việc thừa nhận quyền sử dụng đất cho công dân; huỷ Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số AK355437 do UBND huyện N cấp ngày
22/10/2007 tại thửa đất số 612, tờ bản đồ số 4, diện tích 204,3 m², tại thôn H,
xã T, huyện N cho ông Bùi Ngọc T và bà Ngô Thị Hồng M của người khởi kiện
thì thấy:
Tại phiên toà, đại diện hợp pháp của người khởi kiện, người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị kiện đều thống nhất với nhau về nội
dung: Vợ chồng ông Bùi Ngọc T xây dựng nhà trên thửa đất số 787, tờ bản đồ
số 23 từ năm 1997 và sử dụng ổn định từ đó cho đến nay; có một phần ngôi nhà
nằm trên diện tích đất đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, một
phần ngôi nhà nằm trên diện tích đất chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất.
Và từ những phân tích ở mục [2.1], [2.2] nêu trên, xét thấy rằng việc
công nhận quyền sử dụng đất và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối
với thửa đất số 612, tờ bản đồ số 4, diện tích 204,3 m², tại thôn H, xã T, huyện
N không đúng hiện trạng sử dụng đất (công nhận quyền sử dụng đất và cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với diện tích có một phần ngôi nhà, còn
diện tích có một phần ngôi nhà chưa được công nhận quyền sử dụng đất và cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất).

13
Vì vậy, có cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Bùi Ngọc T về
việc yêu cầu hủy Quyết định số 4219/QĐ-UB ngày 28/07/2003 của UBND
huyện N về việc thừa nhận quyền sử dụng đất cho công dân; huỷ Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số AK355437, số vào sổ H02764, UBND huyện N cấp
ngày 22/10/2007 cho ông Bùi Ngọc T và bà Ngô Thị Hồng M, đối với thửa đất
số 612, tờ bản đồ số 4, diện tích 204,3 m², mục đích sử dụng đất: đất ở nông
thôn, tại thôn 1A, xã T, huyện N, tỉnh Quảng Nam.
[2.6]. Xét yêu cầu của người khởi kiện về việc buộc Uỷ ban nhân dân
huyện N công nhận toàn bộ diện tích 415 m² thuộc thửa đất số 787, tờ bản đồ
số 23 tại thôn H, xã T, huyện N (theo Mảnh trích đo chỉnh lý bản đồ địa chính
số 02 - 2024 ngày 24/4/2024) cho ông Bùi Ngọc T và bà Ngô Thị Hồng M thì
thấy:
[2.6.1]. Theo kết quả cung cấp thông tin của UBND xã T, huyện N tại
Công văn số 89/UBND-TP ngày 17/6/2024 (BL 94), thể hiện:
Theo Mảnh trích địa chính số 02–2024, đo đạc phục vụ công tác thẩm
định tại chỗ của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Nam được Văn phòng Đăng ký
đất đai Quảng Nam ký ngày 24/4/2024 xác định thửa đất số 787, tờ bản đồ số
23, diện tích đo đạc theo hiện trạng 415 m
2
.
Nguồn gốc thửa đất: Vợ chồng ông Bùi Ngọc T nhận chuyển quyền sử
dụng đất từ vợ chồng ông Ngô Nhung và bà Nguyễn Thị Thơ. Thời điểm sử
dụng đất: năm 1998. Thời điểm xây dựng nhà ở: năm 1998. Tình trạng tranh
chấp đất đai, tài sản trên đất: Hiện tại không có tranh chấp. Hiện trạng sử dụng
đất: trên đất có ngôi nhà cấp 4.
Sự phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng: Theo Quyết
định số 917/QĐ-UBND ngày 04/5/2023 của UBND tỉnh Quảng Nam phê duyệt
quy hoạch sử dụng đất đến năm 2030 và Kế hoạch sử dụng đất năm đầu của kỳ
quy hoạch sử dụng đất huyện N, tỉnh Quảng Nam. Vị trí thửa đất là đất giao
thông.
Theo quy hoạch nông thôn mới tại Quyết định số 3173/QĐ-UBND ngày
26/6/2013 của UBND huyện N, vị trí thửa đất là đất khu dân cư nông thôn cải
tạo và đất giao thông.
[2.6.2]. Theo Giấy xác nhận trực tiếp sản xuất nông nghiệp ngày
08/12/2022 thể hiện ông Bùi Ngọc T và bà Ngô Thị Hồng M là người trực tiếp
sản xuất nông nghiệp, có nguồn thu nhập ổn định từ sản xuất nông nghiệp,
không thuộc đối tượng được hưởng lương thường xuyên, đối tượng đã nghỉ
hưu, nghỉ mất sức lao động, thôi việc được hưởng trợ cấp xã hội.
[2.6.3]. Như đã phân tích ở mục [2.2] thì hiện trạng trên thửa đất số 787,
tờ bản đồ số 23 có ngôi nhà do ông Bùi Ngọc T và bà Ngô Thị Hồng M xây và
sử dụng từ năm 1997 đến nay, theo mục [2.4] thì nguồn gốc thửa đất do vợ
chồng ông Bùi Ngọc T nhận chuyển nhượng của vợ chồng ông Ngô Nhung từ
năm 1992, trong quá trình sử dụng, không có thay đổi hiện trạng, không có cơi
nới thêm.

14
[2.6.4]. Đối chiếu với quy định của pháp luật có liên quan thì thấy:
Điều 20 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ
quy định:
Việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài
sản khác gắn liền với đất (công nhận quyền sử dụng đất) cho hộ gia đình, cá
nhân đang sử dụng đất ổn định từ trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 mà không
có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật Đất đai, Điều 18
của Nghị định này và không thuộc trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 101
của Luật Đất đai, Điều 23 của Nghị định này được thực hiện theo quy định như
sau:
2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có nhà ở, công trình xây dựng
khác trong thời gian từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày 01 tháng 7
năm 2004; nay được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là không có tranh chấp
sử dụng đất; phù hợp với quy hoạch hoặc không phù hợp với quy hoạch nhưng
đất đã sử dụng từ trước thời điểm phê duyệt quy hoạch hoặc sử dụng đất tại
nơi chưa có quy hoạch; chưa có thông báo hoặc quyết định thu hồi đất của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền đối với trường hợp phải thu hồi thì được công
nhận quyền sử dụng đất như sau:
a) Đối với thửa đất có nhà ở mà diện tích thửa đất nhỏ hơn hoặc bằng
hạn mức giao đất ở quy định tại Khoản 2 Điều 143 và Khoản 4 Điều 144 của
Luật Đất đai (sau đây gọi là hạn mức giao đất ở) thì toàn bộ diện tích thửa đất
được công nhận là đất ở.
Trường hợp thửa đất có nhà ở mà diện tích thửa đất lớn hơn hạn mức
giao đất ở thì diện tích đất ở được công nhận bằng hạn mức giao đất ở; trường
hợp diện tích đất xây dựng nhà ở và các công trình phục vụ đời sống lớn hơn
hạn mức giao đất ở thì công nhận diện tích đất ở theo diện tích thực tế đã xây
dựng nhà ở và các công trình phục vụ đời sống đó;”.
….
“5. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định vào mục đích thuộc
nhóm đất nông nghiệp từ trước ngày 01 tháng 7 năm 2004, nay được Ủy ban
nhân dân cấp xã xác nhận là đất không có tranh chấp thì được công nhận
quyền sử dụng đất như sau:
c) Đối với đất nông nghiệp trong cùng thửa đất có nhà ở, công trình xây
dựng khác mà không được công nhận là đất phi nông nghiệp quy định tại
Khoản 1 và Khoản 2 Điều này thì hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất được
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất theo mục đích hiện trạng đang sử dụng như trường hợp quy
định tại Điểm a Khoản này; nếu người sử dụng đất đề nghị chuyển sang sử
dụng vào mục đích phi nông nghiệp thì phải làm thủ tục chuyển mục đích sử
dụng đất và phải nộp tiền sử dụng đất theo quy định của pháp luật”.
[2.6.5]. Từ những phân tích trên xét thấy: hộ gia đình ông Bùi Ngọc T sử
dụng ổn định diện tích 415 m² thuộc thửa đất số 787, tờ bản đồ số 23 tại thôn

15
H, xã T, huyện N từ trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 mà không có một trong
các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật Đất đai, Điều 18 của Nghị định
này và không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 101 của Luật Đất
đai, Điều 23 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ,
trên đất có nhà ở được xây dựng và sử dụng từ trước ngày 01 tháng 7 năm
2004; không có tranh chấp sử dụng đất, không vi phạm pháp luật về đất đai.
Đối chiếu với những quy định đã viện dẫn tại [2.6.4] thì hộ gia đình ông
Bùi Ngọc T có đủ điều kiện được công nhận quyền sử dụng đất đối với diện
tích 415 m² thuộc thửa đất số 787, tờ bản đồ số 23 và cũng hoàn toàn phù hợp
với quy định tại Điều 138 của Luật Đất đai năm 2024 (Có hiệu lực thi hành kể
từ ngày 01/8/2024).
Vì vậy, có cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Bùi Ngọc T về
việc buộc Uỷ ban nhân dân huyện N công nhận toàn bộ diện tích 415 m² thuộc
thửa đất số 787, tờ bản đồ số 23 tại thôn H, xã T, huyện N (theo Mảnh trích đo
chỉnh lý bản đồ địa chính số 02 - 2024 ngày 24/4/2024) cho ông Bùi Ngọc T và
bà Ngô Thị Hồng M.
[2.7]. Về chi phí tố tụng: Tại phiên toà, đại diện theo uỷ quyền của người
khởi kiện tự nguyện chịu chi phí tố tụng.
[2.8]. Về án phí: Yêu cầu khởi kiện ông Bùi Ngọc T được chấp nhận một
phần nên người bị kiện UBND huyện N phải chịu án phí hành chính sơ thẩm
theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
[1]. Căn cứ các Điều 143, 165, 173 của Luật Tố tụng hành chính năm
2015; đình chỉ xét xử một phần yêu cầu khởi kiện của ông Bùi Ngọc T về việc:
buộc Văn phòng Đăng ký đất đai Quảng Nam và Uỷ ban nhân dân huyện N tiếp
nhận lại hồ sơ và thực hiện cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với
thửa đất 787, tờ bản đồ số 23 (theo cơ sở dữ liệu mới), diện tích 415 m
2
tại thôn
H, xã T, huyện N, tỉnh Quảng Nam cho hộ ông Bùi Ngọc T theo đúng quy định
của pháp.
[2]. Căn cứ các Điều 3, 30, 32, 115, 116, điểm b khoản 2 Điều 193, các
Điều 348, 358 của Luật Tố tụng hành chính năm 2015; Điều 101 của Luật Đất
đai năm 2013; Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ
quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai; Nghị Quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa
án; xử:
[2.1]. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Bùi Ngọc T:
- Huỷ Phiếu chuyển trả hồ sơ số 52/PCT-TNMT ngày 10/4/2023 của
Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện N đối với hồ sơ ông Bùi Ngọc T và bà
Ngô Thị Hồng M, loại hồ sơ: xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tăng
thêm.

16
- Huỷ Quyết định số 4219/QĐ-UB ngày 28/07/2003 của UBND huyện N
về việc thừa nhận quyền sử dụng đất cho công dân.
- Huỷ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK355437, số vào sổ
H02764, UBND huyện N cấp ngày 22/10/2007 cho ông Bùi Ngọc T và bà Ngô
Thị Hồng M, đối với thửa đất số 612, tờ bản đồ số 4, diện tích 204,3 m², mục
đích sử dụng đất: đất ở nông thôn, tại thôn 1A, xã T, huyện N, tỉnh Quảng
Nam.
- Buộc Uỷ ban nhân dân huyện N công nhận toàn bộ diện tích 415 m²
thuộc thửa đất số 787, tờ bản đồ số 23 tại thôn H, xã T, huyện N (theo Mảnh
trích đo chỉnh lý bản đồ địa chính số 02 – 2024 ngày 24/4/2024) cho ông Bùi
Ngọc T và bà Ngô Thị Hồng M.
(Kèm theo bản án này Mảnh trích đo địa chính số 02-2024 ngày
24/4/2024).
[2.2]. Về chi phí tố tụng: Người khởi kiện ông Bùi Ngọc T tự nguyện
chịu 8.357.000 đồng (Tám triệu ba trăm năm mươi bảy ngàn đồng) chi phí xem
xét, thẩm định tại chỗ. Ông Tiên đã nộp đủ.
[2.3]. Án phí hành chính sơ thẩm: UBND huyện N chịu 300.000 đồng
(Ba trăm ngàn đồng) án phí hành chính sơ thẩm.
Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Nam trả lại cho ông Bùi Ngọc T
300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tạm ứng án phí hành chính sơ thẩm đã nộp
theo Biên lai thu số 0000467 lập ngày 26/6/2023.
Các đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm
trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 15/8/2024); đương
sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15
ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân cấp
cao tại Đà Nẵng xét xử theo trình tự phúc thẩm.
Nơi nhận:
- TANDCC tại Đà Nẵng;
- VKSND tỉnh Quảng Nam;
- Cục THADS tỉnh Quảng Nam;
- Các đương sự;
- Lưu án văn, hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Nguyễn Thị Thanh Tuyên
17
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 30/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 29/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 28/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 28/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 27/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 26/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 25/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 25/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 25/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 24/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 24/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 24/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 23/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 22/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm