Bản án số 12/2024/DS-ST ngày 13/08/2024 của TAND huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An về tranh chấp đất đai

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 12/2024/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 12/2024/DS-ST ngày 13/08/2024 của TAND huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An về tranh chấp đất đai
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp đất đai
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Con Cuông (TAND tỉnh Nghệ An)
Số hiệu: 12/2024/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 13/08/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Chị Hồ Thị Th khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc anh Hồ Chí H, chị Đinh Thị T trả lại cho chị Th hơn 200m 2 đất tại Bản Đ T, xã T N, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN CON CUÔNG Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
TỈNH NGHỆ AN
Bản án số: 12/2024/DS-ST
Ngày 13/8/2024
(V/v:Tranh chấp quyền sử dụng đất)
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CON CUÔNG
Thành phần hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - chủ tọa phiên toà: Ông Trần Văn Bảo
Các hội thẩm nhân dân: Ông Lương Văn Giang, bà Võ Thị Hồng Long.
Thư toà án ghi biên bản phiên toà: Trần Thị Thanh Huyền Thư
Toà án nhân dân huyện Con Cuông
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Con Cuông tham gia phiên tòa:
Phạm Thị Xuân - Chức vụ: Kiểm sát viên.
Ngày 13 tháng 8 năm 2024 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Con Cuông xét
xử thẩm công khai vụ án dân sự thụ số 17/2023/DS-ST ngày 01 tháng 6 năm
2023 vviệc: Tranh chấp quyền sử dụng đấttheo Quyết định đưa ván ra xét xử
số 21/2024/QĐXX-ST ngày 12/7/2024 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Hồ Thị Th, sinh năm 1974 - Có mặt
Bị đơn: Anh Hồ Chí H, sinh năm 1958 (đã chết)
Người đại diện cho bị đơn: Chị Đinh Thị T, sinh năm 1963 - Có mặt
Đều có địa chỉ: Bản Đ T, xã T N, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Anh Hồ Chí V, sinh năm 1964 - Có mặt
2. Ông Hồ Chí L, sinh năm 1936 - Vắng mặt có lý do
3. Bà Võ Thị K, sinh năm 1936 - Vắng mặt có lý do
4. Anh Vi Tuấn A, sinh năm 1994 - Vắng mặt có lý do
5. Anh Hồ Văn M, sinh năm 1986 - Có mặt
6. Chị Vi Thị Nhu M, sinh năm 2000 - Vắng mặt có lý do
Đều có địa chỉ: Bản Đ T, xã T N, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện và lời trình bày của nguyên đơn trong quá trình giải
quyết cũng như tại phiên tòa thì vụ án nội dung như sau: Năm 1992 chị được bố
mẹ ông Hồ Chí L, Thị K cho một diện tích đất, năm 1996 được Nhà nước
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng chị mới biết diện tích của gia đình chị 600m
2
chị ổn định cho đến năm 2012 chị phát hiện anh Hồ Chí H lấn chiếm của chị
hơn 200m
2
đất. Sau khi phát hiện đất bị lấn chiếm chị đã trực tiếp trao đổi với anh H
2
làm đơn lên UBND Thạch Ngàn hòa giải nhưng không kết quả. Nay chđề
nghị Tòa án giải quyết buộc gia đình anh Hồ Chí H (đã chêt) đại diện là chĐinh Thị
T (vợ ông H) trả lại cho chị hơn 200m
2
đất nói trên.
Quá trình giải quyết anh Hồ Chí H nay đại diện là chị Đinh Thị T (vợ ông H)
trình bày: Năm 1990 chị anh xây dựng gia đình cùng bố mẹ chồng ông Hồ
Chí L, bà Thị K, chung được hơn một năm thì bố mẹ nói vợ chồng tôi xây cho
ông một ngôi nhà 02 gian (phần đất hiện nay cho chị Th) ông chuyển sang
đó ở. Sau khi chuyển sang nơi mới ông cho gia đình tôi toàn bộ diện tích đất
hiện nay tôi đang ở. Năm 1996 gia đình tôi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
với diện tích 710m
2
, trong đó 400 m
2
đất , 310m
2
đất vườn. Năm 2002 gia đình tôi
nhận chuyển nhượng của em trai Hồ Chí V 01 cái ao khoảng 250 m
2
. Năm 2012 vợ
chồng tôi tiến hành làm 03 gian nhà. Từ lúc bố mẹ cho, quá trình làm nhà ổn
định đến nay không tranh chấp với ai.
Nay chTh khởi kiện cho rằng vchồng tôi
lấn chiếm hơn là không đúng, tôi không chấp nhận.
Ông Hồ Chí L bà Thị K (bố mẹ anh H Chị Th) vắng mặt tại phiên
tòa. Tuy nhiên quá trình lấy lời khai ông, bà cho biết: Việc ông bà cho anh H, chị Th,
anh Vượng đất đúng. Cụ thể khoảng năm 1990 ông chung với vợ chồng anh
H trong ngôi nhà 02 gian, được hơn một năm thì ông chuyển sang trong ngôi
nhà 02 gian (phần đất sau này ông, cho chị Th) hiện nay chị Th đang đồng
thời ông cho vợ chồng anh H toàn bộ đất ngôi nhà 02 gian do ông làm( hiện
nay vợ chồng anh H đang ở). Lúc ông cho anh H chị Th đất thì phần giáp ranh
giữa đất chTh đất anh H ông, trừ ra khoảng hơn 2m (chiều ngang) để làm lối
đi từ trước ra sau vườn. Năm 2012 anh H làm 03 gian nhà, phần móng nhà làm trên
phần đất hơn 2m (chiều ngang) ông trừ làm lối đi. Lúc đó ông biết nhưng không
cần thiết phải trừ lối đi nữa nên ông, đồng ý không ý kiến gì, phần n 2m
(chiều ngang) phía trước (giáp đường liên xã ) ông, bà đồng ý cho chị Th.
Anh Hồ Chí V cho biết: Diện tích đất anh đang là do bố, mẹ cho. Trong
phần đất bố mẹ cho anh thì phía trước nhà (nay là phía sau vì thay đổi đường) có một
cái ao khoảng 250m
2
. Năm 2002 vợ chồng anh chuyển nhượng toàn bộ diện tích ao
nói trên cho gia đình anh Hồ Chí H.
Anh Hồ Văn M (con trai anh H, chị T) và anh Vi Tuấn A (con trai chị Th ) cho
biết từ khi các anh lớn lên đến nay đều trên diện tích đất bố mẹ anh đang sở
hữu và mốc cận của thửa đất không thay đổi, không tranh chấp với ai.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Con Cuông phát biểu quan điểm v
việc tuân theo pp luật t tng trong quá tnh gii quyết ván của Thẩm phán,
Hội đng xét x, Thư cũng như việc ban hành, tng đt các văn bn t tng
đúng quy định ca pháp lut.
Ý kiến quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Con Cuông về
việc giải quyết vụ án: Điều 197, Điều 198, Điều 204 Bộ luật dân sự; điểm b khoản 3
Điều 129, Điều 135, khoản 1 Điều 164 Luật đất đai năm 2013; Điều 147, Điều 271,
Điều 278 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị định 163/1999/NĐ-CP, ngày 16/11/1999 của
Chính. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc ông anh Hồ
Chí H ( đại diện là chị Đinh Thị T) trả lại hơn 200m
2
đất tại Bản Đ T, xã T N, huyện
3
Con Cuông, tỉnh Nghệ An. Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự chi phí tố tụng
theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án được thẩm tra tại phiên
tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Đây là vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất bị đơn có địa chỉ tại
địa bàn huyện Con Cuông nên Tòa án nhân dân huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An thụ
, giải quyết đúng thẩm quyền quy định tại khoản 9 Điều 26; khoản 1 Điều 35 và
Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung: Nguyên đơn chị Hồ Thị Th đề nghị Tòa án giải quyết buộc
gia đình anh Hồ Chí H, chị Đinh Thị T trả lại cho chị hơn 200m
2
đất. Anh Hồ Chí H
(đại diện chị Đinh Thị T) trong quá trình giải quyết cũng như tại phiên tòa chị
không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn theo chị T thửa đất chị đang ở được bố
mẹ anh H (bố, mchồng) cho năm 1990 gia đình chị ổn định từ đó đến nay.
Nay chị Th khởi kiện như vậy chị không nhất trí.
[3] Xét yêu cầu khởi kiện của chị Th yêu cầu Tòa án buộc gia đình anh H, chị
T trả lại cho gia đình chị hơn 200 m
2
đất. Hội đồng xét xử thấy rằng: Căn cứ vào các
tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp lời trình bày của nguyên đơn tại Tòa
án thấy rằng: Năm 1992 chị Th được bố mẹ ông Hồ Chí L Thị K cho
một diện tích đất, năm 1996 chị được Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng,
lúc đó chị mới biết diện tích của mình 600m
2
chị n định cho đến năm 2012
chị phát hiện anh Hồ Chí H lấn chiếm của chị hơn 200m
2
. Sau khi phát hiện đất bị
lấn chiếm chị đã trực tiếp trao đổi với anh H làm đơn lên UBND T N hòa giải
nhưng không kết quả. Nay chị đề nghị Tòa án giải quyết buộc gia đình anh Hồ
Chí H, chị Đinh Thị T trả lại cho chị hơn 200m
2
đất nói trên.
Quá trình giải quyết anh Hồ Chí H nay đại diện chị Đinh Thị T trình bày:
Năm 1990 chị anh H xây dựng gia đình cùng bố mẹ ông Hồ Chí L
Thị K, chung được hơn một năm thì bố mẹ nói vợ chồng chị xây cho ông
một ngôi nhà 02 gian (trên phần đất hiện nay ông, cho chị Th) rồi ông chuyển
sang đó ông cho vợ chồng tôi toàn bộ diện tích đất hiện nay gia đình chị
đang ở. Năm 1996 gia đình chị được cấp giấy chứng nhận với diện tích 710m
2
, trong
đó 400 m
2
đất ở và 310m
2
đất vườn. Năm 2002 gia đình chị nhận chuyển nhượng của
em trai Hồ Chí V 01 cái ao khoảng 250 m
2
(nay anh đã san lấp). Năm 2012 vợ
chồng chị tiến hành làm 03 gian nhà. Từ lúc bố mẹ cho, quá trình làm nhà ổn
định đến nay không tranh chấp với ai. Nay chị Th khởi kiện như vậy chị không nhất
trí.
Quá trình giải quyết anh Hồ Chí V cho biết: Trong phần đất bố mẹ cho anh thì
phía trước nhà(nay phía sau) một cái ao khoảng 250m
2
. Năm 2002 vợ chồng
anh chuyển nhượng toàn bộ diện tích ao nói trên cho anh Hồ Chí H.
Ông Hồ Chí L bà Thị K (bố mẹ anh H Chị Th) vắng mặt tại phiên
tòa. Tuy nhiên quá trình lấy lời khai ông, bà cho biết: Việc ông bà cho anh H, chị Th
4
đất là đúng. Cụ thể khoảng năm 1990 ông bà ở chung với vợ chồng anh H trong ngôi
nhà 02 gian, được hơn một năm tông chuyển sang trong ngôi nhà 02 gian
(phần đất sau này ông, bà cho chị Th) hiện nay chị Th đang đồng thời ông cho
vợ chồng anh H toàn bộ đất ngôi nhà 02 gian do ông làm( hiện nay vợ chồng
anh H đang ở). Lúc ông cho anh H chị Th đất thì phần giáp ranh ông, trừ ra
khoảng hơn 2m để làm lối đi từ trước ra sau vườn. Năm 2012 anh H làm 03 gian nhà,
phần móng nhà làm trên phần đất hơn 2m ông trừ làm lối đi. Lúc đó ông biết nhưng
vì không cần thiết phải trừ lối đi nên ông, bà đồng ý và không có ý kiến gì, phần hơn
2m phía trước ( giáp đường liên xã) ông, bà đồng ý cho chị Th.
Anh Hồ Văn M (con trai anh H, chị T) và anh Vi Tuấn A (con trai chị Th ) cho
biết từ khi các anh lớn lên đến nay đều trên diện tích đất bố mẹ anh đang sở
hữu và tứ cận của thửa đất không thay đổi, không tranh chấp với ai.
Hội đồng xét xử thấy rằng chị Hồ Thị Th được bố mẹ cho đất ổn định từ
năm 1992 đến nay, quá trình giải quyết và tại phiên tòa nguyên đơn, người quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan đều thừa nhận mốc cận thửa đất từ trước đến nay không thay
đổi, năm 2012 gia đình anh H, chị T đào móng làm nhà kiên cố gia đình chị Th
không ý kiến . Theo UBND T N năm 2013 Nhà nước chủ trương đo đạc
đất ở và đất nông nghiệp trên địa bàn xã T N, trong đó có đo đất của gia đình anh Hồ
Chí H chị Hồ Thị Th, hồ đo đạc bản tả ranh giới, mốc giới, chữ
xác nhận của các hộ, kết quả đo đạc địa chính thửa đất, phiếu giao nhận diện
tích, kết quả đo đạc hộ gia đình chị Th (lúc đó là anh Vi Văn L chồng chTh ) ký xác
nhận không ý kiến gì. Như vậy việc chị Hồ Thị Th khởi kiện yêu cầu Tòa án
buộc anh Hồ Chí H, chị Đinh Thị T trả lại cho chị Th hơn 200m
2
đất tại Bản Đ T, xã
T N, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An không căn cứ nên không được chấp
nhận.
[3] Về án phí: Yêu cầu của nguyên đơn không được chấp nhận nên nguyên
đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm và chi phí thẩm định, định giá.
Vì những lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng: Điều 197, Điều 198, Điều 204 Bộ luật dân sự năm 2015; điểm b
khoản 3 Điều 129, Điều 135, khoản 1 Điều 164 Luật đất đai năm 2013; Điều 147,
Điều 271, Điều 278 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu Tòa án
buộc anh Hồ Chí H, chĐinh Thị T trả lại cho chị Hồ Thị Th hơn 200m
2
đất tại Bản
Đ T, xã T N, huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An
Án phí: Áp dụng khoản 1 Điều 147 Bluật tố tụng dân sự; điểm a khoản 2
Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu,
miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Nguyên đơn phải
chịu 300.000đồng án phí dân sự thẩm, được trừ vào số tiền 300.000đồng chị Th
nộp tại chi Cục thi hành án dân sự huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An theo biên lai thu
5
tiền số 0000923 ngày 01/6/2023 6.300.000đồng tiền chi phí thẩm định, định giá
(ch Th đã nộp đủ).
Nguyên đơn, bị đơn, người quyền lợi liên quan mặt quyền kháng cáo
lên Tòa án tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày ktừ ngày tuyên án. Đối với người
quyền lợi liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo lên Tòa án tỉnh Nghệ An trong hạn
15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án.
Nơi nhận: TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- TAND tỉnh Nghệ An; Thẩm phán - Chủ toạ phiên t
- VKSND tỉnh Nghệ An;
- VKSND huyện Con Cuông;
- Chi cục THADS huyện Con Cuông;
- Nguyên đơn, bị đơn;
- Lưu hồ sơ -VP. Trần Văn Bảo
Tải về
Bản án số 12/2024/DS-ST Bản án số 12/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 12/2024/DS-ST Bản án số 12/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất