Bản án số 115/2024/HC-PT ngày 03-04-2024 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về về khiếu kiện hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 115/2024/HC-PT

Tên Bản án: Bản án số 115/2024/HC-PT ngày 03-04-2024 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng về về khiếu kiện hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai
Quan hệ pháp luật: QĐ hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai trong trường hợp giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, trưng dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư…
Cấp xét xử: Phúc thẩm
Tòa án xét xử: TAND cấp cao tại Đà Nẵng
Số hiệu: 115/2024/HC-PT
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 03/04/2024
Lĩnh vực: Hành chính
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ án: Bác kháng cáo của người khởi kiện bà Lê Thị Mỹ H và giữ nguyên quyết định của Bản án hành chính sơ thẩm số 40/2023/HC-ST ngày 15/9/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa:
Các Thẩm phán:
Ông Trương Minh Tuấn
Ông Đặng Kim Nhân
Ông Đinh Phước Hòa
- Thư phiên tòa: Đinh Thị Trang, Thư Tòa án cấp cao tại Đà
Nẵng.
- Đại diện Viện kiểm t nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tham gia phiên
toà: Ông Quách Hòa Bình - Kiểm sát viên.
Ngày 03 tháng 4 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà
Nẵng, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hành chính thụ 296/2023/TLPT-HC
ngày 16 tháng 11 năm 2023 về việc “Khiếu kiện hành vi hành chính trong lĩnh
vực quản lý đất đai”.
Do Bản án hành chính sơ thẩm số 40/2023/HC-ST ngày 15/9/2023 của Tòa
án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 351/2024/QĐ-PT ngày 11 tháng 3
năm 2024, giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: Lê Thị Mỹ H, sinh năm 1985. Địa chỉ: thôn B, xã N,
thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi; vắng mặt.
Người đại diện theo y quyền: Bùi Thị Thanh T, sinh năm 1990. Địa
chỉ: B H, phường T, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi; có mặt.
- Người bị kiện: n phòng đăng ký đất đai tỉnh Q.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Trung C - Phó Giám đốc. Địa chỉ:
Số E P, phường N, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi, có Đơn xét xử vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO
TẠI ĐÀ NẴNG
Bản án số: 115/2024/HC-PT
Ngày: 03-4-2024
V/v:“Khiếu kiện hành vi hành chính
trong lĩnh vực quản lý đất đai”.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
2
+ Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi. Địa
chỉ: số E N, phường T, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi, đơn xin xét xử vắng
mặt.
+ Ủy ban nhân dân phường T, thành phố Q. Địa chỉ: B N, phường T, thành
phố Q, tỉnh Quảng Ngãi, có đơn xin xét xử vắng mặt.
+ Ông Văn N. Địa chỉ: 1 đường số A, Phường H, quận G, Tp .; vắng
mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện, đơn khởi kiện bổ sung của bà Lê Thị Mỹ H, các lời khai
tại Tòa án tại phiên tòa, người đại diện của Thị Mỹ H Bùi Thị
Thanh T trình bày:
Ngày 04/8/2022, Thị Mỹ H Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng với ông Huỳnh Văn T1, bà H nhận chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất
số 02, tờ bản đồ số 31, phường T, thành phố Q. Thửa đất được cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số 017272, số vào sổ cấp GCN CS04314 do Sở Tài
nguyên Môi trường tỉnh Q cấp cho ông Huỳnh Văn T1. Hợp đồng chuyển
nhượng được n phòng C1 chứng thực, số công chứng 3895, quyển số
08/2022TP/CC-SCC/HĐGD. H ông Huỳnh Văn T1 đã giao nhận đủ tiền
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, bàn giao quyền quản lý đất cũng như giấy tờ
về quyền sử dụng đất theo như thỏa thuận của các bên.
Ngày 08/8/2022, H tiến hành nộp hồ sơ đăng biến động quyền sử
dụng đất tại Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai thành phố Q, tỉnh Quảng
Ngãi.
Đến ngày 25/8/2022, bà H nhận được Thông báo số 1576/TB-CNTPQN
thông báo về việc trả hồ không giải quyết. Theo đó, Chi nhánh Văn phòng
đăng ký đất đai thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi trả hồ cho bà H với lý do thửa
đất trên tranh chấp. Khi liên hệ trực tiếp thì H còn biết thêm thông tin
ông Văn N (thông tin không ràng) làm đơn ngăn chặn tài sản yêu cầu
không xử hồ đất đai của H nên hồ xin biến động của H bị Chi
nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi trả lại.
Tuy nhiên, Thông báo s 1576/TB-CNTPQN không kèm theo cũng như
cung cấp cho H các tài liệu, chứng cứ liên quan sự việc cũng không cung
cấp căn cứ pháp lý cho việc xác định tính hợp pháp của người thẩm quyền
ngăn chặn tài sản theo quy định pháp luật. Không đồng tình với cách giải quyết
của Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi H
đã có đơn phản ánh đến Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố Q, tỉnh
Quảng Ngãi đgiải quyết thỏa đáng sự việc cho H. Do không chứng cứ
chứng minh việc trả hồ sơ từ hành vi ngăn chặn đơn phương của nhân với tài
sản của một người khác căn cứ nênH được Chi nhánh Văn phòng đăng
ký đất đai thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi thông báo nộp lại hồ sơ để giải quyết.
Ngày 24/11/2022, do được yêu cầu nộp lại hồ nên H tiếp tục thực
hiện nộp hồ đăng biến động quyền sdụng đất thêm một lần nữa tại Chi
3
nhánh Văn phòng đăng đất đai thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi được nhận
phiếu hẹn trả kết quả là ngày 29/12/2022 (35 ngày). Mặc thời hạn nêu trên
vượt quá thời hạn quy trình xử hồ đối với thủ tục đăng biến động
quyền sử dụng đất đã được quy định tại Nghị định 43/2014/NĐ-CP ngày 15
tháng 5 năm 2014 của Chính phủ được sửa đổi bổ sung bởi Ngh định số
01/2017/NĐ-CP ngày 06 tháng 01 năm 2017 của Chính phủ. Với thiện chí mong
muốn sự việc được giải quyết nên H vẫn chờ đợi kết quxử hồ từ
quan có thẩm quyền.
Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi thể
hiện việc thiếu trách nhiệm trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ quyền hạn
của mình khi giải quyết hồcủa bà H dù hồ sơ này đã khiếu nại và đã được
xem xét giải quyết một cách cẩn trọng, ràng bằng hướng dẫn của quan
quản trực tiếp cấp trên Văn phòng đăng đất đai tỉnh Q. Ngày
29/12/2022, Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai thành phố Q, tỉnh Quảng
Ngãi lại tiếp tục ban hành Thông báo số 2452/TBXL-CNTPQN về việc tạm
dừng xử lý hồ sơ của H.
Nội dung thông báo tạm dừng cho rằng các ngày 05/5/2022, 04/6/2022
17/8/2022 UBND phường T nhận được đơn yêu cầu ngăn chặn của ông Văn
N đối với thửa đất của ông Huỳnh Văn T1. Trong sự việc này lẽ ra ngay từ
lúc nhận hồ vào thì trường hợp của H đương nhiên đã được Chi nhánh
Văn phòng đăng đất đai thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi biết do đó mọi kế
hoạch, dự định cần phải được tiến hành ngay kịp thời không thể để công dân
chờ đến ngày cuối cùng nhận kết quả lại tiếp tục ban nh một văn bản nội
dung tiếp tục chờ tạm dừng vì lý do đã bị khiếu nại trước đó đã được xử lý bằng
hướng dẫn của cấp trên.
Trong thời gian tiếp tục tạm dừng thực hiện hồ sơ cho bà H, Chi nhánh Văn
phòng đăng ký đất đai thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi mới bắt đầu thực hiện việc
gửi thông báo cho ông Văn N Đề nghị ông Văn N cung cấp văn bản áp
dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc thông báo thụ vụ án của quan
thẩm quyền đối với thửa đất trên. Sau 30 ngày kể từ ngày nhận thông báo này
nếu ông Văn N không cung cấp được văn bản thụ giải quyết vụ việc của
quan thẩm quyền về việc tranh chấp quyền sdụng đất Văn phòng đăng
ký đất đai tỉnh Q Chi nhánh thành phố Q sẽ xác lập hồ sơ cho Lê Thị Mỹ H
theo quy định”.
Quá trình xử hồ của H kéo dài đến 35 ngày nhưng đến ngày cuối
cũng, Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi mới
ban hành thông báo với nội dung nêu trên để cho ông N thêm 30 ngày kể từ
ngày nhận Thông báo để tiếp tục cung cấp chứng cứ, tổng cộng là 65 ngày. Việc
làm trên thể hiện sự thiếu trách nhiệm, không chuyên nghiệp trong quá trình giải
quyết hồ sơ. Thực tế, việc làm trên là hành vi cố ý kéo dài thời hạn giải quyết hồ
sơ, gây phiền hà cho công dân trong suốt thời gian dài.
Do vậy, mặc rất bức xúc về cách giải quyết hồ của các quan trên
nhưng bà H vẫn tiếp tục chờ đợi để hồ của mình được giải quyết. Hết thời
4
hạn 30 ngày nói trên, ông n N vẫn không xuất hiện hoàn toàn không
cung cấp được tài liệu, chứng cứ về việc tranh chấp theo yêu cầu của Chi nhánh
Văn phòng đăng đất đai thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi theo như Thông báo
số 2452/TBXL-CNTPQN đã thông báo cho ông Lê Văn N.
Tuy nhiên, đến ngày 03/3/2023, Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai
thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi lại một lần nữa tiếp tục có Thông báo số 473/TB-
CNTPQN về việc trả hkhông giải quyết đối với hồ đăng biến động
của bà H. Lần này, Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai thành phố Q, tỉnh
Quảng Ngãi lại viện dẫn căn cứ việc trả hồ tiếp tục vì UBND phường T
cung cấp Biên bản làm việc ngày 02/6/2022 theo đơn của ông N ngày 05/5/2022
trước đó và cho rằng thửa đất đang tranh chấp (kèm theo thông báo Biên
bản làm việc ngày 02/6/2022 của UBND phường T do UBND phường T cung
cấp). Đây vấn đề đã ttrước hiện tại ông Văn N cũng không cung
cấp được tài liệu hiện nay đang tranh chấp thửa đất số 02 đối với ông T1 hoặc bà
H. Từ những nhận định trên thấy rằng việc UBND phường T cung cấp Biên bản
ngày 02/6/2022 Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai thành phố Q, tỉnh
Quảng Ngãi căn cứ Biên bản này để trả hồ không giải quyết đối với hồ
đăng ký biến động của bà H là trái quy định pháp luật, làm xâm phạm đến quyền
và lợi ích hợp pháp của bà H.
Việc nhận hồ kéo dài 65 ngày (vượt quá quy định pháp luật cho phép),
đồng thời, quá trình giải quyết Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai thành phố
Q, tỉnh Quảng Ngãi cũng đã văn bản yêu cầu ông Văn N cung cấp chứng
cứ tranh chấp thông qua thủ tục tố tụng hợp lệ để được xem xét đúng pháp luật.
Tuy nhiên, ông Văn N không tuân thủ việc khởi kiện ra Tòa án thẩm
quyền. Mục đích của ông N chỉ muốn làm đơn ngăn chặn tài sản người khác
không muốn tranh chấp đất đai theo quy định của pháp luật.
Tại Thông báo số 5296/TB-STNMT ngày 06/11/2018 của Sở Tài nguyên
và Môi trường tỉnh Q ban hành có nội dung: “Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày
thông báo người có đơn tranh chấp, khiếu nại, đề nghị ngăn chặn việc cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất phải cung cấp văn bản thụ giải quyết vụ việc
của quan thẩm quyền, sau 30 ngày kể từ ngày thông báo nếu người
đơn tranh chấp khiếu nại, đề nghị ngăn chặn không cung cấp được văn bản thụ
giải quyết vụ việc của quan thẩm quyền thì Văn phòng đăng đất đai
chi nhánh các huyện, thành phố xác lập hồ trình cấp thẩm quyền Giấy
chứng nhận (Trong Phiếu trình Văn phòng cần thể hiện rõ nội dung trên)”.
Do đó, hành vi không thực hiện biến động quyền sử dụng đất của Chi
nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi là hành vi hành
chính trái quy định của pháp luật, từ những viện dẫn trên yêu cầu Tòa án giải
quyết:
- Xác định hành vi trả hồ sơ, không thực hiện việc đăng biến động
quyền sử dụng đất của Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Q đối với thửa đất số 02,
tờ bản đồ số 31 (đo vnăm 1996) phường T, thành phố Q do Thị Mỹ H
nhận chuyển nhượng từ ông Huỳnh Văn T1 là hành vi hành chính trái pháp luật.
5
- Buộc Văn phòng đăng đất đai tỉnh Q tiếp nhận hồ sơ, thực hiện đăng
biến động trình quan thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đối với thửa đất số 02, tờ bản đồ số 31, diện tích 385m
2
tại phường T,
thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi cho bà Lê Thị Mỹ H theo quy định của pháp luật.
2. Tại Công văn số 1524/VPĐKĐ-ĐKCGCN ngày 04/7/2023 của người bị
kiện Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Q trình bày:
Ngày 14/6/2016, ông Huỳnh Văn T1 được Sở Tài nguyên Môi trường
tỉnh Q cấp Giấy chứng nhận quyền sử đất, thuộc thửa đất số 02, tờ bản đồ s31,
đo vẽ năm 2016, diện tích 385m
2
(BHK), phường T.
Năm 2022, bà Lê Thị Mỹ H nhận chuyển nhượng toàn bộ diện tích thửa đất
nêu trên theo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được Văn phòng C1
chứng nhận ngày 04/8/2022, số công chứng 3895, quyển sổ 08/2022TP/CC-
SCC/HDGD.
Ngày 22/11/2022, Thị Mỹ H nộp hồ đăng ký biến động tại Trung
tâm phục vụ và kiểm soát thủ tục hành chính tỉnh Quảng Ngãi.
Ngày 02/02/2023, Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai thành phố Q, tỉnh
Quảng Ngãi phối hợp cùng địa chính phường T kiểm tra hiện trạng sử dụng đất
của Thị Mỹ H. Tuy nhiên, H chưa xác định được ranh giới, mốc giới.
Do đó, ngày 04/02/2023, Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai thành phố Q,
tỉnh Quảng Ngãi có Thông báo số 323/TB-CNTPQN, thông báo vviệc yêu cầu
xác định ranh giới, mốc giới thửa đất để kiểm tra hiện trạng sử dụng đất.
Ngày 16/02/2023, Văn phòng đăng đất đai tỉnh Q phối hợp cùng địa
chính phường T kiểm tra hiện trạng sử dụng đất của bà H gửi bản mô tả ranh
giới, mốc giới thửa đất cho H.
Ngày 23/02/2023, Văn phòng đăng đất đai tỉnh Q chuyển hồ đến
UBND phường T để xác nhận hồ sơ của bà Lê Thị Mỹ H.
Ngày 27/02/2023, UBND phường T chuyển hồ lại cho Văn phòng đăng
đất đai tỉnh Q xác nhận nguồn gốc sdụng đất của bà Thị Mỹ H tại
Bản tả ranh giới, mốc giới thửa đất, với nội dung: đơn yêu cầu giải
quyết tranh chấp đối với phần diện tích của ông Huỳnh Văn T1, thuộc thửa đất
số 02, tờ bản đồ số 31 (đo vẽ năm 1993), UBND phường mời hòa giải nhưng
buổi hòa giải bất thành (có biên bản hòa giải kèm theo)”.
Như vậy, trường hợp thửa đất của bà Lê Thị Mỹ H đăng ký biến động và đề
nghị cấp đổi giấy chứng nhận QSD đất nêu trên đang có tranh chấp. Do đó, ngày
03/3/2023 Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi
Thông báo trả hồ số 473/TB-CNTPQN về việc trả hồ không giải quyết
đã hướng dẫn bà Thị Mỹ Hoàng liên h đến UBND phường T để được
hướng dẫn giải quyết, đồng thời chuyển trả hồ sơ đến Trung tâm Phục vụ - Kiểm
soát thủ tục hành chính tỉnh Quảng Ngãi là có căn cứ.
3. Tại Bản trình bày của Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai thành phố
Q, tỉnh Quảng Ngãi:
6
Ngày 14/6/2016, ông Huỳnh Văn T1 được Sở Tài nguyên Môi trường
tỉnh Q cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà tài sản
khác gắn liền với đất số CĐ017272, số vào sổ cấp GCN CS04314 đối với thửa
đất số 02, tờ bản đồ số 31, đo vẽ năm 2016, diện tích 385m
2
, địa chỉ phường T,
thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi. Đến ngày 04/8/2022, ông Huỳnh Văn T1 chuyển
nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 02, tờ bản đồ số 31 cho bà Lê Thị
Mỹ H được Văn phòng C1, quyển số 08/2022 TP/CC-SCC/HĐGD.
Ngày 22/11/2022, Thị Mỹ H nộp hồ đăng biến động tại Trung
tâm Phục vụ và Kiểm soát thủ tục hành chính tỉnh Quảng Ngãi.
Ngày 02/02/2023, Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai thành phố Q, tỉnh
Quảng Ngãi phối hợp cùng địa chính phường T kiểm tra hiện trạng sử dụng đất
của Thị Mỹ H. Tuy nhiên, H chưa xác định được ranh giới, mốc giới.
Do đó, ngày 04/02/2023, Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai thành phố Q,
tỉnh Quảng Ngãi Thông báo số 323/TB-CNTPQN thông báo vviệc yêu cầu
xác định ranh giới, mốc giới thửa đất để kiểm tra hiện trạng sử dụng đất.
Ngày 16/02/2023, Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai thành phố Q, tỉnh
Quảng Ngãi phối hợp cùng địa chính phường T kiểm tra hiện trạng sử dụng đất
của bà H và gửi bản mô tả ranh giới, mốc giới thửa đất cho bà H,
Ngày 23/02/2023, Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai thành phố Q, tỉnh
Quảng Ngãi chuyển hđến UBND phường T để xác nhận hồ của
Thị Mỹ H.
Ngày 27/02/2023, UBND phường T chuyển hồ lại cho Chi nhánh Văn
phòng đăng đất đai thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi, UBND phường xác nhận
nguồn gốc sử dụng đất của Thị Mỹ H tại Bản tranh giới, mốc giới
thửa đất, với nội dung: “đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đối với phần diện
tích của ông Huỳnh Văn T1, thuộc thửa đất số 2, tờ bản đồ số 31 (đo vẽ năm
1993), UBND phường mời hòa giải nhưng buổi hòa giải bất thành (có biên bản
hòa giải kèm theo)”.
Như vậy, trường hợp thửa đất của bà Lê Thị Mỹ H đăng ký biến động và đề
nghị cấp đổi giấy chứng nhận QSD đất nêu trên đang có tranh chấp. Do đó, ngày
03/3/2023 Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi
Thông báo trả hồ số 473/TB-CNTPQN về việc trả hồ không giải quyết
đã hướng dẫn bà Thị Mỹ Hoàng liên h đến UBND phường T để được
hướng dẫn giải quyết, đồng thời chuyển trả hồ sơ đến Trung tâm Phục v- Kiểm
soát thủ tục hành chính tỉnh Quảng Ngãi là đúng theo quy định của pháp luật
4. Tại Công văn số 156/UBND ngày 12 tháng 7 năm 2023 của Ủy ban nhân
dân phường T trình bày:
Ngày 09/5/2022, UBND phường T nhận được đơn yêu cầu của ông
Văn N đề ngày 05/5/2022, địa chỉ thường trú tại 1 đường số A, Phường H, quận
G, Tp . nội dung yêu cầu: giải quyết cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho gia đình ông theo biên bản cắt vườn để xác minh quyền sử dụng đất
phiếu trích đo đã được UBND thị trấn S kèm theo.
7
Ngày 02/6/2022, UBND phường T mời các bên theo nội dung đơn yêu cầu
của ông Lê Văn N hòa giải nhưng buổi hoà giải bất thành.
Ngày 06/6/2022, UBND phường T nhận được đơn ngăn chặn của ông
Văn N đề ngày 04/6/2022, có nội dung: ngăn chặn việc mua bán, chuyển
nhượng, tặng cho, thừa kế, thế chấp, gia hạn thời gian s dụng đất, chuyển
nhượng mục đích sử dụng đất, tách thửa, cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất thửa đất số 02, tờ bản đồ số 31, diện tích 385m
2
, số CĐ 017272, số vào
sổ cấp GCN CS04314 của ông Huỳnh Văn T1, sinh năm 1960, CMND số
210200542 cấp tại Công an tỉnh Q.
Tiếp tục đến ngày 18/8/2022, UBND phường T nhận được đơn ngăn chặn
của ông Văn N đề ngày 17/8/2022, nội dung: ngăn chặn việc mua bán,
chuyển nhượng, tặng cho, thừa kế, thế chấp, gia hạn thời gian sử dụng đất,
chuyển nhượng đổi mục đích sử dụng đất, tách thửa, cấp đổi giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất thửa đất số 2, tờ bản đồ số 31, diện tích 385m
2
, số sổ:
017272, số vào sổ cấp GCN CS 04314 của ông Huỳnh Văn T1, sinh năm 1960,
CMND số 210200542 cấp tại Công an tỉnh Q.
Ngày 25/8/2022, UBND phường T nhận được đơn yêu cầu của Thị
Mỹ H, địa chỉ thường trú: phường T, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi đề ngày
25/8/2022.
Ngày 13/9/2022, UBND phường mời bà Thị Mỹ H, tại buổi làm việc
UBND phường đề nghị Thị Mỹ H gửi đơn đến Toà án nhân dân để được
xem xét giải quyết.
Tiếp đến ngày 09/12/2022, UBND phường T nhận được đơn ngăn chặn của
ông Văn N đề ngày 07/12/2022, nội dung: ngăn chặn việc mua bán,
chuyển nhượng, tặng cho, thừa kế, thế chấp, gia hạn thời gian sử dụng đất,
chuyển nhượng đổi mục đích sử dụng đất, tách thửa, cấp đổi giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất thửa đất số 02, tờ bản đồ số 31, diện tích 385m
2
, số
017272, số vào sổ cấp GCN CS 04314 của ông Huỳnh Văn T1, sinh năm 1960,
CMND số 210200542 cấp tại Công an tỉnh Q.
Sau đó, bà Lê Thị Mỹ H nộp hồ sơ tại Trung tâm Phục vụ và Kiểm soát thủ
tục hành chính tỉnh Q, nhân viên Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai thành
phố Q, tỉnh Quảng Ngãi phối hợp cùng địa chính phường đến tại hiện trường
kiểm tra hiện trạng sử dụng đất của Thị Mỹ H nhân viên Chi nhánh
Văn phòng đăng đất đai thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi chuyển hồ của
Thị Mỹ H cho UBND phường xác nhận. Do ông Văn N đơn tranh
chấp, đơn ngăn chặn thửa đất số 02, tờ bản đồ số 31, diện tích 385m
2
, số
017272, số vào sổ cấp GCN CS 04314 của ông Huỳnh Văn T1, sinh năm 1960,
CMND số 210200542 cấp tại Công an tỉnh Q, UBND phường đã xác nhận vào
Bản mô tranh giới mốc giới của Thị Mỹ H tình trạng đất hiện nay đang
tranh chấp.
5. Về trình bày ý kiến của ông Lê Văn N: Không có.
8
Tại Bản án hành chính thẩm số 40/2023/HC-ST ngày 15/9/2023 của
Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi đã quyết định:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 30, khoản 3 Điều 32, điểm a khoản 2 Điều 116,
Điều 157, Điều 158, khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 193, Điều 194, Điều 204,
Điều 206, khoản 1 Điều 348 Luật tố tụng hành chính; khoản 2 Điều 7, khoản 2
Điều 8, Điều 202, Điều 203 của Luật đất đai năm 2013; khoản 2 Điều 60, Điều
61, Điều 70 của Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ;
Điều 2 Thông liên tịch số 15/2015/TTLT-BTNMT-BNV-BTC ngày
04/4/2015 của Bộ T6, Bộ N1 Bộ T7; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử:
Bác yêu cầu khởi kiện của Thị Mỹ H về việc: Đề nghị Tòa án xác
định hành vi trả hồ sơ, không thực hiện việc đăng biến động quyền sdụng
đất của Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Q đối với thửa đất số 02, tờ bản đồ số 31
(đo vẽ năm 2016) phường T, thành phố Q do Thị Mỹ H nhận chuyển
nhượng từ ông Huỳnh Văn T1 hành vi hành chính trái pháp luật; Buộc Văn
phòng đăng đất đai tỉnh Q tiếp nhận hồ sơ, thực hiện đăng ký biến động
trình quan thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với
thửa đất số 02, tờ bản đồ số 31, diện tích 385m
2
tại phường T, thành phố Q, tỉnh
Quảng Ngãi cho bà Lê Thị Mỹ H theo quy định của pháp luật.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo quy
định của pháp luật.
Ngày 18/9/2023, người khởi kiện Thị Mỹ H kháng cáo toàn bộ Bản
án thẩm, đnghị sửa Bản án thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện
của người khởi kiện.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện người đại
diện theo ủy quyền của người khởi kiện Thị Mỹ H đề nghị: giữ nguyên
yêu cầu khởi kiện, yêu cầu kháng cáo đề nghị chấp nhận đơn kháng cáo sửa
Bản án sơ thẩm, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện.
Kiểm sát viên đại diện cho Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng
tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm về giải quyết vụ án như sau: Tòa án cấp
sơ thẩm đã bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của người khởi kiện là có căn cứ đúng
pháp luật; người khởi kiện kháng cáo nhưng không mới đề nghị giữ
nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu trong hồ vụ án, căn cứ vào kết quả
tranh tụng các chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của
Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Xét kháng cáo của bà Lê Thị Mỹ H, thấy:
9
[1.1] Thị Mỹ H nộp vào Trung tâm Phục vụ Kiểm soát thủ tục
hành chính tỉnh Quảng Ngãi các ngày 08/8/2022, ngày 22/11/2022 để được đăng
biến động đề nghị cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng thửa đất số 02
từ ông Huỳnh Văn T1 sang tên Thị Mỹ H, Chi nhánh Văn phòng đăng ký
đất đai thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi đã thực hiện tiếp nhận nhưng không đăng
biến động đề nghị cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng thửa đất số 02
cho H là UBND phường Trương Quang T2 xác nhận nguồn gốc sdụng
đất của H đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đối với phần diện tích của
ông Huỳnh Văn T1, thuộc thửa đất số 2, tờ bản đồ số 31 (đo vẽ năm 2013)
UBND phường T hòa giải bất thành”.
[1.2] Theo ông Văn N trình bày trong đơn yêu cầu vào ngày 05/5/2022
gửi Ủy ban nhân dân phường T gửi kèm tài liệu chứng cứ Biên bản cắt
vườn đề ngày 17/3/1997 (bút lục 134, 135); Phiếu trích đo (bút lục 133) đề ngày
01/4/1997, theo nội dung Biên bản cắt vườn Phiếu trích đo thì Phạm Thị
M (là mẹ của ông Lê Văn N) được nhận 02 lô đất và 600m
2
đất sản xuất, cụ thể:
thứ nhất: giới cận, Phía Đông giáp vườn Phạm Thị M, phía Tây giáp
vườn Phạm Thị M, phía Nam giáp đường đi, phía Bắc giáp đất hương hỏa
ông bà, diện tích 407m
2
; thứ hai giới cận: Phía Đông giáp vườn Hồ Th
T3, phía Tây giáp vườn ông Huỳnh Văn H1, phía Nam giáp đường đi, phía Bắc
giáp đất hương hỏa ông bà, diện tích 302,37m
2
và ông Huỳnh Văn H1 cắt cho bà
Phạm Thị M 600m
2
đất, phía Đông giáp vườn ông T4, phía Tây giáp vườn ông
H1, phía Nam giáp đất ông Lê Văn S H2, phía Bắc giáp mương thủy lợi và
mã. Năm 2006, ông Huỳnh Văn H1, bà Nguyễn Thị Thanh x cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất và được UBND huyện S cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất bao gồm diện tích đất đã thỏa thuận cắt giao cho Phạm Thị M. Tại
Giấy cắt vườn ngày 17/3/1997, bà T5, ông T1 biết diện tích đất thửa số 02 trong
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất số CĐ017272, số vào sổ cấp GCN CS04314, một phần của 600m
2
đã
cắt giao cho Phạm Thị M, nhưng ngày 02/6/2022 UBND phường T tổ chức
hòa giải theo đơn ngày 05/05/2022 của ông Văn N (UBND phường T nhận
ngày 09/5/2022) nhưng tại buổi hòa giải ông Huỳnh Văn T1 và Nguyễn Thị
Thanh v mặt không có lý do dẫn đến UBND phường T không thể hòa giải được.
Như vậy, ông Huỳnh Văn T1 nhận biết được thửa đất số 02 đang tranh chấp
nhưng đến ngày 04/8/2022, ông Huỳnh Văn T1 lại chuyển nhượng quyền sử
dụng thửa đất số 02 cho Thị Mỹ H, Hợp đồng được Văn phòng C1 chứng
thực số 3895, quyển số 08/2022 TP/CC-SCC/HĐGD.
[1.3] Ngày 04/6/2022, ngày 17/8/2022, ngày 07/12/2022 ông Lê Văn N tiếp
tục gửi đơn yêu cầu, đơn ngăn chặn đến Ủy ban nhân dân phường T, Sở T, Văn
phòng đăng đất đai tỉnh, UBND thành phố Q…về việc Ngăn chặn việc mua
bán, chuyển nhượng, cho tặng, thừa kế, thế chấp, gia hạn thời gian sử dụng đất,
chuyển đổi mục đích sử dụng đất, tách thửa, cấp đổi GCNQSDĐ số
017272…ngày 14/6/2016, thửa đất số 02, tờ bản đồ số 31, diện tích 385m
2
, số
vào sổ cấp GCN CS 04314 cấp cho ông Huỳnh Văn T1”. Ủy ban nhân dân
phường T dựa trên sở việc hòa giải chưa tiến hành được và các Đơn yêu cầu,
10
Đơn ngăn chặn ngày 05/5/2022, ngày 04/6/2022, ngày 17/8/2022 ngày
07/12/2022 của ông Văn N xác định tình trạng đất đang tranh chấp
chuyển hồ đến Chi nhánh Văn phòng đăng đất đai thành phố Q, tỉnh
Quảng Ngãi đúng thẩm quyền. Trên sở xác định tình trạng tranh chấp đất
đai của ông Văn N với ông Huỳnh Văn T1 chưa được giải quyết dứt điểm
bằng một bản án hiệu lực pháp luật nhưng ông Huỳnh Văn T1 đã hành vi
chuyển nhượng thửa đất tranh chấp cho H. Nên Chi nhánh Văn phòng đăng
đất đai thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi ban hành Thông báo số 473/TB-
CNTPQN về việc trả hồ không giải quyết đối với hồ xin đăng biến
động của Lê Thị Mỹ H. Lý do trả hồ sơ: “Căn cứ Điều 202, 203 Luật đất đai
năm 2013 thì trường hợp của không đủ điều kiện để Văn phòng đăng đất
đai tỉnh Q Chi nhánh thành phố Q c lập hồ cho Văn phòng đăng đất
đai tỉnh trình Sở T tỉnh cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà” là
căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
[1.4] Như vậy, ngày 04/8/2022 thời điểm ông T1 chuyển nhượng thửa đất
số 02 cho H thì thửa đất số 02 được xác định đất đang tranh chấp. Tại
điểm a khoản 1.5 Điều 6 của Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số
chứng thực 3895, quyển số 08/2022TP/CC-SCC/HĐGD (bút lục 23) ông T1
cam đoan với H Thửa đất không tranh chấp”; khoản 3.2 Điều 6 của
Hợp đồng giữa ông T1 và bà H có thỏa thuận “Nếu thửa đất có tranh chấp; bị kê
biên để đảm bảo thi hành án; thửa đất quyết định thu hồi đất của cấp
thẩm quyền; đã dùng để bảo đảm nghĩa vụ về tài sản; việc chuyển nhượng nhằm
trốn tránh nghĩa vụ về tài sản của bên A thì hợp đồng này được hủy bỏ, hai bên
hoàn trả cho nhau tài sản đã nhận, bên có lỗi phải bồi thường”. vậy, ông T1
biết thửa đất đang bị tranh chấp ông cam đoan trường hợp H không được
chỉnh biến động sang tên thửa đất s02 thì ông T1 sẽ trả lại cho H số tiền
ông đã nhận và phải bồi thường thiệt hại cho bà H.
[2] Tòa án cấp thẩm đã bác toàn bộ yêu cầu của người khởi kiện
Thị Mỹ H căn cứ và đúng pháp luật. Tại Tòa án cấp phúc thẩm người khởi
kiện Thị Mỹ H kháng cáo nhưng không cung cấp được chứng cứ nào mới
khác để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo là cơ sở. Do đó, Hội đồng xét xử
bác kháng cáo của bà Lê Thị Mỹ H, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.
[3] Về án phí: Người khởi kiện Thị Mỹ H phải chịu án phí hành
chính phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 241 Luật tố tụng hành chính;
Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường v
Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản sử dụng án phí
và lệ phí Tòa án, xử:
11
1. Bác kháng cáo của người khởi kiện bà Lê Thị Mỹ H và giữ nguyên quyết
định của Bản án hành chính sơ thẩm số 40/2023/HC-ST ngày 15/9/2023 của Tòa
án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.
Tuyên xử:
Bác yêu cầu khởi kiện của bà Thị Mỹ H về việc: Đề nghị Tòa án xác
định hành vi trả hồ sơ, không thực hiện việc đăng biến động quyền sdụng
đất của Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Q đối với thửa đất số 02, tờ bản đồ số 31
(đo vẽ năm 2016) phường T, thành phố Q do Thị Mỹ H nhận chuyển
nhượng từ ông Huỳnh Văn T1 hành vi hành chính trái pháp luật; Buộc Văn
phòng đăng đất đai tỉnh Q tiếp nhận hồ sơ, thực hiện đăng biến động
trình quan thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với
thửa đất số 02, tờ bản đồ số 31, diện tích 385m
2
tại phường T, thành phố Q, tỉnh
Quảng Ngãi cho bà Lê Thị Mỹ H theo quy định của pháp luật.
2. Về án phí hành chính:
2.1 Án phí hành chính sơ thẩm: Người khởi kiện bà Lê Thị Mỹ H phải chịu
300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), được trừ vào tiền tạm ng án phí đã nộp
300.000 đồng theo Biên lai thu số 0006079 ngày 15/6/2023 của Cục Thi hành án
dân sự tỉnh Quảng Ngãi.
2.2 Án phí hành chính phúc thẩm: Người khởi kiện bà Thị Mỹ H phải
chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã
nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu số 0006884 ngày
25/9/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Ngãi.
Bà Lê Thị Mỹ H đã nộp đủ án phí hành chính sơ thẩm và phúc thẩm.
Bản án hành chính phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Nơi nhận:
- TAND tối cao;
- VKSND cấp cao tại Đà Nẵng;
- TAND tỉnh Quảng Ngãi;
- VKSND tỉnh Quảng Ngãi;
- Cục THADS tỉnh Quảng Ngãi;
- Những người tham gia tố tụng;
- Lưu HSVA, PHCTP, LT.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(Đã ký)
Trương Minh Tuấn
Tải về
115-2024-HC-PT-CAP-CAO-DA-NANG 115-2024-HC-PT-CAP-CAO-DA-NANG

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

115-2024-HC-PT-CAP-CAO-DA-NANG 115-2024-HC-PT-CAP-CAO-DA-NANG

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất