Bản án số 11/2024/HC-ST ngày 26-01-2024 của TAND tỉnh Đắk Lắk về khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
11_2024_HC-ST_ DAK LAK
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
11_2024_HC-ST_ DAK LAK
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 11/2024/HC-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 11/2024/HC-ST ngày 26-01-2024 của TAND tỉnh Đắk Lắk về khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | QĐ hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai trong trường hợp giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, trưng dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định cư… |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Đắk Lắk |
| Số hiệu: | 11/2024/HC-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 26/01/2024 |
| Lĩnh vực: | Hành chính |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ án: | Nguyễn Văn T khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH ĐẮK LẮK
Bản án số: 11/2024/HC-ST
Ngày: 26/01/2024
V/v: Khiếu kiện quyết định hành chính,
hành vi hành chính trong lĩnh vực quản lý
đất đai
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên tòa: Bà Lê Thị Thanh Huyền.
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Võ Quang Tuyên và ông Lê Ngọc Tâm
- Thư ký phiên tòa: Bà Phan Thị Linh Chi – Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh
Đắk Lắk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa: Bà
Nguyễn Thị Hải Anh - Kiểm sát viên.
Ngày 26 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, xét xử
sơ thẩm công khai vụ án hành chính sơ thẩm thụ lý số 142/2023/TLST-HC ngày
09/10/2023 về việc “Kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh
vực quản lý đất đai”; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2024/QĐXXST-
HC ngày 15/01/2024, giữa các đương sự:
- Người khởi kiện: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1971; địa chỉ: TDP 4,
phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Thanh D, sinh năm 1993; địa chỉ:
Thôn 8, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk.
- Người bị kiện: Ủy ban nhân dân thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; địa chỉ: 01 L,
thành phố B, tỉnh Đắk Lắk
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Đại Th; C/v: Phó Chủ tịch UBND
thành phố B.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: Ông Phạm Văn N; C/v: Trưởng
phòng kỹ thuật, giải phóng mặt bằng Trung tâm phát triển quỹ đất Đắk Lắk.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Trung tâm phát triển quỹ đất
Đắk Lắk; địa chỉ: Số 66 C, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Đào Nam C; C/v: Phó Giám đốc Trung
tâm phát triển quỹ đất Đắk Lắk.

2
(Các đương sự, người đại diện theo ủy quyền, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp đều có đơn xin xét xử vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Người đại diện theo uỷ quyền của người khởi kiện ông Lê Thanh D
trình bày:
Gia đình ông Nguyễn Văn T sử dụng thửa đất số 56, tờ bản đồ số 7, diện tích
đất 209,3m
2
tại phường T, thành phố B, có nguồn gốc là nhận chuyển nhượng của
ông Nguyễn Văn Th năm 2012 (ông Th ký kết Hợp đồng giao khoán số
81Đ1/2012/HĐ năm 2012 với Công ty TNHH MTV cà phê B). Năm 2014, gia đình
ông T xây dựng nhà ở diện tích 85,4m
2
và sử dụng ổn định cho đến nay, không
có tranh chấp.
Khi Nhà nước thực hiện dự án Hạ tầng giao thông khu dân cư phía Bắc,
phường T thì gia đình ông T bị UBND thành phố B thu hồi đất và nhà ở, nhưng
không được bố trí giao đất theo chế độ chính sách quy định.
Sau đó, gia đình ông T nhận được Thông báo số 36/TTPTQĐ-KTGPMB
ngày 11/5/2023 của Trung tâm quỹ đất Đắk Lắk về kết quả xét duyệt giao đất có
thu tiền sử dụng đất cho các hộ gia đình tại 02 dự án: Hạ tầng giao thông Khu dân
cư phía Bắc, Khu dân cư phía Nam, phường T, thành phố B (Gọi tắt là Thông báo
số 36). Theo đó gia đình ông T không đủ điều kiện giao đất theo Công văn số
4928/UBND-NNMT ngày 09/12/2022 của UBND thành phố B.
Theo quy định tại khoản 4, Điều 6, Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày
15/5/2014 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất quy định: “Đối với hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất khi Nhà nước thu
hồi đất gắn liền với nhà ở thuộc trường hợp phải di chuyển chỗ ở nhưng không
đủ điều kiện được bồi thường về đất ở, nếu không có chỗ ở nào khác trong địa
bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất ở thu hồi thì được Nhà nước bán, cho thuê,
cho thuê mua nhà ở hoặc giao đất ở có thu tiền sử dụng đất. Giá bán, cho thuê,
cho thuê mua nhà ở; giá đất ở tính tiền sử dụng đất khi Nhà nước giao đất do Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh quy định”
Điều 5, Quyết định số 14/2022/QĐ-UBND ngày 15/3/2022 của UBND tỉnh
Đắk Lắk (sửa đổi, bổ sung Quyết định số 39/2014) quy định về Bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk quy định: “Hộ
gia đình, cá nhân đang sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất gắn liền với nhà ở
thuộc trường hợp phải di chuyển chỗ ở nhưng không đủ điều kiện được bồi thường
về đất ở (kể cả trường hợp xây dựng gắn liền đất nông nghiệp, đất nhận khoán,
đất nhận liên kết, đất lấn, chiếm của các công ty nông, lâm nghiệp, đất nhận
chuyển nhượng không đúng quy định...) nếu tại thời điểm thông báo thu hồi đất
không có nhà ở, đất ở nào khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất ở
3
thu hồi thì được xem xét giao 01 (một) thửa đất ở làm nhà ở có thu tiền sử dụng
đất. Thửa đất giao tại nơi tái định cư là thửa đất có diện tích nhỏ nhất trong khu
tái định cư”.
Đối chiếu 02 quy định này thì thấy rằng gia đình ông T đáp ứng đủ điều kiện
được “Hỗ trợ tái định cư” theo hình thức được Nhà nước giao một thửa đất để làm
nhà ở và có thu tiền sử dụng đất.
- Thứ nhất, ông Nguyễn Văn T sử dụng đất có nguồn gốc nhận khoán với
Công ty TNHH MTV cà phê B, đây là loại đất không đủ điều kiện được bồi
thường về đất ở.
- Thứ hai, ông T bị nhà nước thu hồi đất (209,3m
2
), gắn với nhà ở (85,4m
2
)
và thuộc trường hợp phải di chuyển chổ ở, phải giải tỏa toàn bộ diện tích đất.
- Thứ ba, gia đình ông T sử dụng đất là nhận chuyển nhượng không đúng
quy định (mua đất của ông Nguyễn Văn Th năm 2012 là không đúng quy định
của pháp luật, vì ông Th không có quyền sử dụng đất, việc mua bán không thông
qua xác nhận của Chính quyền địa phương và Công ty TNHH MTV cà phê B),
nội dung này tại Báo cáo số 239/BC-TNMT ngày 05/12/2022 của Phòng Tài
nguyên và Môi trường cũng đã xác định là: “nhận chuyển nhượng đất liên kết
không đúng quy định”
- Thứ tư, gia đình ông T không còn đất ở, nhà ở nào khác trong địa bàn xã,
phường, thị trấn nơi có đất ở thu hồi, nội dung này trong Báo cáo số 239/BC-
TNMT ngày 05/12/2022 của Phòng Tài nguyên và Môi trường thành phố B về
điều kiện nhà ở, đất ở
Do đó, ông Nguyễn Văn T khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên hủy một phần
Thông báo số 36/TTPTQĐ-KTGPMB ngày 11/5/2023 của Trung tâm quỹ đất Đắk
Lắk về kết quả xét duyệt giao đất có thu tiền sử dụng đất cho các hộ gia đình tại 02
dự án: Hạ tầng giao thông Khu dân cư phía Bắc, Khu dân cư phía Nam, phường T,
thành phố B, tỉnh Đắk Lắk đối với hộ ông Nguyễn Văn T. Buộc UBND thành phố B
ban hành quyết định giao đất có thu tiền sử dụng đất không thông qua đấu giá cho
hộ ông Nguyễn Văn T để ổn định chỗ ở.
* Người đại diện theo ủy quyền của người bị kiện UBND thành phố B là
ông Lê Đại Th trình bày:
Ông Nguyễn Văn T sử dụng thửa đất số 56, tờ bản đồ số 7, diện tích
209,30m
2
có nguồn gốc nhận chuyển nhượng bằng giấy viết tay từ ông Nguyễn
Văn Th (ông Nguyễn Văn Th hợp đồng liên kết sản xuất đất trồng cà phê với Công
ty TNHH MTV cà phê B tại Hợp đồng số 81Đ1/2012/HĐ). Năm 2017, UBND tỉnh
Đắk Lắk thu hồi đất của Công ty TNHH MTV cà phê B (do Công ty giải thể) giao

4
Trung tâm phát triển quỹ đất Đắk Lắk quản lý tại Quyết định 07/QĐ-UBND ngày
04/01/2017, trong đó có thửa đất do ông Nguyễn Văn T đang sử dụng.
Năm 2019, UBND tỉnh phê duyệt Báo cáo nghiên cứu khả thi thực hiện Dự
án Hạ tầng giao thông Khu dân cư Phía Bắc tại phường T tại Quyết định số
3125/QĐ-UBND ngày 28/10/2019. Trên cơ sở đó, Trung tâm phát triển quỹ đất
lập Phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất để thực
hiện dự nêu trên và được UBND thành phố B phê duyệt tại Quyết định số
8601/QĐ-UBND ngày 01/12/2021, trong đó kinh phí bồi thường, hỗ trợ đối với
hộ ông Nguyễn Văn T là 266.156.816 đồng, ông Nguyễn Văn T đã nhận tiền và
bàn giao mặt bằng cho đơn vị thi công thực hiện dự án.
Đối với nội dung ông Nguyễn Văn T khởi kiện đề nghị UBND thành phố B
ban hành quyết định giao đất có thu tiền sử dụng đất không thông qua đấu giá:
- Mặc dù, tại thời điểm thu hồi đất ông Nguyễn Văn T đang ở trên diện tích
đất bị thu hồi và bị thu hồi toàn bộ diện tích nhà ở (nhà cấp 4, diện tích xây dựng
85,40m
2
), thời điểm xây dựng nhà ở năm 2014. Ngoài vị trí thu hồi, hộ ông
Nguyễn Văn T không còn nhà ở, đất ở nào khác trên địa bàn thành phố B.
- Tuy nhiên, hộ ông Nguyễn Văn T không có hợp đồng liên kết, hợp đồng
nhận khoán với Công ty Cà phê B, việc ông Nguyễn Văn T nhận chuyển nhượng
đất của ông Nguyễn Văn Th là vi phạm điểm i, khoản 1, Điều 3 của Hợp đồng số
81Đ1/2012/HĐ ngày 12/06/2012 “không được giao lại đất khoán hoặc đơn
phương chuyển nhượng hợp đồng cho bên thứ 3 dưới bất kỳ hình thức nào khi
chưa được bên A chấp thuận”.
Tại thời điểm phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ thì áp dụng quyết định
số 39/QĐ-UBND, ngày 26/02/2014 và Quyết định số 27/2019/QĐ-UBND, ngày
19/12/2019 của UBND tỉnh Đắk Lắk. Theo đó việc giao đất được căn cứ khoản
1, Điều 1 Quyết định số 27/2019/QĐ-UBND của UBND tỉnh Đắk Lắk “Hộ gia
đình, cá nhân đang sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất gắn liền với nhà ở thuộc
trường hợp phải di chuyển chỗ ở nhưng không đủ điều kiện được bồi thường về
đất ở (kể cả trường hợp xây dựng gắn liền đất nông nghiệp, đất nhận khoán, đất
nhận liên kết, đất lấn, chiếm của các công ty nông, lâm nghiệp) nếu tại thời điểm
thông báo thu hồi đất không có nhà ở, đất ở nào khác trong địa bàn huyện, thị xã,
thành phố nơi có đất bị thu hồi thì được xem xét giao một thửa đất ở làm nhà ở
có thu tiền sử dụng đất” hộ ông Nguyễn Văn T không thuộc trường hợp được
giao một thửa đất ở làm nhà ở có thu tiền sử dụng đất.
Ngày 30/9/2022, Hội đồng thẩm định của thành phố mới họp xét giao đất
cho các hộ thuộc Dự án: Hạ tầng giao thông Khu dân cư Phía Bắc tại phường

5
Thành Nhất (thực hiện sau khi phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ thì quyết
định số 39/QĐ-UBND, ngày 26/02/2014 và Quyết định số 27/2019/QĐ-UBND,
ngày 19/12/2019 của UBND tỉnh Đắk Lắk đã hết hiệu lực và được thay thế bằng
Quyết định số 14/QĐ-UBND ngày 15/3/2022), trong đó có trường hợp của ông
Nguyễn Văn T.
Căn cứ Điều 5 Quyết định số 14/QĐ-UBND ngày 15/3/2022 của UBND tỉnh
Đắk Lắk “Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất gắn
liền với nhà ở thuộc trường hợp phải di chuyển chỗ ở nhưng không đủ điều kiện
được bồi thường về đất ở (kể cả trường hợp xây dựng gắn liền đất nông nghiệp,
đất nhận khoán, đất nhận liên kết, đất lấn, chiếm của các công ty nông, lâm
nghiệp, đất nhận chuyển nhượng không đúng quy định...) nếu tại thời điểm thông
báo thu hồi đất không có nhà ở, đất ở nào khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn
nơi có đất ở thu hồi thì được xem xét giao 01 (một) thửa đất ở làm nhà ở có thu
tiền sử dụng đất. Thửa đất giao tại nơi tái định cư là thửa đất có diện tích nhỏ
nhất trong khu tái định cư”, hộ ông Nguyễn Văn T không thuộc trường hợp được
giao một thửa đất ở làm nhà ở có thu tiền sử dụng đất.
Do đó, các nội dung khởi kiện của Ông Nguyễn Văn T là không có cơ sở
xem xét, giải quyết. Đề nghị Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk bác đơn của ông
Nguyễn Văn T.
* Người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
Trung tâm phát triển quỹ đất Đắk Lắk là ông Đào Nam C trình bày:
Thống nhất với lời trình bày của UBND thành phố B. Đề nghị Toà án nhân
dân tỉnh Đắk Lắk bác đơn của ông Nguyễn Văn T.
Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk:
Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán và tại phiên tòa
Hội đồng xét xử, Thư ký và các đương sự đã tuân thủ và thực hiện đúng với quy
định của pháp luật về tố tụng hành chính;
Về nội dung: Đề nghị HĐXX căn cứ điểm b khoản 2 Điều 193 Luật tố tụng
hành chính: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn T về việc Hủy
một phần Thông báo số 36/TTPTQĐ-KTGPMB ngày 11/5/2023 của Trung tâm
quỹ đất Đắk Lắk về kết quả xét duyệt giao đất có thu tiền sử dụng đất cho các hộ
gia đình tại 02 dự án: Hạ tầng giao thông Khu dân cư phía Bắc, Khu dân cư phía
Nam, phường T, thành phố B đối với hộ ông Nguyễn Văn T; buộc UBND thành
phố B ban hành quyết định giao đất có thu tiền sử dụng đất không thông qua đấu giá
cho hộ ông Nguyễn Văn T theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ
6
vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng
cứ, ý kiến của các đương sự và của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định như
sau:
[1] Về tố tụng: Về đối tượng khởi kiện, thời hiệu khởi kiện quyết định hành
chính, hành vi hành chính và thẩm quyền giải quyết vụ án:
Ngày 01/12/2021, UBND thành phố B ban hành Quyết định số 8601/QĐ-
UBND về việc phê duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và chi phí tổ chức thực
hiện công tác bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất để xây dựng công trình:
Hạ tầng giao thông khu dân cư phía Bắc, phường T, thành phố B (đợt 1), trong đó
có hộ ông Nguyễn Văn T.
Ngày 09/12/2022, UBND thành phố B ban hành Công văn số 4928/UBND-
TNMT về việc giao đất có thu tiền sử dụng đất không thông qua đấu giá cho các
hộ dân, nội dung: Đề nghị Trung tâm phát triển quỹ đất Đắk Lắk thông báo, trả
lời trường hợp không đủ điều kiện giao đất có thu tiền sử dụng đất không thông
qua đấu giá.
Ngày 11/5/2023, Trung tâm phát triển quỹ đất Đắk Lắk ban hành Thông báo
số 36/TB-TTPTQĐĐL về kết quả xét duyệt giao đất có thu tiền sử dụng đất cho
các hộ gia đình, theo đó hộ ông Nguyễn Văn T không đủ điều kiện giao đất.
Không đồng ý với Thông báo trên nên ngày 28/8/2023 ông T làm đơn khởi
kiện yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk tuyên hủy một phần Thông báo số 36;
buộc UBND thành phố B ban hành quyết định giao đất có thu tiền sử dụng đất không
thông qua đấu giá cho hộ ông Nguyễn Văn T để ổn định chỗ ở theo quy định của
pháp luật là còn thời hiệu khởi kiện theo quy định tại Điều 116 Luật tố tụng hành
chính. Yêu cầu hủy một phần Thông báo số 36 và buộc UBND thành phố B ban
hành quyết định giao đất có thu tiền sử dụng đất không thông qua đấu giá là đối
tượng khởi kiện vụ án hành chính và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân
dân tỉnh Đắk Lắk theo quy định tại khoản 1 Điều 30; khoản 4 Điều 32 của Luật
Tố tụng hành chính.
[2] Xét yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn T, thấy rằng:
[2.1] Về thẩm quyền ban hành Thông báo số 36:
Ngày 09/12/2022, UBND thành phố B ban hành Công văn số 4928/UBND-
TNMT về việc giao đất có thu tiền sử dụng đất không thông qua đấu giá cho các
hộ dân, nội dung: Đề nghị Trung tâm phát triển quỹ đất Đắk Lắk thông báo, trả
lời trường hợp không đủ điều kiện giao đất có thu tiền sử dụng đất không thông
qua đấu giá.
Căn cứ Công văn trên; ngày 11/5/2023, Trung tâm phát triển quỹ đất Đắk
Lắk ban hành Thông báo số 36/TB-TTPTQĐĐL về kết quả xét duyệt giao đất có
7
thu tiền sử dụng đất cho các hộ gia đình, theo đó hộ ông Nguyễn Văn T không đủ
điều kiện giao đất.
Như vậy, căn cứ vào quy định tại Điều 69 Luật đất đai 2013 thì UBND thành
phố B ủy quyền cho Trung tâm phát triển quỹ đất Đắk Lắk ban hành Thông báo số
36 là đúng thẩm quyền.
Tuy nhiên, căn cứ Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP ngày 29/7/2011 của
Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định
của Luật tố tụng hành chính thì cần xác định người bị kiện là UBND thành phố B
là cơ quan có thẩm quyền ban hành Quyết định hành chính, Trung tâm phát triển
quỹ đất Đắk Lắk là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.
[2.2] Về nội dung:
Hộ ông Nguyễn Văn T sử dụng đất có nguồn gốc do Nhà nước giao cho
Công ty TNHH MTV cà phê B quản lý, Công ty TNHH MTV cà phê B ký hợp
đồng kinh tế liên kết sản xuất cà phê với ông Nguyễn Văn Th tại Hợp đồng số
81Đ1/2012/HĐ ngày 12/6/2012. Ngày 09/10/2012, ông Thân chuyển nhượng lại
cho ông Nguyễn Văn T nhưng không được Công ty TNHH MTV cà phê B ký xác
nhận hợp đồng, xét thấy: Tại Báo cáo số 239/BC-TNMT ngày 05/12/2022 của
Phòng Tài nguyên và môi trường thành phố B về việc đề xuất giao đất có thu tiền
sử dụng đất không thông qua đấu giá cho các hộ thuộc dự án: Hạ tầng giao thông
khu dân cư phía bắc, phường T, thành phố B; bản tự khai của người bị kiện UBND
thành phố B; Trung tâm phát triển quỹ đất Đắk Lắk; kết quả xác minh do Trung
tâm phát triển quỹ đất Đắk Lắk cung cấp đều thể hiện: Tại thời điểm thu hồi đất,
hộ ông Nguyễn Văn T đang ở trên diện tích đất bị thu hồi và bị thu hồi toàn bộ
diện tích nhà ở (nhà cấp 4, diện tích xây dựng 85,40m
2
), thời điểm xây dựng nhà
ở năm 2014, không có biên bản xử lý vi phạm. Ngoài vị trí thu hồi, hộ ông Nguyễn
Văn T không còn nhà ở, đất ở nào khác trên địa bàn thành phố B.
Căn cứ tại khoản 2 Điều 79 Luật đất đai năm 2013 quy định: “Hộ gia đình,
cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất gắn liền với nhà ở phải di chuyển chỗ ở mà
không đủ điều kiện được bồi thường về đất ở; nếu không có chỗ ở nào khác thì
được Nhà nước bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở hoặc giao đất ở có thu tiền sử
dụng đất”.
Tại khoản 4 Điều 6 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính
phủ quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất quy định:
“Đối với hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất gắn
liền với nhà ở thuộc trường hợp phải di chuyển chỗ ở nhưng không đủ điều kiện
được bồi thường về đất ở, nếu không có chỗ ở nào khác trong địa bàn xã, phường,
thị trấn nơi có đất ở thu hồi thì được Nhà nước bán, cho thuê, cho thuê mua nhà
8
ở hoặc giao đất ở có thu tiền sử dụng đất. Giá bán, cho thuê, cho thuê mua nhà
ở; giá đất ở tính tiền sử dụng đất khi Nhà nước giao đất do ủy ban nhân dân cấp
tỉnh quy định”.
Tại Điều 5 Quyết định số 14/2022/QĐ-UBND ngày 15/3/2022 của UBND
tỉnh Đắk Lắk về việc ban hành quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, quy định: " Hộ gia đình, cá nhân đang
sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất gắn liền với nhà ở thuộc trường hợp phải
di chuyển chỗ ở nhưng không đủ điều kiện được bồi thường về đất ở (kể cả trường
hợp xây dựng gắn liền đất nông nghiệp, đất nhận khoán, đất nhận liên kết, đất
lấn, chiếm của các công ty nông, lâm nghiệp, đất nhận chuyển nhượng không
đúng quy định...) nếu tại thời điểm thông báo thu hồi đất không có nhà ở, đất ở
nào khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất ở thu hồi thì được xem xét
giao 01 (một) thửa đất ở làm nhà ở có thu tiền sử dụng đất. Thửa đất giao tại nơi
tái định cư là thửa đất có diện tích nhỏ nhất trong khu tái định cư”.
Căn cứ các quy định trên thì hộ ông Nguyễn Văn T đủ điều kiện để giao 01
thửa đất làm nhà ở có thu tiền sử dụng đất không thông qua đấu giá. Do đó, cần
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn T về việc hủy một phần Thông
báo số 36; buộc UBND thành phố B ban hành quyết định giao đất có thu tiền sử dụng
đất không thông qua đấu giá cho hộ ông Nguyễn Văn T.
[3] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện được chấp nhận nên người khởi kiện
không phải chịu án phí hành chính sơ thẩm, cần buộc người bị kiện phải chịu án
phí hành chính sơ thẩm là phù hợp theo quy định tại khoản 2 Điều 32 Nghị quyết
số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ Điều 30; Điều 32; Điều 115; Điều 116; điểm b khoản 2 Điều 193 và
Điều 206 của Luật Tố tụng hành chính;
Áp dụng Luật đất đai 2013; Nghị định số 47/2014/NĐ-CP về bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; Quyết định số 14/2022/QĐ-UBND ngày
15/3/2022 của Ủy ban nhân dân tỉnh Đắk Lắk;
Căn cứ khoản 2 Điều 32 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn T
- Hủy một phần Thông báo số 36/TTPTQĐ-KTGPMB ngày 11/5/2023 của

9
Trung tâm quỹ đất Đắk Lắk về kết quả xét duyệt giao đất có thu tiền sử dụng đất
cho các hộ gia đình tại 02 dự án: Hạ tầng giao thông Khu dân cư phía Bắc, Khu
dân cư phía Nam, phường T, thành phố B đối với hộ ông Nguyễn Văn T.
- Buộc UBND thành phố B ban hành quyết định giao đất có thu tiền sử dụng
đất không thông qua đấu giá cho hộ ông Nguyễn Văn T theo quy định của pháp luật.
2. Về án phí:
Ông Nguyễn Văn T không phải chịu án phí hành chính sơ thẩm, được nhận
lại số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số
AA/2023/0003356 ngày 03/10/2023 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Đắk Lắk (Do
ông Lê Thanh D nộp thay).
UBND thành phố B phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí hành
chính sơ thẩm.
3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt được quyền kháng cáo Bản án
sơ thẩm trọng hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt được quyền
kháng cáo Bản án sơ thẩm trọng hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc
Bản án được niêm yết hợp lệ.
Nơi nhận:
- TANDCC tại Đà Nẵng;
- VKSND tỉnh Đắk Lắk;
- Cục THADS tỉnh Đắk Lắk;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN – CHỦ TOẠ PHIÊN TOÀ
(ĐÃ KÝ)
Lê Thị Thanh Huyền
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 10/05/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 08/05/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 25/04/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 16/04/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 03/04/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 29/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 27/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 27/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 22/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 22/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 15/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 14/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 14/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 18/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 18/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 11/01/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 22/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 21/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 21/12/2023
Cấp xét xử: Sơ thẩm