Bản án số 10/2024/HNGĐ-ST ngày 16/09/2024 của TAND huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 10/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 10/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 10/2024/HNGĐ-ST
Tên Bản án: | Bản án số 10/2024/HNGĐ-ST ngày 16/09/2024 của TAND huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Bình Lục (TAND tỉnh Hà Nam) |
Số hiệu: | 10/2024/HNGĐ-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 16/09/2024 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Chị Trần Thị Hồng D đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn với anh Tống Đức Nh và đề nghị giải quyết về con chung. |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN BÌNH LỤC
TỈNH HÀ NAM
Bản án số: 10/2024/HNGĐ-ST
Ngày: 16/9/2024
V/v: Ly hôn, tranh chấp về
nuôi con khi ly hôn.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH LỤC, TỈNH HÀ NAM
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Thu Hằng.
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Phạm Minh Khánh và ông Trần Ngọc Sơn.
- Thư ký phiên tòa: Bà Đinh Như Nguyệt - Thư ký Tòa án nhân dân huyện
Bình Lục, tỉnh Hà Nam.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam tham
gia phiên tòa: Bà Nguyễn Thị Thúy Tình - Kiểm sát viên.
Ngày 16 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Lục, tỉnh
Hà Nam xét xử sơ thẩm công khai
vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số:
16/2024/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 6 năm 2024 về việc “Ly hôn, tranh chấp về
nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2024/QĐXXST-
HNGĐ ngày 07/8/2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 09/2024/QĐST-HNGĐ
ngày 29/8/2024, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị Hồng D, sinh năm 1993; nơi thường trú và cư
trú: Tổ dân phố B, thị trấn B, huyện B, tỉnh Hà Nam; có mặt.
2. Bị đơn: Anh Tống Đức Nh, sinh năm 1993; nơi thường trú và nơi cư
trú: Tổ dân phố B, thị trấn B, huyện B, tỉnh Hà Nam; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
* Tại đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên
tòa, nguyên đơn chị Trần Thị Hồng D trình bày:
Về hôn nhân: Chị và anh Tống Đức Nh tự nguyện đăng ký kết hôn vào ngày
16/9/2015 tại Ủy ban nhân dân thị trấn B, huyện B, tỉnh Hà Nam. Sau khi kết hôn
vợ chồng chung sống được 03 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu
thuẫn do anh Nh chơi bời sử dụng ma túy đá; không chịu làm ăn, thường xuyên
đánh đập chị. Giữa năm 2018 anh Nh bị bắt về tội mua bán ma túy. Tháng 9/2023
anh Nh ra tù về địa phương. Tuy nhiên anh Nh không thay đổi, vẫn có hành vi đe
2
dọa, đánh đập chị D. Tháng 11/2023 chị cùng hai con về ở với bố mẹ đẻ của chị
và vợ chồng sống ly thân nhau từ đó đến nay. Chị D xác định tình cảm vợ chồng
không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh Nh để chị ổn định
cuộc sống.
Về con chung: Chị xác định chị và anh Nh có 02 con chung là cháu Tống
Bảo A, sinh ngày 26/7/2014 và cháu Tống Đức Q, sinh ngày 26/7/2016. Hiện chị
đang nuôi dưỡng cả hai cháu. Các cháu đều khỏe mạnh, phát triển bình thường,
học tập tốt. Ly hôn chị đề nghị được tiếp tục nuôi cả hai cháu; không yêu cầu anh
Nh cấp dưỡng tiền nuôi con chung cùng chị. Hiện tại chị và hai cháu A, Q đang ở
ổn định cùng với bố mẹ đẻ của chị và chị đang làm nhân viên kinh doanh cho
công ty sữa 2 Holding, thu nhập trung bình mỗi tháng từ 09 triệu đến 10 triệu
đồng. Chị D xác định, cháu Tống Bảo A, sinh ngày 26/7/2014 nhưng đến ngày
16/9/2015 chị và anh Nh mới đăng ký kết hôn và cháu A là con chung của vợ
chồng.
Chị D xác định, chị và anh Nh không có con nuôi, con riêng, hiện chị không
có thai sản gì.
Về tài sản chung, tài sản riêng, công nợ, công sức, trợ cấp khó khăn sau ly hôn,
đất nông nghiệp trồng cây hàng năm: Chị không đề nghị Tòa án xem xét giải quyết.
* Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn - anh Tống Đức Nh không chấp
hành giấy triệu tập của Tòa án, không tham gia tố tụng để giải quyết vụ án và chỉ
có quan điểm “Không đến Tòa án để làm việc và không trình bày gì, chị D làm
đơn khởi kiện ly hôn thì chị D tự làm việc và giải quyết với Tòa án”.
Tại các Biên bản lấy lời khai của cháu Tống Bảo A và cháu Tống Đức Q thì
các cháu đều có nguyện vọng muốn được ở với mẹ.
Tại phiên tòa vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Lục, tỉnh Hà
Nam phát biểu ý kiến: Việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự của Thẩm phán,
Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ
lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Không vi phạm; Đối với
người tham gia tố tụng: Nguyên đơn chị Trần Thị Hồng D đã chấp hành và thực
hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn anh Tống Đức Nh chưa thực
hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ các Điều 28, 35, 39, 68,
144, 147, 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; các Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2014; Luật phí và lệ phí số 97 ngày 25/11/2015 của
Quốc hội; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH quy
định về mức thu, miễn giảm thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận đơn khởi kiện xin ly hôn của chị Trần Thị Hồng D. Xử cho chị
Trần Thị Hồng D ly hôn anh Tống Đức Nh.
3
2. Về con chung: Giao cháu Tống Bảo A, sinh ngày 26/7/2014 và cháu Tống
Đức Q, sinh ngày 26/7/2016 cho chị D nuôi dưỡng. Anh Nh không phải cấp dưỡng
nuôi con chung.
3. Về tài sản chung, tài sản riêng, công nợ, công sức đóng góp, trợ cấp khó
khăn, đất nông nghiệp trồng cây hàng năm: Chị D không yêu cầu Tòa án giải
quyết. Anh Nh không có quan điểm.
4. Án phí ly hôn sơ thẩm: Đương sự phải chịu theo quy định của pháp
luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem
xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng. Tòa án nhân dân huyện Bình
Lục, tỉnh Hà Nam nhận định:
[1] Về tố tụng: Căn cứ nội dung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Trần
Thị Hồng D xin ly hôn anh Tống Đức Nh, đây là quan hệ pháp luật về “Ly hôn,
tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 51 Luật hôn
nhân và gia đình và khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự; bị đơn anh Nh có nơi
thường trú và cư trú tại tổ dân phố B, thị trấn B, huyện B, tỉnh Hà Nam nên thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam theo quy
định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
Do anh Nh đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa.
Vì vậy Tòa án nhân dân huyện Bình Lục tiến hành xét xử vắng mặt anh Nh.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị Hồng D và anh Tống Đức Nh kết
hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân thị trấn
B, huyện B, tỉnh Hà Nam cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn ngày 16/9/2015,
nên được xác định là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn chị D xác định vợ chồng
chung sống được 03 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn chị D
cho rằng do anh Nh chơi bời sử dụng ma túy đá, không chịu làm ăn, thường xuyên
đánh đập chị. Năm 2018, anh Nh bị Tòa án xét xử về tội “Mua bán trái phép chất
ma túy” đến tháng 9/2023 anh Nh chấp hành xong án phạt tù về địa phương nhưng
không chịu khó lao động cùng chị D xây dựng kinh tế gia đình, không gắn kết
tình cảm vợ chồng và thường xuyên đánh đập chị D làm cho tình cảm vợ chồng
ngày càng rạn nứt.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần cùng với chính quyền địa
phương đến nhà anh Tống Đức Nh để giao Thông báo thụ lý vụ án và các văn bản
tố tụng của Tòa án cho anh Nh. Tại biên bản giao Thông báo thụ lý vụ án thể hiện
anh Nh có ý kiến là “không đến Tòa án, chị D có đơn ly hôn thì chị D tự làm việc
với Tòa án”. Sau đó anh Nh đã trốn tránh và không hợp tác, qua đồng chí Tổ
trưởng tổ dân phố B, thị trấn B, huyện B cung cấp số điện thoại của anh Nh, Tòa
án nhân dân huyện Bình Lục đã liên lạc với anh Nh, qua điện thoại anh Nh có
quan điểm “Không đến Tòa án để làm việc và không trình bày gì, chị D làm đơn
4
khởi kiện ly hôn thì chị D tự làm việc và giải quyết với Tòa án”. Việc làm trên
của anh Nh thể hiện sự bỏ mặc và gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án. Trong
suốt quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa chị D luôn có quan điểm mong
muốn và kiên quyết được ly hôn anh Nh và chị xác định việc anh Nh không tham
gia giải quyết việc chị kiện ly hôn tại Tòa án là cố tình gây khó khăn cho chị trong
việc ly hôn. Hội đồng xét xử thấy, xét khả năng chị D, anh Nh đoàn tụ về chung
sống là không còn, vì vậy chấp nhận đề nghị của chị D, xử cho chị D ly hôn anh
Nh là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 51 và khoản 1 Điều 56 của Luật hôn
nhân và gia đình.
[3] Về con chung: Chị Trần Thị Hồng D và anh Tống Đức Nh có 02 con
chung là cháu Tống Bảo A, sinh ngày 26/7/2014 và cháu Tống Đức Q, sinh ngày
26/7/2016. Hiện hai cháu đang ở với chị D và các cháu đều khỏe mạnh, phát triển
bình thường.
Hội đồng xét xử thấy rằng: Từ năm 2018 đến tháng 9/2023, anh Nh phải đi
chấp hành án phạt tù thì các cháu A, Q đều do chị D nuôi dưỡng. Hiện chị D có nơi
ăn ở ổn định cùng bố mẹ đẻ chị, có thu nhập ổn định mỗi tháng từ 09 đến 10 triệu
đồng từ việc làm nhân viên cho Công ty sữa. Việc chăm sóc nuôi dưỡng hai cháu
có sự hỗ trợ của bố mẹ chị D. Nên chị D có đủ điều kiện nuôi dưỡng hai cháu. Hiện
anh Nh không có nghề nghiệp và thu nhập. Do vậy để ổn định cuộc sống, đảm bảo
quyền lợi của hai cháu A, Q; Hội đồng xét xử thấy cần giao cho chị D nuôi dưỡng
các cháu A, Q; anh Nh không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho chị D là phù hợp
với thực tế, phù hợp với nguyện vọng của các cháu A, Q và quan điểm của chính
quyền địa phương.
[4] Về tài sản chung, tài sản riêng, công nợ, công sức đóng góp, đất nông nghiệp
trồng cây hàng năm, trợ cấp khó khăn sau ly hôn: Do chị D không yêu cầu Tòa án
giải quyết; anh Nh không tham gia tố tụng tại Tòa án để trình bày quan điểm do
vậy Hội đồng xét xử không giải quyết những vấn đề này. Nếu sau này chị D, anh
Nh xảy ra tranh chấp về tài sản thì có quyền khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết
theo quy định của pháp.
[5] Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị D phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều
39, Điều 147, khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 51, 56, 58,
81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày
30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án và danh mục án phí, lệ phí
Tòa án.
1. Xử cho chị Trần Thị Hồng D ly hôn anh Tống Đức Nh.

5
2. Về con chung: Giao cháu Tống Bảo A, sinh ngày 26/7/2014 và cháu Tống
Đức Q, sinh ngày 26/7/2016 cho chị Trần Thị Hồng D nuôi dưỡng. Anh Tống
Đức Nh không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho chị D.
Chị D cùng các thành viên gia đình không được cản trở anh Nh trong việc
thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Tống Bảo A và cháu Tống Đức
Q.
3. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Trần Thị Hồng D phải chịu 300.000đ (Ba
trăm nghìn đồng). Chuyển số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) mà chị D đã
nộp tạm ứng án phí ly hôn sơ thẩm tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện B theo
biên lai số 0000619 ngày 21/6/2024 thành án phí ly hôn sơ thẩm mà chị phải nộp
(chị D đã thi hành xong tiền án phí ly hôn sơ thẩm).
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân
sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận
thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi
hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành
án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Chị Trần Thị Hồng D có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ
ngày tuyên án sơ thẩm; anh Tống Đức Nh có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày
kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Hà Nam;
- VKSND huyện Bình Lục;
- Chi cục THADS huyện B;
- UBND thị trấn B; B;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ, văn phòng.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
(Đã ký)
Nguyễn Thị Thu Hằng
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 08/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 03/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 22/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 19/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 19/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm