Bản án số 10/2024/HNGĐ-PT ngày 19/12/2024 của TAND tỉnh Lạng Sơn về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 10/2024/HNGĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 10/2024/HNGĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 10/2024/HNGĐ-PT
Tên Bản án: | Bản án số 10/2024/HNGĐ-PT ngày 19/12/2024 của TAND tỉnh Lạng Sơn về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND tỉnh Lạng Sơn |
Số hiệu: | 10/2024/HNGĐ-PT |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 19/12/2024 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Chị Dương Thị A và anh Hoàng Văn Đ kết hôn với nhau từ năm 2003, vợ chồng có đăng ký kết hôn tại UBND xã P nay là xã L, huyện V, tỉnh Lạng Sơn. Sau khi kết hôn vợ chồng sống chung cùng gia đình nhà chồng tại Thôn N, xã H, huyện V, tỉnh Lạng Sơn |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỈNH LẠNG SƠN
Bản án số: 10/2024/HNGĐ-PT
Ngày 19-12-2024
V/v Ly hôn, tranh chấp nuôi con
khi ly hôn.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LẠNG SƠN
- Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Pham Văn Tuệ
Các Thẩm phán: Ông Lộc Sơn Thái
Ông Phùng Đức Chính
- Thư ký phiên tòa: Bà Chu Thị Kiều - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Lạng
Sơn.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn tham gia phiên tòa: Bà
Hoàng Thị Loan- Kiểm sát viên.
Ngày 19 tháng 12 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn xét
xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 07/2024/TLPT-HNGĐ về việc Ly hôn,
tranh chấp về nuôi con, vay nợ chung.
Do Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số: 09/2024/HNGĐ-ST ngày 25 tháng
6 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 09/2024/QĐ-PT ngày
20 tháng 11 năm 2024, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Chị Dương Thị A, sinh năm 1982; cư trú tại: Thôn N, xã H,
huyện V, tỉnh Lạng Sơn; có mặt.
Bị đơn: Anh Hoàng Văn Đ, sinh năm 1982; cư trú tại: Thôn N, xã H, huyện
V, tỉnh Lạng Sơn; có mặt.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ngân hàng chính sách xã hội Việt
Nam, phòng giao dịch huyện V, tỉnh Lạng Sơn.
Người đại diện theo uỷ quyền: Ông Hoàng Tuấn H, Phó giám đốc, theo văn
bản uỷ quyền ngày 28-5-2024; vắng mặt.
- Người kháng cáo: Anh Hoàng Văn Đ là bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và Bản án Hôn nhân gia đình sơ thẩm,
nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Chị Dương Thị A và anh Hoàng Văn Đ kết hôn với nhau từ năm 2003, vợ
chồng có đăng ký kết hôn tại UBND xã P nay là xã L, huyện V, tỉnh Lạng Sơn.
2
Sau khi kết hôn vợ chồng sống chung cùng gia đình nhà chồng tại Thôn N, xã H,
huyện V, tỉnh Lạng Sơn. Trước khi kết hôn vợ chồng không được tìm hiểu mà do
bố, mẹ hỏi cưới cho theo phong tục địa phương, anh Hoàng Văn Đ không tu chí
chí làm ăn, thường xuyên uống rượu say, chửi mắng bố, mẹ, gây gổ với anh chị
em trong gia đình, gây sự, chửi mắng, đánh đập chị, nhiều lần chị phải bỏ chạy về
bên ngoại ở, các con cũng thường xuyên bị anh Hoàng Văn Đ chửi mắng, đánh
đập, làm cho con gái lớn không yên tâm học hành nên con đã bỏ học từ năm học
lớp 11 vì thương con chị đã nhẫn nhịn chịu đựng nhưng anh Hoàng Văn Đ vẫn
không thay đổi. Từ khi con trai út mới được 5 tuổi chị đã viết đơn xin ly hôn gửi
đến Toà án huyện V xin được ly hôn với anh Hoàng Văn Đ, nhưng do con còn quá
nhỏ nên chị đã rút đơn khởi kiện, vợ chồng tiếp tục chung sống với nhau nhưng
không hạnh phúc. Từ năm 2020 đến nay vợ chồng ly thân không còn chung sống
với nhau, không còn quan tâm đến nhau nữa. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng
không còn, yêu cầu Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Hoàng Văn Đ.
Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là cháu Hoàng Thị E, sinh ngày
16-12-2003, hiện nay cháu đã đi lấy chồng sinh sống tại xã An Sơn, huyện V, tỉnh
Lạng Sơn và cháu Hoàng Văn H, sinh ngày 19-12-2010, hiện nay anh Hoàng Văn
Đ là người đang trực tiếp nuôi dưỡng. Khi ly hôn chị yêu cầu Tòa án giải quyết
giao con chung Hoàng Văn H cho anh Hoàng Văn Đ trực tiếp trông nom, nuôi
dưỡng, chăm sóc và giáo dục cho đến khi con đủ 18 tuổi. Chị tự nguyện cấp
dưỡng nuôi con 1.000.000 đồng/tháng. Nếu anh Hoàng Văn Đ không đồng ý nuôi
con, chị đề nghị Tòa án giao con cho chị nuôi dưỡng, chị không yêu cầu anh
Hoàng Văn Đ cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết
Về nợ chung: Năm 2023, vợ chồng có vay Ngân hàng chính sách xã hội
huyện V số tiền 30.000.000đồng, mục đích trồng cây keo. Khi vay số tiền này anh
Hoàng Văn Đ là người đứng tên vay. Khi vợ chồng ly hôn chị yêu cầu Tòa án giải
quyết mỗi người có trách nhiệm trả ½ số tiền gốc và lãi phát sinh khi đến hạn cho
Ngân hàng chính sách xã hội huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn.
Về nợ riêng: Đối với khoản nợ của chị Vui là khoản nợ riêng của chị, chị
không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đối với số tiền 8.000.000đồng là tiền mừng cưới con gái, chị không được
giữ khoản tiền này, sau khi tổ chức lễ cưới cho con xong chị đi làm tại tỉnh Hải
Dương cho đến nay nên chị không chấp nhận trả khoản tiền này cho anh Hoàng
Văn Đ.
Bị đơn anh Hoàng Văn Đ trình bày: Vợ chồng anh kết hôn trên cơ sở tự
nguyện từ năm 2003, trước khi tổ chức lễ cưới hai bên có được tìm hiểu, có đăng
ký kết hôn tại UBND xã P (cũ), nay là xã L, huyện V. Sau khi kết hôn tình cảm vợ
chồng bình thường, không có mâu thuẫn. Nhưng đến năm 2019 vợ anh bỏ đi làm
Công ty, năm 2020 vợ anh mới về nhà tổ chức lễ cưới cho con gái, tổ chức cưới
cho con gái xong thì chị Dương Thị A lấy số tiền 8.000.000đồng của gia đình đi
cho đến nay không về nhà nữa, chị An không quan tâm đến gia đình và các con,
3
vợ chồng anh đã sống ly thân từ năm 2020 cho đến nay. Nay chị Dương Thị A xin
được ly hôn với anh, anh không đồng ý vì anh vẫn có tình cảm với chị Dương Thị
A và mong muốn chị quay về đoàn tụ để cùng nhau xây dựng gia đình và nuôi dạy
con cái
Về con chung: Vợ chồng anh có 02 con chung như chị Dương Thị A trình
bày là đúng. Hiện nay con lớn của vợ chồng là Hoàng Thị E, sinh ngày 16-12-
2003 đã trưởng thành và có gia đình riêng. Con nhỏ là Hoàng Văn H, sinh ngày
19-12-2010 hiện do anh trực tiếp nuôi dưỡng. Nếu phải ly hôn anh yêu cầu được
trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục con Hoàng Văn H cho đến
khi con đủ 18 tuổi, yêu cầu chị Dương Thị A cấp dưỡng nuôi con
1.000.000đồng/tháng cho đến khi con đủ 18 tuổi.
Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết
Về nợ chung: Năm 2023 anh Hoàng Văn Đ đứng tên vay Ngân hàng chính
sách xã hội huyện H số tiền 30.000.000 đồng, mục đích trồng cây keo. Sau khi vay
tiền gia đình anh đã sử dụng vốn vay để trồng cây keo, mua xe máy cho con và
mua máy cày. Nếu phải ly hôn anh yêu cầu chị Dương Thị A có trách nhiệm trả
toàn bộ khoản nợ gốc và lãi cho Ngân hàng.
Về nợ riêng: Anh biết chị Dương Thị A có một khoản vay nợ với chị Vui số
tiền 6.000.000 đồng nhưng anh không biết chị Vui địa chỉ ở đâu, anh cũng không
có yêu cầu phản tố, chị Dương Thị A tự vay nên tự chịu trách nhiệm trả, anh
không biết và không liên quan.
Sau khi cưới con gái gia đình còn có số tiền 8.000.000 đồng chị Dương Thị
A đã lấy đi chi tiêu hết, anh không được tiêu, nay anh yêu cầu chị Dương Thị A
phải trả lại cho anh.
Ý kiến của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ngân hàng chính sách xã
hội Việt Nam: Theo hồ sơ vay vốn lưu tại NHCSXH huyện V, ngày 15/6/2023
Phòng giao dịch NHCSXH huyện Văn Quan cho hộ gia đình anh Hoàng Văn Đ,
trú tại Thôn N, xã H, huyện V, tỉnh Lạng Sơn. Người thừa kế là chị Dương Thị A,
quan hệ với người vay là vợ. Vay chương trình Hộ nghèo, với mục đích sử dụng
vốn vay trồng cây Keo, theo mã món vay 6600000725932974 là 30.000.000 đồng,
thời hạn cho vay 120 tháng, lãi suất 0,55%/tháng (lãi suất 6,6%/năm), hạn trả cuối
cùng là 15-6-2033, tính đến ngày 28-5-2023 chị Dương Thị A và anh Hoàng Văn
Đ còn nợ toàn bộ số tiền gốc 30.000.000 đồng và lãi suất chưa trả là 824.540
đồng. Khi ly hôn đề nghị anh Hoàng Văn Đ và chị Dương Thị A phải cùng có
trách nhiệm trả hết nợ gốc và tiền lãi cho Ngân hàng.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 09/2024/HNGĐ-ST ngày 25 tháng 6 năm
2024 của Tòa án nhân dân huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn đã tuyên:
- Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Dương Thị A được ly hôn anh Hoàng
Văn Đ.
- Về con chung: Giao cháu Hoàng Văn H, sinh ngày 19-12-2010 cho anh
Hoàng Văn Đ trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi con đủ 18
tuổi.
4
- Về cấp dưỡng: Chị Dương Thị A có trách nhiệm cấp dưỡng cho anh
Hoàng Văn Đ nuôi cháu Hoàng Văn H là 1.000.000 đồng/1 tháng cho đến khi con
đủ 18 tuổi. Phương thức cấp dưỡng theo tháng, thời điểm cấp dưỡng tính từ ngày
tuyên án sơ thẩm. Chị Dương Thị A không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ
đi lại thăm con, không ai được ngăn cản. Trường hợp cần thiết hai bên có quyền
yêu cầu thay đổi người nuôi con và cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp
luật
- Về nợ chung: Chị Dương Thị A và anh Hoàng Văn Đ mỗi người có trách
nhiệm trả 15.000.000 đồng tiền gốc, tiền lãi tính đến ngày 28-5-2024 mỗi người
phải trả là 412.270 đồng và lãi phát sinh khi đến hạn theo mã món vay số
60000072593974 ngày 15-6-2023 cho Ngân hàng chính sách xã hội huyện V, tỉnh
Lạng Sơn.
Ngoài ra, Bản án còn tuyên về án phí, về quyền thi hành án và quyền kháng
cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.
Trong thời hạn luật định bị đơn anh Hoàng Văn Đ kháng cáo Bản án số:
09/2024/HNGĐ-ST ngày 25 tháng 6 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Văn
Quan, tỉnh Lạng Sơn, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xử bác yêu cầu xin ly hôn
của chị Dương Thị A để vợ chồng được đoàn tụ và buộc chị Dương Thị A tự chịu
trách nhiệm trả toàn bộ số tiền nợ gốc là 30.000.000 đồng và lãi phát sinh cho
Ngân hàng chính sách xã hội huyện H, tỉnh Lạng Sơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị đơn giữ nguyên nội dung kháng cáo; chị Dương Thị A không chấp nhận
kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn phát biểu ý kiến về việc
chấp hành pháp luật tố tụng và giải quyết vụ án cụ thể như sau:
1. Về việc chấp hành pháp luật tố tụng: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án tại
cấp phúc thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký
phiên tòa chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; đương sự đã được
thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật tố
tụng dân sự.
2. Về việc giải quyết kháng cáo: Chị Dương Thị A và anh Hoàng Văn Đ có tổ
chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn. Trong quá trình chung sống chị Dương Thị A
và anh Hoàng Văn Đ xảy ra nhiều mâu thuẫn, chị An bỏ đi làm Công ty từ năm
2019, năm 2020 về nhà tổ chức lễ cưới cho con gái xong thì chị Dương Thị A đi không
về nữa, không quan tâm đến gia đình và các con, vợ chồng sống ly thân từ 2020 đến
nay. Như vậy, thấy rằng chị Dương Thị A và anh Hoàng Văn Đ tình cảm vợ chồng
không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài.
Bản án sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của chị Dương Thị A được ly hôn với anh
Hoàng Văn Đ là có cơ sở. Anh Hoàng Văn Đ kháng cáo yêu cầu cấp phúc thẩm xử
bác yêu cầu xin ly hôn của chị Dương Thị A, tuy nhiên xét thấy trong thời gian
anh chị sống ly thân cũng như quá trình giải quyết vụ án anh không có biện pháp
nào để thuyết phục, hàn gắn tình cảm với chị Dương Thị A, do vậy kháng cáo của
anh Hoàng Văn Đ là không có căn cứ để chấp nhận.
5
Về nợ chung: Chị Dương Thị A và anh Hoàng Văn Đ vay nợ Ngân hàng
chính sách xã hội huyện V số tiền 30.000.000 đồng từ ngày 15/6/2023, thời hạn
vay 10 năm, tính đến ngày 28/5/2024 tiền lãi là 824,540 đồng, chị Dương Thị A là
người thừa kế ký uỷ quyền vay. Vay chương trình Hộ nghèo, với mục đích sử
dụng vốn vay trồng cây Keo. Xét thấy, đây là khoản vay nợ chung của vợ chồng
trong thời kỳ hôn nhân, anh Hoàng Văn Đ yêu cầu chị Dương Thị A trả toàn bộ số
tiền gốc và lãi là không có căn cứ. Do vậy, Bản án sơ thẩm buộc nguyên đơn và bị
đơn mỗi người chịu trách nhiệm trả ½ khoản tiền gốc là 15.000.000 đồng, tiền lãi
tính theo Hợp đồng vay đã ký kết là có căn cứ. Do vậy, kháng cáo của anh Hoàng
Văn Đ là không có căn cứ để chấp nhận.
Từ những phân tích đánh giá nêu trên: Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố
tụng dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị đơn, giữ
nguyên Bản án sơ thẩm số 09/2024/HNGĐ-ST ngày 25/6/2024 của Tòa án nhân dân
huyện Văn Quan. Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận, bị đơn phải
chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định, tuy nhiên bị đơn thuộc trường hợp
được miễn án phí do đó không phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Phiên tòa được triệu tập hợp lệ lần thứ nhất, nguyên đơn, bị đơn có mặt
tại phiên tòa, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã có đơn xin xét xử vắng
mặt. Căn cứ Điều 296 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án vẫn tiến hành xét
xử vụ án vắng mặt người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.
[2] Đối với kháng cáo của bị đơn anh Hoàng Văn Đ yêu cầu Tòa án cấp
phúc thẩm bác đơn yêu cầu ly hôn của chị Dương Thị A để vợ chồng trở về đoàn
tụ cùng nhau xây dựng gia đình nuôi dậy con chung, thấy rằng: Tại cấp sơ thẩm, bị
đơn cho rằng sau khi vợ chồng kết hôn tình cảm vợ chồng bình thường, không có
mâu thuẫn. Nhưng đến năm 2019, chị Dương Thị A bỏ đi làm Công ty, năm 2020
chị Dương Thị A mới về nhà tổ chức lễ cưới cho con gái, tổ chức cưới cho con gái
xong thì chị Dương Thị A đi cho đến nay không về nhà nữa, chị An không quan
tâm đến gia đình và các con, vợ chồng anh đã sống ly thân từ năm 2020 cho đến
nay. Trong thời gian anh chị sống ly thân cũng như quá trình giải quyết vụ án anh
không có biện pháp nào để thuyết phục, hàn gắn tình cảm với chị Dương Thị A.
Do đó yêu cầu kháng cáo của anh Hoàng Văn Đ yêu cầu Tòa án phúc thẩm bác
yêu cầu xin ly hôn của chị Dương Thị A để vợ chồng được đoàn tụ không có căn
cứ chấp nhận.
[3] Về nợ chung: Chị Dương Thị A và anh Hoàng Văn Đ đều thừa nhận vợ
chồng có khoản nợ chung 30.000.000 đồng tại Ngân hàng chính sách xã hội huyện
V, tỉnh Lạng Sơn, mục đích vay để trồng cây keo. Anh Hoàng Văn Đ cũng thừa
nhận vợ chồng vay số tiền này để trồng keo, mua xe máy cho con và mua máy
cày. Khoản vay này phát sinh trong thời kỳ hôn nhân. Bản án sơ thẩm buộc
nguyên đơn và bị đơn mỗi người chịu trách nhiệm trả ½ khoản tiền gốc là
15.000.000 đồng, tiền lãi tính theo Hợp đồng vay đã ký kết là có căn cứ. Do đó,
Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của anh Hoàng Văn Đ.
6
[4] Về án phí: Do giữ nguyên Bản án sơ thẩm nên người kháng cáo phải
chịu tiền án phí phúc thẩm, tuy nhiên anh Hoàng Văn Đ là người dân tộc thiểu số
sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn được miễn án phí phúc
thẩm theo quy định của pháp luật.
[5] Đối với ý kiến của đại diện Viện kiểm sát đưa ra là có căn cứ, phù hợp với
quan điểm của Hội đồng xét xử, phù hợp với các quy định của pháp luật nên được
chấp nhận.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
1. Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; không
chấp nhận kháng cáo của bị đơn anh Hoàng Văn Đ; Giữ nguyên Bản án hôn nhân
gia đình sơ thẩm số: 09/2024/HNGĐ-ST ngày 25 tháng 6 năm 2024 của Tòa án
nhân dân huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn.
2. Về án phí phúc thẩm: Căn cứ vào Điều 146 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015 và điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 6 Điều 15 của Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Anh Hoàng Văn Đ được miễn nộp tiền án phí phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành
án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có
quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án
hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành
án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại điều 30
Luật Thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
- TANDCC tại Hà Nội;
- VKSNDCC tại Hà Nội;
- VKSND tỉnh Lạng Sơn;
- TAND h. Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn;
- VKSND h. Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn;
- CCTHADS h. Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn;
- Đương sự;
- Lưu: HS; Tòa DS; HCTP, KTNV&THA.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Phạm Văn Tuệ
7
8
Tải về
Bản án số 10/2024/HNGĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 10/2024/HNGĐ-PT
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 17/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
2
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
3
Ban hành: 14/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
4
Ban hành: 10/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
5
Ban hành: 10/01/2025
Cấp xét xử: Phúc thẩm
6
Ban hành: 31/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
7
Ban hành: 31/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
8
Ban hành: 31/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
9
Ban hành: 31/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
10
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
11
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
12
Ban hành: 30/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
13
Ban hành: 27/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
14
Ban hành: 27/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
15
Ban hành: 26/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
16
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
17
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
18
Ban hành: 25/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
19
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm
20
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Phúc thẩm