Bản án số 09/2024/HS-ST ngày 23/04/2024 của TAND TX. Nghĩa Lộ, tỉnh Yên Bái
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng tội danh
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 09/2024/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 09/2024/HS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 09/2024/HS-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 09/2024/HS-ST ngày 23/04/2024 của TAND TX. Nghĩa Lộ, tỉnh Yên Bái |
|---|---|
| Tội danh: | |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND TX. Nghĩa Lộ (TAND tỉnh Yên Bái) |
| Số hiệu: | 09/2024/HS-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 23/04/2024 |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ án: | Do là người nghiện, nên Lò Văn P đã mua ma túy, loại Heroine về sử dụng và bán lại kiếm lời. Lò Văn P đã 02 lần bán cho Vũ Tiến N, cụ thể như sau |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN
THỊ XÃ NGHĨA LỘ
TỈNH YÊN BÁI
Bản án số: 09 /2024/HS-ST
Ngày: 23-4-2024
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ NGHĨA LỘ, TỈNH YÊN BÁI
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Vũ Xuân.
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Hoàng Văn Vĩnh;
Ông Phạm Việt Cường.
Thư ký phiên toà: Bà Nguyễn Thị Ngân - Thư ký Tòa án nhân dân thị xã
Nghĩa Lộ, tỉnh Yên Bái.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Nghĩa Lộ tham gia phiên toà: Ông
Nguyễn Văn Giỏi - Kiểm sát viên.
Ngày 23 tháng 4 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Nghĩa Lộ, xét
xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 08/2024/TLST-HS ngày
15 tháng 3 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2024/QĐXXST-
HS ngày 09 tháng 4 năm 2024, đối với bị cáo:
Lò Văn P, sinh năm 1983 tại thị xã N Lộ, tỉnh Yên Bái; nơi cư trú thôn Đ,
xã H, thị xã Nghĩa Lộ, tỉnh Yên Bái; nghề nghiệp lao động tự do; trình độ văn
hóa (học vấn) 12/12; dân tộc Thái; giới tính nam; tôn giáo không; quốc tịch Việt
Nam; con ông Lò Văn P (đã chết) và bà Lò Thị X, sinh năm 1962; vợ Lò Thị S
và 03 con; tiền án, tiền sự không; bị tạm giữ từ ngày 26 tháng 12 năm 2023, tạm
giam từ ngày 29 tháng 12 năm 2023; "Có mặt".
- Người tham gia tố tụng khác
+ Người có quyền lợi liên quan:
Chị Lò Thị S, sinh năm 1983; nơi cư trú thôn Đ, xã H, thị xã Nghĩa Lộ,
tỉnh Yên Bái; "Có mặt".
Anh Vũ Tiến N, sinh năm 1990; địa chỉ tổ 03, phường C, thị xã Nghĩa Lộ,
tỉnh Yên Bái; "Vắng mặt".
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung
vụ án được tóm tắt như sau:
2
Khoảng 09 giờ ngày 23/12/2023, tại khu vực nhà máy gạch thuộc thôn N,
xã N, thị xã Nghĩa Lộ; Lò Văn P đã mua của một người đàn ông không quen biết
01 gói Heroine, với giá 1.200.000 đồng. Sau khi mua được Heroine P đã lấy một
phần chia thành 13 gói nhỏ để bán, phần còn lại P cất giấu trong hộp nhựa màu
xanh để dưới gầm giường trong phòng ngủ; mục đích để bán và sử dụng. Cụ thể
P đã bán như sau:
Lần thứ nhất: Khoảng 17 giờ ngày 23/12/2023, tại khu vực đường bê tông
thuộc tổ 2, phường Cầu Thia, thị xã Nghĩa Lộ; Lò Văn P bán cho Vũ Tiến N 05
gói Heroine, với giá 100.000 đồng/01 gói, thu được số tiền 500.000 đồng.
Lần thứ hai: Khoảng 12 giờ ngày 26/12/2023, cũng tại khu vực đường bê
tông thuộc tổ 2, phường C, thị xã Nghĩa Lộ; Lò Văn P đang trao đổi để bán
Heroine cho Vũ Tiến N thì Tổ công tác của Công an phường C phát hiện, bắt quả
tang; thu giữ của P 08 gói nhỏ Heroine.
Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Nghĩa Lộ tiến hành
khám xét khẩn cấp chỗ ở, đồ vật của Lò Văn P tại thôn Đ, xã H, thị xã Nghĩa Lộ.
Kết quả khám xét đã thu giữ tại hộp nhựa màu xanh dưới gầm giường trong phòng
ngủ của Lò Văn P 01 gói nilon màu trắng có khoá nhựa một đầu, bên trong có
chứa chất bột nén màu trắng.
Tại bản kết luận giám định số: 05/KL-KTHS ngày 03/01/2024 của phòng kỹ
thuật hình sự Công an tỉnh Yên Bái, kết luận:
Chất bột nén màu trắng thu giữ của Lò Văn P giao nộp có tổng khối lượng là:
0,43 (không phảy bốn mười ba) gam; 0,1 gam trích ra từ 0,43 gam chất bột nén
màu trắng gửi giám định là ma túy; loại Heroine.
Chất bột nén màu trắng thu giữ khi khám xét chỗ ở của Lò Văn P có khối
lượng là: 2,23 (hai phảy hai mươi ba) gam; 0,1 gam trích ra từ 2,23 gam chất bột
nén màu trắng gửi giám định là ma túy; loại Heroine.
Bản cáo trạng số: 09/CT-VKS-NL ngày 14 tháng 3 năm 2024 của Viện
kiểm sát nhân dân thị xã Nghĩa Lộ đã truy tố bị cáo Lò Văn P về tội “Mua bán
trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật
Hình sự.
Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi mua bán ma túy mà bị cáo
đã thực hiện.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Nghĩa Lộ thực hành quyền công tố,
giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố
bị cáo Lò Văn P phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 5 Điều 251; Điều 38; điểm r, điểm s khoản
1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Lò Văn P từ 07 (bảy) năm 06 (sáu)
tháng đến 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù.
Phạt bị cáo Lò Văn P từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.
3
- Vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 2, điểm
a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
+ Tịch thu tiêu hủy: 2,46 (hai phảy bốn mươi sáu) gam Heroine còn lại sau
khi lấy mẫu giám định để trong 02 phong bì thư do phòng kỹ thuật hình sự Công
an tỉnh Yên Bái phát hành, đã được niêm phong; 06 (sáu) vỏ phong bì đã mở
niêm phong, một vỏ túi nilon và toàn bộ giấy gói;
+ Truy thu nộp ngân sách Nhà nước của Lò Văn P 500.000 (năm trăm
nghìn) đồng;
+ Tịch Thu 200.000 (hai trăm nghìn đồng) của Vũ Tiến N;
+ Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia
màu đen, loại phím bấm; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh, loại
phím bấm;
+ Trả lại 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo, màu xanh đen, loại màn
hình cảm;
+ Trả lại chị Lò Thị S 10.900.000 (mười triệu chín trăm nghìn) đồng.
- Án phí, quyền kháng cáo: Đề nghị tuyên theo quy định của pháp luật.
- Ý kiến của bị cáo: Sau khi phạm tôi tôi đã thành khẩn khai báo, nên xin
Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.
- Người có quyền lợi liên quan không có ý kiến tranh luận gì.
- Ý kiến của Kiểm sát viên: Đã xem xét đến tình tiết bị cáo tự thú và thành
khẩn khai báo; bị cáo phạm tội với mục đích lợi nhuận nên đề nghị áp dụng hình
phạt bổ sung là phạt tiền để răn đe.
- Bị cáo không có ý kiến đối đáp.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi
phạm pháp luật, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ, đã được tranh
tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị
xã Nghĩa Lộ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Nghĩa Lộ, Kiểm sát viên
trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục
quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và
người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành
vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các
hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai tại phiên toà của bị cáo phù hợp biên bản phạm tội quả tang,
lời khai của người có quyền lợi liên quan, vật chứng thu giữ và các tài liệu khác
có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, đã có đủ cơ sở kết luận:
4
Do là người nghiện, nên Lò Văn P đã mua ma túy, loại Heroine về sử dụng
và bán lại kiếm lời. Lò Văn P đã 02 lần bán cho Vũ Tiến N, cụ thể như sau:
Lần thứ nhất: Khoảng 17 giờ ngày 23/12/2023, tại khu vực đường bê tông
thuộc tổ 2, phường C, thị xã N; Lò Văn P bán cho Vũ Tiến N 05 gói Heroine, với
giá 100.000 đồng/01 gói, thu được số tiền 500.000 đồng.
Lần thứ hai: Khoảng 12 giờ ngày 26/12/2023, cũng tại khu vực đường bê
tông thuộc tổ 2, phường C, thị xã Nghĩa Lộ; Lò Văn P đang trao đổi để bán
Heroine cho Vũ Tiến N thì Tổ công tác của Công an phường C phát hiện, bắt quả
tang.
Tổng khối lượng ma túy, loại Heroine thu giữ khi bắt quả tang và khám xét
nơi ở của Lò Văn P là 2,66 gam.
Bị cáo Lò Văn P là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự; bị cáo nhận
thức rõ việc mua bán trái phép Heroine (ma túy) là vi phạm pháp luật hình sự và
biết được tác hại của ma túy đối với sức khỏe con người và đời sống xã hội, nhưng
bị cáo vẫn cố ý thực hiện, nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu sử dụng ma túy bất
hợp pháp của bản thân và thu lời bất chính.
Hành vi mua bán trái phép chất ma túy mà bị cáo P thực hiện đã xâm phạm
trực tiếp đến chính sách phòng, chống và kiểm soát ma túy của Nhà nước; tiếp
tay cho tệ nạn ma túy gia tăng, lan tràn tình trạng nghiện chất ma túy; ảnh hưởng
đến sức khỏe con người; là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác và xâm
hại trật tự an toàn xã hội.
[3] Trong hai ngày 23 và 26/12/2023 Lò Văn P đã 02 lần bán Heroine cho
Vũ Tiến N, nên Lò Văn P phải chịu tình tiết tăng nặng định khung là phạm tội 02
lần trở lên.
[4] Từ những căn cứ trên đã có đủ cơ sở khẳng định hành vi của bị cáo Lò
Văn P thực hiện đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy" tội phạm và
hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự.
[5] Nhân thân: Bị cáo P là người nghiện ma túy, nên xác định bị cáo là
người có nhân thân xấu.
[6] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi bị bắt P đã chủ động
khai ra hành vi bán ma túy cho N vào ngày 23/12/2024; trong quá trình điều tra
và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự quy định tại điểm r và điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình
sự.
[7] Căn cứ vào quy định của Bộ luật Hình sự, tính chất mức độ nguy hiểm
của hành vi phạm tội của bị cáo P gây ra cho xã hội là rất lớn; nhân thân và tình
tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo như đã phân tích ở trên, cần áp dụng
hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất
định để cải tạo, giáo dục riêng bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.
[8] Hình phạt bổ sung: Bị cáo P phạm tội với mục đích lợi nhuận; trên thực
tế bị cáo đã thu được lợi nhuận và khi bắt quả tang cũng như khám xét nơi ở của
5
bị cáo đã thu giữ tổng số tiền 10.900.000 đồng của bị cáo và gia đình bị cáo. Nên
cần áp dụng phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[9] Vật chứng:
- Đối với: 2,46 (hai phảy bốn mươi sáu) gam Heroine còn lại sau khi lấy
mẫu giám định. Đây là vật cấm tàng trữ, lưu hành, nên tiêu hủy theo quy định tại
điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố
tụng hình sự.
- Ngày 23/12/2023 Lò Văn P bán cho Vũ Tiến N 05 gói Heroine, thu được
500.000 đồng, P đã tiêu sài cá nhân hết, nên cần căn cứ điểm b khoản 1 Điều 47
của Bộ luật Hình sự; điểm b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự để
truy thu, nộp ngân sách Nhà nước.
- Số tiền 700.000 đồng thu giữ của Lò Văn P khi bắt quả tang là tiền do P
lao động mà có, không liên quan đến tội phạm, nên trả lại bị cáo P theo quy định
tại điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Số tiền 200.000 đồng thu giữ của Vũ Tiến N khi bắt quả tang, không liên
quan đến tội phạm, nên trả lại N theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 106 của
Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Số tiền 10.200.000 đồng thu giữ khi khám xét nơi ở của Lò Văn P là tiền
do vợ chồng P lao động mà có, không liên quan đến tội phạm, nên cần căn cứ quy
định tại điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự để trả lại gia đình
bị cáo, cụ thể trả cho vợ bị cáo là Lò Thị S.
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, loại phím bấm, thu giữ
của Lò Văn P; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh, loại phím bấm
thu giữ của Vũ Tiến N. Đây là phương tiện P và N sử dụng, liên lạc với nhau để
mua bán ma túy, nên cần căn cứ điểm b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự;
điểm b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự để tịch thu, nộp ngân sách
Nhà nước.
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo, màu xanh đen, loại màn hình cảm
ứng thu giữ của Lò Văn P, xét không liên quan đến tội phạm, nên cần căn cứ quy
định tại điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự để trả lại bị cáo.
- 06 (sáu) vỏ phong bì đã mở niêm phong, một vỏ túi nilon và toàn bộ giấy
gói. Vỏ phong bì Cơ quan Công an đã dùng để niêm phong vật chứng, không có
giá trị sử dụng, nên tiêu hu theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật
Tố tụng hình sự; một vỏ túi nilon và toàn bộ giấy gói bị cáo sử dụng để làm công
cụ phạm tội, nên tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình
sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
[10] Án phí và các vấn đề khác:
Bị cáo P phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Đối với Vũ Tiến N là người nghiện chất ma tuý đã 02 lần mua Heroine của
bị cáo P để sử dụng; số Heroine mua của P ngày 23/12/2023, N đã sử dụng hết,
6
không xác định được khối lượng. Ngày 26/12/2023, N đang chuẩn bị mua
200.000 đồng Heroine của P thì bị bắt quả tang nên cũng không xác định được
khối lượng. Vì vậy, Công an thị xã Nghĩa Lộ đã ra Quyết định xử phạt vi phạm
hành chính đối với Vũ Tiến N về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” là
đúng quy định của pháp luật, nên chấp nhận.
Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho bị cáo P tại khu vực thôn N, xã
N, thị xã Nghĩa Lộ. Do bị cáo không biết tên, tuổi, địa chỉ của người này nên Cơ
quan điều tra Công an thị xã Nghĩa Lộ không đủ căn cứ xác minh, làm rõ để xử
lý.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
1. Tội danh: Tuyên bố bị cáo Lò Văn P phạm tội “Mua bán trái phép chất
ma túy”.
2. Điều luật áp dụng và hình phạt:
Áp dụng điểm b khoản 2, khoản 5 Điều 251; điểm r, điểm s khoản 1 Điều
51 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lò Văn P 08 (tám) năm tù. Thời hạn chấp
hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ bị cáo, là ngày 26/12/2023.
Phạt bị cáo Lò Văn P 5.000.000 (năm triệu) đồng.
3. Vật chứng và tài sản bị tạm giữ: Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật
Hình sự; khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Tịch thu tiêu hủy: 2,46 (hai phảy bốn mươi sáu) gam ma túy, loại Heroine
còn lại sau khi lấy mẫu giám định để trong 02 phong bì thư do phòng kỹ thuật
hình sự Công an tỉnh Yên Bái phát hành, đã được niêm phong; 06 (sáu) vỏ phong
bì đã mở niêm phong, một vỏ túi nilon và toàn bộ giấy gói;
- Truy thu nộp ngân sách Nhà nước của Lò Văn P 500.000 (năm trăm nghìn)
đồng;
- Tịch thu nộp nhân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia
màu đen, loại phím bấm; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu xanh, loại
phím bấm;
- Trả lại Lò Văn P 700.000 (bảy trăm nghìn đồng); 01 điện thoại di động
nhãn hiệu Vivo, màu xanh đen, loại màn hình cảm;
- Trả lại Vũ Tiến N 200.000 (hai trăm nghìn đồng);
- Trả lại chị Lò Thị S 10.200.000 (mười triệu hai trăm nghìn) đồng
(đặc điểm của vật chứng và tài sản như mô tả tại biên bản giao nhận vật
chứng ngày 18-3-2024 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Nghĩa Lộ
và Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Nghĩa Lộ)
4. Án phí: p dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a
khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016
7
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo P phải chịu
200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
5. Quyền kháng cáo: p dụng Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng
hình sự. Bị cáo Lò Văn P có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể
từ ngày tuyên án; người có quyền lợi liên quan (S) có quyền kháng cáo phần Bản
án có liên quan đến quyền lợi của mình trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên
án; người có quyền lợi liên quan (N) có quyền kháng cáo phần Bản án có liên
quan đến quyền lợi của mình trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống
đạt hợp lê.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật
Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án
dân sự có quyền thoả thuận việc thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a, 7b
và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định
tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Yên Bái;
- VKSND tỉnh Yên Bái;
- VKSND thị xã Nghĩa Lộ;
- Công an thị xã Nghĩa Lộ;
- Bị cáo;
- Chi cục Thuế Nghĩa Văn- Trạm Tấu;
- Sở tư pháp tỉnh Yên Bái;
- Chi cục Hải quan tỉnh Yên Bái;
- UBND xã H (TB);
- Lưu hs, TA, THA.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa
Vũ Xuân
THNH VIÊN HỘI ĐỒNG XT XỬ
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TOÀ
8
9
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 02/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 01/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 01/12/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 28/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 28/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 27/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 26/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 25/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 24/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 24/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 24/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 21/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 21/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 19/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 19/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 17/11/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm