Bản án số 09/2024/HNGĐ-ST ngày 14/05/2024 của TAND huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 09/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 09/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 09/2024/HNGĐ-ST
Tên Bản án: | Bản án số 09/2024/HNGĐ-ST ngày 14/05/2024 của TAND huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Chợ Đồn (TAND tỉnh Bắc Kạn) |
Số hiệu: | 09/2024/HNGĐ-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 14/05/2024 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Vụ án tranh chấp ly hôn, nuôi con chung giữa Tái Thị H và Triệu Văn H1 |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN CHỢ ĐỒN
TỈNH BẮC KẠN
Bản án số: 09 /2024/HNGĐ-ST
Ngày: 14/5/2024
V/v tranh chấp ly hôn, nuôi con
chung
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ ĐỒN, TỈNH BẮC KẠN
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Duy Cạn.
Các Hội thẩm nhân dân: 1. Ông Nông Văn Điền.
2. Ông Nguyễn Xuân Nam.
- Thư ký phiên tòa: Bà Hà Thị Du - Thư ký Viên Tòa án nhân dân huyện Chợ
Đồn, tỉnh Bắc Kạn.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân
huyện Chợ Đồn tham gia phiên toà: Ông
Hoàng Văn Tập - Kiểm sát viên.
Ngày 14 tháng 5 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Đồn, tỉnh
Bắc Kạn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số:
72/2023/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 10 năm 2023 về tranh chấp “Ly hôn, nuôi con
chung ”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 03
tháng 4 năm 2024, Quyết định hoãn phiên toà số: 05/2024/QĐST- HNGĐ, ngày
25/4/2024; giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Tái Thị H, sinh năm 1990.(Có mặt)
Trú tại: Thôn B, xã N, huyện C, tỉnh Bắc Kạn.
2. Bị đơn: Anh Triệu Văn H1, sinh năm 1991.(Có đơn đề nghị giải quyết vắng
mặt)
Trú tại: Thôn B, xã N, huyện C, tỉnh Bắc Kạn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
1. Nguyên đơn chị Tái Thị H trong đơn khởi kiện, trong quá trình tố tụng và
tại phiên tòa trình bày như sau:
2
Về quan hệ hôn nhân:
Chị H và anh H1 được tìm hiểu tình cảm với nhau vào năm 2010 và đã được hai
bên gia đình đồng ý tổ chức đám cưới theo phong tục địa phương, có đăng ký kết hôn
tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện C, tỉnh Tuyên Quang vào ngày 27/5/2011. Việc đăng
ký kết hôn là do hai bên hoàn toàn tự nguyện, không bị ai ép buộc. Sau khi kết hôn,
vợ chồng chung sống với nhau tại nhà bố, mẹ đẻ anh H1 tại thôn B, xã N, huyện C,
tỉnh Bắc Kạn được hơn một năm, năm 2012 vợ chồng ra ở riêng tại thôn Bản Bẳng, xã
N, huyện C, tỉnh Bắc Kạn. Quá trình vợ chồng chung sống thời gian đầu hoà thuận
hạnh phúc, sau khi ra ở riêng được một thời gian thì anh H1 đã chơi bời với bạn bè
xấu, bỏ bê vợ con, không quan tâm chăm lo cho gia đình, lúc đầu là rượu chè, cờ bạc
lâu dần lún sâu nghiện ngập ma tuý, bản thân kiếm được ra tiền nhưng tự trang trải
hoang phí không cho được vợ con đồng nào, mặc dù gia đình vợ, con, bố, mẹ thường
xuyên khuyên bảo nhưng không có thay đổi, chứng nào tật ấy, năm 2014 anh H1 dùng
điện thoại gọi hỏi mua ma tuý với người khác được chị H khuyên bảo vài câu thì anh
H1 quay ra cầm con dao kề vào cổ doạ nạt, mặc dù trước đó chị H đã nhẫn nhịn nhiều
năm và từ đó chị H không dám nói cho ai biết kể cả bố mẹ chồng và người thân. Đến
tháng 12/2016 anh H1 bị bắt về hành vi liên quan đến ma tuý và bị lĩnh án 4 năm tù
đến tháng 12/2020 thì anh H1 được mãn hạn tù về với gia đình vợ con và địa phương,
nhưng được vài tháng sau do không làm chủ được bản thân nghe theo lời bạn bè lôi
kéo lại tiếp tục sa ngã vào con đường nghiện ngập ngày càng lún sâu hơn, lừa lọc vợ
con, lừa dối người thân vay tiền để tiêu sài cá nhân và thường xuyên đi thâu đêm đến
sáng để trộm cắp, đã rất nhiều lần chị H bắt quả tang anh H1 sử dụng ma tuý và xi
lanh vứt xung quanh nhà nhưng anh H1 vẫn khăng khăng chối cãi và không thừa nhận
mà còn dùng tay dí vào gáy để dọa nạt chị H ngay cả khi chị H đang mang bầu đứa
thứ hai được khoảng 8 tháng. Ngày 22/12/2022 anh H1 lại bị bắt về hành vi liên quan
đến ma tuý và hiện nay anh H1 đang chấp hành án 6 năm tù tại trại giam T, tỉnh
Thanh Hóa. Nay chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân
không đạt được đề nghị Tòa án nhân dân huyện Chợ Đồn giải quyết cho chị H được
ly hôn anh H1.
Về con chung: Vợ chồng chị H và anh H1 có hai con chung là Triệu Thị Mỹ L,
sinh ngày 08/9/2011 và Triệu Hoài A, sinh ngày 15/10/2022. Hiện nay Triệu Thị Mỹ
L đang học lớp 7 và ở với ông bà nội tại thôn Bản Bẳng, xã N, huyện C, tỉnh Bắc Kạn
sức khoẻ tốt ăn ở học tập phát triển bình thường, Triệu Hoài A còn nhỏ đang ở với chị
H ăn ở khoẻ mạnh phát tiển bình thường. Khi ly hôn chị H có nguyện vọng trực tiếp
nuôi cả 02 con và không yêu cầu anh H1 cấp dưỡng tiền nuôi con hàng tháng.
Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
3
2. Trong quá trình tố tụng bị đơn anh Triệu Văn H1 trình bày:
Về thủ tục tố tụng: Anh H1 đã nhận được thông báo thụ lý vụ án và được biết chị
H khởi kiện về ly hôn, nuôi con chung.
Về quan hệ hôn nhân: Anh H1 trình bày, vào năm 2010 anh H1 có quen chị H,
sau ba tháng tìm hiểu anh H1 và chị H quyết định đi đến hôn nhân với nhau là hoàn
toàn tự nguyện không bị ai ép buộc, đến Ủy ban nhân dân xã L, huyện C, tỉnh Tuyên
Quang làm thủ tục đăng ký kết hôn vào ngày 27/5/2011. Được hai bên gia đình tổ
chức lễ cưới hỏi theo phong tục địa phương từ năm 2010. Sau khi kết hôn vợ chồng
chung sống tại nhà bố mẹ đẻ anh H1 đến năm 2012 vợ chồng ra ở riêng. Quá trình vợ
chồng chung sống thời gian đầu hạnh phúc sau đó phát sinh mâu thuẫn. Hiện nay anh
H1 đang chấp hành án về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý tại trại giam T, tỉnh
Thanh Hóa. Trước lần chấp hành án này anh H1 đã đi chấp hành án 04 năm tù về tội
Tàng trữ trái phép chất ma tuý sau khi mãn hạn tù được hai năm anh H1 tiếp tục phải
đi chấp hành án, lần chấp hành án này chị H chưa vào thăm và cũng không gọi điện
hỏi thăm anh H1 lần nào. Chị H làm đơn ly hôn anh H1, anh H1 không đồng ý vì anh
H1 vẫn còn tình cảm với chị H.
Về con chung: Vợ chồng chị H và anh H1 có hai con chung là Triệu Thị Mỹ L,
sinh ngày 08/9/2011 và Triệu Hoài A, sinh ngày 15/10/2022. Hiện nay hai con ở với
chị H nguyện vọng của anh H1 nếu buộc phải ly hôn thì anh H1 nhường quyền nuôi
hai con cho chị H và không cấp dưỡng nuôi con hàng tháng.
Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Trong quá trình giải quyết vụ án ngày 13/12/2023 anh Triệu Văn H1 có đơn đề
nghị giải quyết vắng mặt. Ngày 01/3/2024 Tòa án đã tiến hành xác minh với trưởng
thôn B và xác minh với bà Triệu Thị D - mẹ đẻ anh H1 về tình trạng hôn nhân, về con
chung.
Sau thụ lý vụ án do bị đơn anh Triệu Văn H1 đang chấp hành án tại trại tạm T,
tỉnh Thanh Hóa. Nên ngày 18/01/2024 Toà án đã tiến hành lập biên bản về không tiến
hành hoà giải được và lập biên bản về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận , công khai
chứng cứ. Đồng thời, Tòa án tiến hành việc giao nhận các văn bản tố tụng cần thiết
theo quy định và đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung.
Tại phiên tòa chị Tái Thị H giữ nguyên yêu cầu khởi kiện và đề nghị Hội đồng
xét xử giải quyết về ly hôn, nuôi con chung, không yêu cầu về cấp dưỡng nuôi con
chung. Ngoài ra chị H không có yêu cầu nào khác.
Anh Triệu Văn H1 quá trình tố tụng không có yêu cầu phản tố nào khác.
4
Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn
tại phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng và ý kiến về việc giải
quyết vụ án:
Ý kiến việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán – Hội đồng xét xử, Thư
ký Tòa án trong quá trình tố tụng và thu thập chứng cứ đã thực hiện đúng Bộ luật tố
tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của các đương sự trong quá trình giải quyết vụ
án, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến khi xét xử và đến trước khi nghị án. Đối với nguyên
đơn, bị đơn tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật tố tụng.
Ý kiến giải quyết vụ án: Căn cứ Điều 28, 35, 39, 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự;
Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình: Chấp nhận yêu cầu xin ly của
nguyên đơn.
Về quan hệ hôn nhân: Chị Tái Thị H được ly hôn với anh Triệu Văn H1.
Về con chung: Giao hai con chung là Triệu Thị Mỹ L, sinh ngày 08/9/2011 và
Triệu Hoài A, sinh ngày 15/10/2022 cho chị Tái Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc,
nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi đủ 18 tuổi. Sau khi ly hôn anh H1 có quyền, nghĩa
vụ thăm nom con mà không được ai cản trở. Về cấp dưỡng nuôi con chung đương sự
không yêu cầu nên không đề nghị xem xét giải quyết.
Về tài sản chung: Đương sự không yêu cầu, nên không xem xét, giải quyết.
Về nợ chung: Không có, nên không xem xét giải quyết.
Về án phí: Áp dụng Điều 147 BLTTDS, Nghị quyết số: 326/ 2016/ UBTVQH14
ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm,
thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí. Nguyên đơn phải chịu án phí theo quy định của
pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại
phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về áp dụng pháp luật tố tụng: Được xác định là vụ án ly hôn, nuôi con
chung. Nơi cư trú bị đơn tại huyện C, tỉnh Bắc Kạn. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28,
khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn.
Quá trình giải quyền vụ án, anh H1 không có mặt theo giấy triệu tập, thông báo
của Tòa án được là do anh H1 đang chấp hành án phạt tù tại trại tạm giam T, tỉnh
Thanh Hóa. Nên Tòa án không tiến hành hòa giải vụ án được theo khoản 1 Điều 207
Bộ luật tố tụng dân sự. Tuy nhiên, Tòa án đã tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc
giao nộp, tiếp cận, công khai, chứng cứ theo khoản 2 Điều 208 Bộ luật tố tụng dân sự.
5
Anh Triệu Văn H1 có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt. Nên Tòa án nhân dân
huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn thấy không nhất thiết gửi văn bản tố tụng cho gia đình
hoặc người thân, không niêm yết quyết định đưa vụ án ra xét xử theo Điều
179/BLTTDS. Toà án tiến hành xét xử vắng mặt anh H1 theo Điều 227, Điều 228 Bộ
luật tố tụng dân sự.
[2]. Về áp dụng pháp luật nội dung: Áp dụng Luật hôn nhân và gia đình năm
2014 để giải quyết.
Về quan hệ hôn nhân: Chị H và anh H1 có tìm hiểu tình cảm rồi quyết định đi
đến hôn nhân, có tổ chức lễ cưới hỏi theo phong tục tại địa phương, có đăng ký kết
hôn. Việc kết hôn là hoàn toàn tự nguyện, không bị ai ép buộc. Do vậy, quan hệ hôn
nhân giữa chị H và anh H1 là hợp pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống với
nhau tại nhà bố, mẹ đẻ anh H1 được hơn một năm, đến năm 2012 vợ chồng ra ở riêng.
Quá trình vợ chồng chung sống thời gian đầu hoà thuận hạnh phúc, sau khi ra ở riêng
được một thời gian thì anh H1 không quan tâm chăm lo cho gia đình, chơi bời với bạn
bè, rượu chè, cờ bạc, nghiện ngập ma tuý, không cho được vợ con đồng nào, vợ, con,
bố, mẹ khuyên bảo nhưng không thay đổi, năm 2014 anh H1 điện thoại gọi hỏi mua
ma tuý với người khác, chị H khuyên bảo vài câu anh H1 đã cầm con dao doạ chị H,
từ đó chị H không dám nói cho ai biết kể cả bố mẹ chồng và người thân mặc dù chị H
đã nhẫn nhịn nhiều năm trước đó. Đến tháng 12/2016 anh H1 bị lĩnh án 4 năm tù về
hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý, đến tháng 12/2020 thì anh H1 được mãn hạn tù
về với gia đình vợ con và địa phương, nhưng được vài tháng sau lại không làm chủ
được bản thân nghe theo lời bạn bè lôi kéo tiếp tục sa ngã vào con đường nghiện ngập
ma tuý, lừa lọc vợ con, lừa dối người thân vay tiền để tiêu sài cá nhân, đi thâu đêm
đến sáng để trộm cắp, nhiều lần chị H bắt quả tang anh H1 sử dụng ma tuý, vứt xi
lanh xung quanh nhà nhưng anh H1 vẫn chối cãi không thừa nhận thậm chí trong thời
gian chị H đang mang thai được khoảng 8 tháng dùng tay dí vào gáy dọa nạt chị H.
Ngày 22/12/2022 anh H1 lại bị lĩnh án 6 năm tù về hành vi liên quan đến ma tuý và
hiện nay đang chấp hành án tại trại giam T, tỉnh Thanh Hóa. Nay chị H xác định
không còn tình cảm với anh H1 mục đích hôn nhân của vợ chồng không đạt được đề
nghị Tòa án nhân dân huyện Chợ Đồn giải quyết cho chị H được ly hôn anh H1.
Ngoài ra, Tòa án đã tiến hành xác minh tại địa phương và gia đình bố mẹ anh H1 về
tình trạng hôn nhân giữa chị H và anh H1.
Xác định nguyên nhân mâu thuẫn giữa chị H và anh H1 như trên là đã ảnh hưởng
đến tình trạng hôn nhân giữa chị H và anh H1, đời sống chung không thể kéo dài, mục
đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ vào Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình để
xem xét đối với yêu cầu xin ly hôn, nuôi con chung của chị H. Nội dung của Điều 56
của Luật hôn nhân và gia đình quy định:
6
“1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì
Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia
đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân
lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn
nhân không đạt được.…”.
Nên chấp nhận yêu cầu của chị H xin được ly hôn anh H1 là phù hợp với quy
định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.
Về con chung: Vợ chồng chị H và anh H1 có con chung là Triệu Thị Mỹ L,
sinh ngày 08/9/2011 và Triệu Hoài A, sinh ngày 15/10/2022. Hiện nay Triệu Thị Mỹ
L đang học lớp 7 và ở với ông bà nội tại thôn Bản Bẳng, xã N, huyện C, tỉnh Bắc Kạn
khoẻ mạnh ăn ở học tập phát triển bình thường, Triệu Hoài A còn nhỏ đang ở với chị
H ăn ở khoẻ mạnh phát tiển bình thường. Khi ly hôn chị H có nguyện vọng trực tiếp
nuôi cả 02 con và không yêu cầu anh H1 cấp dưỡng tiền nuôi con hàng tháng. Đối với
con chung Triệu Thị Mỹ L, sinh ngày 08/9/2011 trình bày nguyện vọng hiện nay đang
học lớp 7 và ở với ông bà nội khoẻ mạnh học tập bình thường nếu bố, mẹ buộc phải ly
hôn nhau thì có nguyện vọng được ở với bố và ông bà nội. Anh H1 đang chấp hành án
phạt 06 (Sáu) năm tù tại trại giam T, tỉnh Thanh Hóa có ý kiến nếu Toà án giải quyết
buộc phải ly hôn chị H thì anh H1 nhường quyền nuôi hai con cho chị H và không cấp
dưỡng nuôi con hàng tháng. Hội đồng xét xử căn cứ vào điều kiện nuôi con của chị H,
anh H1, ý kiến của con chung Triệu Thị Mỹ L, sinh ngày 08/9/2011 nêu trên. Tuy
nhiên, thấy cần thiết việc giao con chung Triệu Thị Mỹ L, sinh ngày 08/9/2011 và
Triệu Hoài An sinh ngày 15/10/2022 cho chị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi
dưỡng, giáo dục là phù hợp.
Về tài sản chung: Đương sự không yêu cầu, nên không xem xét giải quyết.
Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về án phí: Chị Tái Thị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39,
Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Các Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật hôn
nhân và gia đình năm 2014.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Tái Thị H xin ly hôn anh Triệu Văn H1.
- Về quan hệ hôn nhân: Chị Tái Thị H được ly hôn anh Triệu Văn H1 .
- Về con chung: Giao hai con chung là Triệu Thị Mỹ L, sinh ngày 08/9/2011 và
Triệu Hoài A, sinh ngày 15/10/2022 cho chị Tái Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc,
7
nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi các con chung đủ 18 tuổi. Về cấp dưỡng nuôi con
chung hàng tháng chị H không yêu cầu, nên không xem xét giải quyết.
Sau khi ly hôn anh H1 có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không được ai cản
trở. Sau khi ly hôn khi thật cần thiết các bên có quyền đề nghị thay đổi người trực tiếp
nuôi con hoặc đề nghị việc cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.
- Về tài sản chung: Đương sự không yêu cầu, nên không xem xét giải quyết.
- Về nợ chung: Không có, không xem xét giải quyết.
2. Về án phí: Áp dụng Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật phí, lệ phí Toà án
; Điều 26 và khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQHQH16 ngày
30/12/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về án phí, lệ phí
Tòa án.
Chị Tái Thị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm là 300.000đ (ba trăm nghìn
đồng) nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị Tái Thị H đã nộp theo biên lai số
0001477 ngày 03 tháng 10 năm 2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Đồn,
tỉnh Bắc Kạn.
Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15
ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn
15 ngày kể từ nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ./.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Bắc Kạn;
- VKSND huyện Chợ Đồn;
- THADS huyện Chợ Đồn;
- UBND xã L, huyện C,
Tỉnh Tuyên Quang;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ vụ án.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TOÀ
Nguyễn Duy Cạn
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 21/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 20/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 18/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 16/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 15/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 15/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 13/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 12/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 11/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Bản án số 23/2025/HNGĐ-PT ngày 08/08/2025 của TAND TP. Cần Thơ về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 08/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 07/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 06/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 05/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 05/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 04/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 01/08/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm