Bản án số 08/2025/DS-ST ngày 20/03/2025 của TAND huyện Ea H'Leo, tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng đặt cọc

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 08/2025/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 08/2025/DS-ST ngày 20/03/2025 của TAND huyện Ea H'Leo, tỉnh Đắk Lắk về tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp hợp đồng đặt cọc
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Ea H'Leo (TAND tỉnh Đắk Lắk)
Số hiệu: 08/2025/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 20/03/2025
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Ông Đặng Quốc G
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

1
TOÀ ÁN NHÂN DÂN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN EA H’LEO Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
TỈNH ĐĂK LĂK
Bản án số: 08/2025/DS-ST
Ngày: 20 - 3 - 2025
V/v tranh chấp đòi lại tiền cọc về
chuyển nhượng quyền sử dụng đất
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EAH’LEO, TỈNH ĐẮK LẮK
- Thành phần hội đồng xét xử sơ thẩmgồm có:
Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Ông Nguyễn Năng Quân
Các Hội thẩm nhân dân:
1. Ông Trần Tiến Dũng
2. Ông Lương Tú Huân
- Thư ký phiên toà: Ông Hoàng Công Đức-Thư Toà án nhân dân huyện
EaH’Leo, tỉnh Đắk Lắk.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea H’Leotham gia phiên tòa:
Ông Phan Đình Toàn - Chức vụ: Kiểm sát viên.
Ngày 20 tháng 3 năm 2025, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Ea H’Leo, tỉnh
ĐắkLắk xét xử thẩm công khai vụ án thụ số: 322/2024/TLST-DS, ngày 26
tháng 11 năm 2024 về việc “Tranh chấp đòi lại tiền cọc về chuyển nhượng quyền
sử dụng đất”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2025/QĐXX-ST, ngày 05
tháng 02 năm 2025, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Đặng Quốc G, sinh năm 1986; trú tại: Thôn 1, C,
huyện E, tỉnh Đắk Lắk. Có mặt
2. Bị đơn: Ông Lê Công H, sinh năm 1939; trú tại: Thôn 1, xã Ea K, huyện E,
tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Ông La Văn T - Luật sự
- Thuộc Văn phòng luật La M; địa chỉ: Số 152 Duẩn, phường Tân Th, thành
phố B, tỉnh Đắk Lắk. Có mặt
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
2
3.1. Ông Hà Lê T; trú tại: Thôn 2, xã C, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt
3.2. Nguyễn Thị B; trú tại: Thôn 1, Ea K, huyện E, tỉnh Đắk Lắk.
mặt
4. Người làm chng:
4.1. Ông Hùng V; trú ti: Thôn 1, Ea K, huyn E, tỉnh Đắk Lk.
mt
4.2. Ông Lê Công Tr; trú ti: Thôn 1, xã Ea K, huyn E, tỉnh Đắk Lk. Vng
mt
4.3. Ông Lê Văn L; trú ti: Thôn 1, xã C, huyn E, tỉnh Đắk Lk. Vng mt
NỘI DUNG VỤ ÁN:
- Tại đơn khởi kiện ngày 04 tháng 11 năm 2024, quá trình tham gia tố tụng
tại phiên tòa nguyên đơn ông Đặng Quốc G trình bày:
Ngày 13/01/2021 ông Đặng Quốc G và ông Lê Công H có thỏa thuận về việc
chuyển nhượng quyền sử dụng đất, cụ thể ông H sẽ chuyển nhượng cho ông G
đất có diện tích khoảng 2,5 ha (trong đó, diện tích đã được cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất là 15274 m
2
tại thửa đất số 82, tbản đồ số 10, phần diện tích
còn lại khoảng 01 ha chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giá
chuyển nhượng 18.000.000 đồng/01sào (tương ứng 450.000.000 đồng) địa chỉ
đất tại thôn 1, Mốt, huyện Ea H’Leo, tỉnh Đắk Lắk, ông G đã đặt cọc cho
ông H số tiền 50.000.000 đồng để bảo đảm giao kết hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất trên. Hai bên thỏa thuận khi nào ông H giao Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho ông G, thì ông G giao số tiền còn lại.
Sau đó, ông G giao thêm cho ông H số tiền 270.000.000 đồng. Tổng cộng,
ông H đã nhận của ông G số tiền là 320.000.000 đồng, được thể hiện tại “Giấy mua
bán đất” ngày 25/01/2022, việc giao nhận tiền có ông Lê Văn L, ông Lê Hùng V
ông Công Tr (con ông H làm chứng). Trong quá trình thực hiện cam kết ông H
đã làm thủ sang tên cho ông G thửa đất số 82, tờ bản đồ 10, diện tích 15274 m
2
với
giá chuyển nhượng 273.000.000 đồng. Số tiền 47.000.000 đồng còn lại, ông H
giữ lại để bảo đảm giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với
phần diện tích còn lại khoảng 01 ha chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho ông G. Tuy nhiên, ông H ông đi khai để được cấp Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất làm thủ tục chuyển nhượng như đã thỏa thuận cho ông Giáp
tự ý chuyển nhượng cho người khác, nhưng không thông báo cho ông G biết,
đồng thời không trả lại số tiền cọc 47.000.000 đồng cho ông G, ông G đã đến
nhà ông H đòi nhiều lần.
Tại đơn khởi kiện ông G yêu cầu ông H trả lại tiền cọc 47.000.000 đồng
tiền lãi suất. Tuy nhiên, trong quá trình tham gia tố tụng tại phiên tòa ông G chỉ
3
yêu cầu ông H trả lại tiền cọc 47.000.000 đồng, không yêu cầu tiền lãi suất.
Ngoài ra, không yêu cầu gì thêm.
Việc nhận tiền chỉ một mình ông Công H thực hiện, không liên quan đến
vợ và các con ông H.
Để chứng minh yêu cầu của mình căn cứ, nguyên đơn giao nộp một
“Giấy mua bán đất”, đề ngày 13/01/2021 và ngày 25/01/2022.
- Bđơn ông Công H trình bày: Năm 2021 ông H có nhận tiền cọc của
ông G số tiền 50.000.000 đồng, để bán cho ông G một đất diện tích khoảng
2,5 ha. Trong đó, có một lô đất Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có diện tích
15274m
2
, thửa đất số 82, tbản đồ số 10 một lô đất diện tích khoảng 01 ha
chưa Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đến năm 2023 thì ông H thực hiện
đúng cam kết làm thủ tục chuyển nhượng đất Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất diện ch 15274m
2
cho ông G, hiện nay đất này đã mang tên ông G,
diện ch đất này ông H bán cho ông G số tiền 273.000.000 đồng. Ông H đã nhận
của ông G tổng cộng 320.000.000 đồng (trong đó, số tiền 273.000.000 đồng tiền
bán đất đã Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, còn số tiền 47.000.000 đồng
là tiền ông G cọc đ mua lô đất khoảng 01 ha chưa được Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, tại thôn 1, xã Mốt, huyện Ea H’Leo. Tuy nhiên, trong quá trình thực
hiện hợp đồng ông H và gia đình đã gọi điện và liên lạc với ông G nhiều lần để làm
thủ tục sang tên cho ông G, nhưng ông G không ra làm thủ tục sang tên và ông G
nói không mua nữa, nên ông H quyền bán lại cho người khác. Do đó, ông H
không đồng ý trả lại tiền cọc trên cho ông G ông G vi phạm hợp đồng, do hiện
nay đã lớn tuổi đi lại khó khăn nên ông H đề nghị Tòa án không triệu tập làm việc
xin vắng mặt tại Tòa án, việc ông H nhận số tiền trên không liên quan tới vợ ông
H là bà Nguyễn Thị B.
- Qtrình giải quyết vụ án tại phiên tòa người quyền lợi, nghĩa v
liên quan Nguyễn Thị B trình bày: Việc chồng tôi ông Công H nhận tiền
cọc đchuyển nhượng đất cho ông Đặng Quốc G thì tôi không biết không liên
quan gì. Ngoài ra, tôi không trình bày gì thêm.
- Người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông T trình bày: Vào năm
2024 gia đình tôi nhận chuyển nhượng của ông Công H 01 thửa đất có diện
tích khoảng 01 ha, tại thôn 1, xã Mốt, huyện Ea H’Leo việc chuyển nhượng đất
chỉ viết giấy tay với nhau vì thửa đất này chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, khi chuyển nhượng thửa đất trên gia đình ông H nói để trả lại tiền cọc cho
ông G. Ngoài ra, tôi không biết gì thêm.
- Người làm chứng ông Văn L trình bày:Ngày 13/01/2021 tôi làm chứng
ông Đặng Quốc G giao ông Công H số tiền 50.000.000 đồng. Ngoài ra, tôi
không biết gì thêm đề nghị không triệu tập tôi và tôi xin vắng mặt tại Tòa án.
4
- Tại phiên tòa người làm chứng ông Hùng V trình bày: Ông Công H
nhận của ông Đặng Quốc G số tiền 320.000.000 đồng, để chuyển nhượng cho
ông G đất diện tích khoảng 2,5 ha ông H đã chuyển nhượng cho ông G thửa
đất đã Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có diện tích 15274m
2
, phần diện tích
chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tgia đình ông H đã gọi điện
cho ông G nhiều lần để làm thủ tục sang tên nhưng ông G không ra, đồng thời ông
G nói không mua nữa, nên ông H quyền chuyển nhượng cho người khác. Nên
ông H không đồng ý trả lại tiền cọc cho ông G.
- Người bảo vquyền lợi ích hợp pháp của bị đơn Luật ông La Văn T
trình bày: Ông ng H nhận của ông Đặng Quốc G số tiền 320.000.000
đồng để bảo đảm cho việc chuyển nhượng đất diện tích khoảng 2,5 ha đất
nông nghiệp của hộ gia đình, giá chuyển nhượng 18.000.000 đồng/01sào (trong đó,
diện tích 15274m
2
đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất phần
diện tích khoảng 01 ha chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất), ông H
đã chuyển nhượng sang tên cho ông G phần diện tích 15274m
2
, phần diện tích
còn lại khoảng 01ha chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nên ông H
không làm thủ tục chuyển nhượng cho ông G được theo quy định của Luật đất đai.
Nguyên nhân không phải do lỗi một mình ông H mà ông G cũng có lỗi vì thời điểm
ông G giao tiền cho ông H để bảo đảm cho việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất
trên thì ông G biết trong phần diện tích đất khoảng 2,5ha, một phần diện tích
khoảng 01ha chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tkhông làm
hợp đồng chuyển nhượng được. Mặt khác, việc chuyển nhượng quyền sdụng đất
trên phải được sự đồng ý của hộ gia đình ông H. vậy, ông H chỉ đồng ý trả một
nữa tiền cọc cho ông G.
Phát biểu của Kiểm sát viên về việc giải quyết vụ án.
- Về tố tụng: Hội đồng xét xử, Thư phiên tòa những người tham gia tố
tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
- Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ vụ án, lời
khai của đương sự và kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Đề nghị Hội đồng xét xử:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đặng Quốc G. Buộc ông Công H
phải trả cho ông Đặng Quốc G stiền đặt cọc 47.000.000 đồng (Bốn mươi bảy
triệu đồng).
Về án phí: Ông Công H người cao tuổi, nên được miễn nộp tiền án p
dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, lời
khai của đương sự, người làm chứng ý kiến của Kiểm sát viên. Hội đồng xét x
nhận định như sau:
5
1. Về tố tụng:
[1.1]. V quan h pháp lut: Ông Đặng Quc G khi kin yêu cầu ông
Công H trả lại số tiền cọc 47.000.000 đồng để bảo đảm giao kết hợp đồng chuyển
nhượng quyền sdụng đất. Do đó, Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật
“Tranh chấp đòi lại tiền cọc về chuyển nhượng quyền sử dụng đất là đúng quy
định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật Tố tụng dân sự và Điều 328 Bộ luật Dân sự.
[1.2]. V thm quyn gii quyết: Bị đơn ôngCông H, cư trú tại thôn 1, xã
Ea K, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. Do đó, Tòa án nhân dân huyện Ea H’Leo, tỉnh Đắk
Lắk thụ giải quyết ván đúng thẩm quyền theo điểm a khoản 1 Điều 35,
điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Ttụng dân sự.
[1.3]. Về sự vắng mặt những người tham gia tố tụng: Tại phiên tòa bị đơn
ông Công H, người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Hà Lê T người làm
chứng ông Lê Văn L và ông Lê Công Tr vắng mặt lần thứ hai. Do đó, Hội đồng xét
xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo khoản 2 Điều 227 khoản 2 Điều 229 Bộ luật
Tố tụng dân sự.
[2]. Vnội dung tranh chấp: Tại đơn khởi kiện ông Đặng Quốc G yêu cầu
ông Lê Công H trả lại số tiền cọc 47.000.000 đồng tiền lãi suất. Tuy nhiên, trong
quá trình tham gia tố tụng và tại phiên tòa ông G thay đổi yêu cầu khởi kiện chỉ yêu
cầu ông H trả lại số tiền cọc 47.000.000 đồng, không yêu cầu lãi suất. Tuy nhiên,
yêu cầu của nguyên đơn không được phía bị đơn đồng ý.
Xét thấy, việc thay đổi nội dung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn tự
nguyện không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện ban đầu, căn cứ vào khoản 1
Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự, nên được chấp nhận. Vì vậy, Hội đồng xét xử chỉ
xem xét gii quyết trong phm vi yêu cầu khi kin của nguyên đơn là phù hợp
với Điều 5 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3]. Xét yêu cầu đòi lại tiền cọc của ông Đặng Quốc G, Hội đồng xét xử xét
thấy: Ngày 13/01/2021 ông G đặt cọc cho ông H số tiền 50.000.000 đồng để bảo
đảm giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với diện tích khoảng
2,5 ha, tại thôn 1, xã Cư Mốt, huyện Ea H’Leo, tỉnh Đắk Lắk, giá chuyển nhượng là
18.000.000 đồng/01sào, số tiền còn lại sẽ đưa sau khi giao Giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, đến ngày 25/01/2022 ông H đã nhận của ông G tổng số tiền
320.000.000 đồng, được thhiện trong “Giấy mua bán đất”. Mặc dù, nội dung hai
bên đã thỏa thuận và xác lập trong “Giấy mua bán đất” không ghi rõ tờ bản đồ, diện
tích đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay chưa, tiền cọc bị đơn còn
giữ của nguyên đơn bao nhiêu?. Tòa án đã tiến nh lấy lời khai để yêu cầu
nguyên đơn và bđơn giải thích về giao dịch dân sự được xác lập trong “Giấy mua
bán đất” theo quy định tại Điều 121 Bộ luật Dân sự, thì các đương sự đều thừa
nhận diện tích chuyển nhượng khoảng 2,5 ha (trong đó,thửa đất số 82, tờ bản đ
số 10, diện tích 15274m
2
đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, phần
6
diện tích khoảng 01 ha chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất), trong
quá trình thực hiện hợp đồng ông H đã chuyển nhượng cho ông G thửa đất số 82, tờ
bản đồ số 10, diện tích 15274m
2
, giá chuyển nhượng là 273.000.000 đồng, số tiền
47.000.000 đồng còn lại tiền cọc để bảo đảm giao kết hợp đồng đối với diện tích
khoảng 01 ha. Do đó, đây là những tình tiết, sự kiện có thật không phải chứng minh
theo khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Như vậy, nội dung các bên thỏa thuận trong “Giấy mua bán đất” tự
nguyện, phù hợp với quy định của pháp luật về chủ thể, nội dung, mục đích của
giao dịch dân sự và không trái với đạo đức xã hội. Đối tượng bảo đảm giao kết hợp
đồng thật không vi phạm pháp luật, tại khoản 1 Điều 328 Bộ luật Dân sự quy
định: “Đặt cọc việc một bên (sau đây gọi bên đặt cọc) giao cho bên kia (sau
đây gọi bên nhận đặt cọc) một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật
giá trị khác (sau đây gọi chung tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm
giao kết hoặc thực hiện hợp đồng. vậy, stiền cọc ông H nhận của ông G
độc lập, hiệu lực đ bảo đảm giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất giữa các bên, nên ông H và ông G có trách nhiệm thực hiện đúng nội dung
đã thỏa thuận trong “Giấy mua bán đất”. Tuy nhiên, ông H mới chuyển nhượng
sang tên cho ông G thửa đất số 82, tờ bản đồ số 10, diện tích 15274m
2
; phần diện
tích còn lại khoảng 01 ha thì ông H không hoàn thành giấy tờ, thủ tục để được cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đấtchuyển nhượng cho ông G theo quy định tại
Điều 188 Luật đất đai năm 2013 tý chuyển nhượng cho người khác, nhưng
không trả lại tiền cọc cho ông G. Mặt khác, trong “Giấy mua bán đất”, ngày
13/01/2021 hai bên đã thỏa thuận nội dung: “…Đã giao tiền cọc 50.000.000
đồng số tiền còn lại sẽ đưa sau khi giao sổ đỏ”. Vì vậy, đây là lỗi của bên nhận cọc
(ông Công H) ông H đã vi phạm nội dung thỏa thuận ảnh hưởng đến quyền
lợi hợp pháp của ông G, nên ông H phải nghĩa vụ trả lại số tiền đặt cọc
47.000.000 đồng cho ông G.
[4]. Ông Lê Công H cho rằng ông Đặng Quốc G người vi phạm thỏa thuận
được ghi trong Giấy mua bán đất” nên không đồng ý trả lại số tiền cọc 47.000.000
đồng. Hội đồng xét xử xét thấy, tại khoản 1 Điều 6 Bộ luật Tố tụng dân squy
định:“Đương sự quyền nghĩa vụ chủ động thu thập, giao nộp chứng cứ cho
Tòa án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp, đồng thời
tại khoản 2 Điều 91 Bộ luật Tố tụng dân sự quy định: “Đương sự phản đối yêu cầu
của người khác đối với mình phải thể hiện bằng văn bản phải thu thập, cung
cấp, giao nộp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho sự phản đối đó”.
Trong qtrình giải quyết vụ án ông H không cung cấp được tài liệu, chứng cứ
để chứng minh cho ý kiến của mình căn cứ, còn ông G đã cung cấp chứng cứ
Giấy mua bán đất” thể nội dung ông H đã nhận tiền cọc của nguyên đơn để
bảo đảm giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, đối với diện tích
khoảng 2,5ha, nên nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình được
7
quy định tại Điều 6, Điều 91, Điều 93, Điều 94 và Điều 95 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Vì vậy, không có căn cứ chấp nhận ý kiến trên của ông Lê Công H
Xét ý kiến của người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị đơn đã trình
bày không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử không căn cứ, nên
không chấp nhận.
Từ những nhận định phân tích nêu trên, đủ căn cứ chấp nhận yêu cầu
khởi kiện của ông Đặng Quốc G. Buộc ông Công H phải trả lại tiền đặt cọc
47.000.000 đồng cho ông Đặng Quốc G.
Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ea H’Leo tại phiên
tòa là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên chấp nhận.
[5]. Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của ông Đặng Quốc G được chấp nhận,
nên ông Lê Công H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm. Tuy nhiên, ông Công H
người cao tuổi, nên được miễn nộp tiền án phí dân sự thẩm theo quy định của
pháp luật.
Trả lại cho ông Đặng Quốc G số tiền 1.175.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã
nộp theo biên lai thu số: 0002475 ngày 21/11/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự
huyện Ea H’Leo, tỉnh Đắk Lắk.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. V điu lut áp dng: Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35,
đim a khoản 1 Điều 39, Điều 147 và khon 2 Điu 227 B lut T tng dân s;
Căn cứ Điều 117, Điều 118, Điều 119, Điu 121, Điu 292, Điu 295
Điu 328 B lut Dân s;
Căn cứ Ngh quyết s: 326/2016/UBTVQH14 ca Ủy ban thường v Quc
hội quy đnh v mc thu, min, gim, thu, np, qun và s dng án phí l phí
Tòa án;
2. Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đặng Quốc G đối với
ông Công H về việc “Tranh chấp đòi lại tiền cọc về chuyển nhượng quyền sử
dụng đất”.
Buộc ông Lê Công H phải trả cho ông Đặng Quốc G số tiền đặt cọc
47.000.000 đồng (Bốn mươi bảy triệu đồng).
K t ngày đơn yêu cu thi hành án của người được thi hành án cho đến
khi thi hành xong khon tin nêu trên, hàng tháng bên phi thi nh án còn phi
chu khon tin lãi ca s tin còn phi thi hành án theo mc lãi suất quy định ti
khoản 2 Điều 468 B lut Dân s.
8
3. Về án phí dân sự thẩm: Ông Công H người cao tuổi, nên được
miễn nộp tiền án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Trả lại cho ông Đặng Quốc G số tiền 1.175.000 đồng tiền tạm ứng án pdân
sự thẩm đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ea H’Leo, tỉnh Đắk Lắk
theo biên lai số: 0002475 ngày 21/11/2024.
4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân
sự. Ông Đặng Quốc G bà Nguyễn Thị B mặt tại phiên tòa quyền kháng
cáo bản án thẩm 15 ngày, ktừ ngày tuyên án; ông Công H ông
T vắng mặt tại phiên tòa quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày
nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.
Trường hp bn án, quyết định được thi hành theo quy đnh tại Điều 2 lut
thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phi thi hành án dân
s quyn tha thun thi hành án, quyn yêu cu thi hành án, t nguyn thi hành
án hoc cưỡng chế thi hành án theo quy đnh tại các Điều 6, Điều 7 9 Luật thi
hành án dân sự, thi hiệu thi hành án được thc hin theo quy định tại Điều 30 lut
thi hành án dân s.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Nơi nhận: THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
- Các đương sự;
- Vin KSND huyện Ea H’leo;
- Chi cc THADS huyện Ea H’leo;
- TAND tỉnh Đăk Lăk;
- Lưu hồ sơ.
Nguyễn Năng Quân
Tải về
Bản án số 08/2025/DS-ST Bản án số 08/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 08/2025/DS-ST Bản án số 08/2025/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất