Bản án số 04/2025/DSST ngày 14/02/2025 của TAND huyện Cam Lâm, tỉnh Khánh Hòa về tranh chấp đất đai
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 04/2025/DSST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 04/2025/DSST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 04/2025/DSST
Tên Bản án: | Bản án số 04/2025/DSST ngày 14/02/2025 của TAND huyện Cam Lâm, tỉnh Khánh Hòa về tranh chấp đất đai |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp đất đai |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Cam Lâm (TAND tỉnh Khánh Hòa) |
Số hiệu: | 04/2025/DSST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 14/02/2025 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Trần thị Kim Liên kiện Trần Bảo |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN CAM LÂM
TỈNH KHÁNH HÒA
Bản án số: 04/2025/DS-ST
Ngày 14 tháng 2 năm 2025
V/v: Tranh chấp quyền sử dụng đất
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập Tự do – Hạnh Phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAM LÂM - TỈNH KHÁNH HÒA
- Với thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm Phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Trần Được
Các Hội thẩm nhân dân:1/ Bà Nguyễn Thị Bội Hoàn
2/ Ông Hoàng Quang Thanh
- Thư ký phiên tòa: Bà Lê Thị Ngọc Hà - Thư ký tòa án nhân dân huyện Cam
Lâm.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cam Lâm tham gia phiên tòa: ông
Trần Xuân Ngọc - Kiểm sát viên.
Ngày 14 tháng 2 năm 2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cam Lâm, tỉnh
Khánh Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 21/2023/TLST-DS ngày
14 tháng 3 năm 2023 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất” theo Quyết định đưa
vụ án ra xét xử số 02/2025/QĐXXST-DS ngày 08/01/2025 và Quyết định hoãn
phiên toà số 07/2025/QĐST-DS ngày 22/01/2025, giữa các đương sự:
*Nguyên đơn: Bà Trần Thị Kim L, sinh năm 1981; Địa chỉ: Thôn L, xã C,
huyện C, tỉnh Khánh Hòa. Có mặt tại phiên toà
*Bị đơn: Ông Trần B, sinh năm 1959 và bà Lê Thị Kim L1, sinh năm 1961;
Cùng địa chỉ: Thôn L, xã C, huyện C, tỉnh Khánh Hòa. Người đại diện theo uỷ
quyền của ông B, bà L1: Bà Trần Thị Kim C, sinh năm 1992-Địa chỉ: thôn T, xã C,
huyện C, tỉnh Khánh Hòa. Có mặt tại phiên toà
*Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
- Ông Trần Phi S, sinh năm 1987. Địa chỉ: Thôn T, xã C, huyện C, tỉnh Khánh
Hòa. Có đơn xin xét xử vắng mặt
- Ông Trần Phi H, sinh năm 1983. Địa chỉ: Thôn T, xã C, huyện C, tỉnh Khánh
Hòa. Có đơn xin xét xử vắng mặt
*Người làm chứng:
- Ông Trần Phi L2, sinh năm 1994. Địa chỉ: Thôn L, xã C, huyện C, Khánh
Hòa. Vắng mặt
- Ông Võ Ngọc H1, sinh năm 1974. Địa chỉ: Thôn T, xã C, huyện C, Khánh
Hòa. Có đơn xin xét xử vắng mặt
2
- Bà Trần Thị N, sinh năm 1978. Địa chỉ: Thôn T, xã C, huyện C, Khánh Hòa.
Vắng mặt
- Ông Nguyễn T, sinh năm 1973; Địa chỉ: Thôn T, xã C, huyện C, Khánh Hòa.
Có mặt tại phiên toà
- Bà Nguyễn Thị Thu T1, sinh năm 1971; Địa chỉ: Thôn T, xã C, huyện C,
Khánh Hòa. Có mặt tại phiên toà
NỘI DUNG VỤ ÁN:
-Theo đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Trần Thị
Kim L trình bày:
Năm 2010 tôi đi xuất khẩu lao động tại M. Từ năm 2014 đến 2018 tôi có gửi
tiền về nhờ cha mẹ tôi là Trần B và Lê Thị Kim L1 mua đất. Tổng số tiền tôi gửi về
khoảng hơn 200 triệu đồng. Tất cả những lần tôi gửi tiền tôi đều gửi qua ngân hàng
cho ông Trần B. Trước đó tôi và cha mẹ đã trao đổi về việc mua đất. Tôi có nhờ vợ
chồng ông Nguyễn T và bà Nguyễn Thị Thu T1 (Địa chỉ: thôn T, xã C) xem giùm có
thửa đất nào hợp lý, đẹp thì giới thiệu cho tôi. Sau đó vợ chồng bà T1 đã tìm được
thửa đất của ông Võ Ngọc H1 và bà Trần Thị N thì có nói với tôi, vì vậy tôi bắt đầu
gửi tiền về nhờ cha mẹ tôi mua đất. Thửa đất nhờ mua có chiều ngang là 10 mét,
chiều dài hơn 40 mét. Do cha mẹ tôi nói mua thêm 10 mét ngang nữa, tổng là 20 mét
ngang và nói khi nào tôi về nước thì sẽ tách thửa sang cho tôi. Nhưng đến nay cha
mẹ tôi là Trần B và Lê Thị Kim L1 không chịu tách thửa đất cho tôi. Vì vậy tôi yêu
cầu Toà án buộc vợ chồng ông B, bà L1 phải trả cho tôi một nửa diện tích thửa đất
579, tờ bản đồ số 37 toạ lạc tại thôn T, C, C.
-Đại diện theo uỷ quyền của bị đơn bà Trần Thị Kim C trình bày:
Tôi là con ruột của ông Trần B và bà Lê Thị Kim L1, vào năm 2016, vợ chồng
anh trai tôi là Trần Phi H, sinh năm 1983 và vợ là Nguyễn Thị T2, sinh năm 1984 có
sang nhượng thửa đất số 579, tờ bản đồ số 37 tại thôn T, xã C, huyện C, tỉnh Khánh
Hòa với giá 200.000.000 đồng của ông Võ Ngọc H1, bà Trần Thị N vào ngày
23/2/2016.
Tuy nhiên vì do anh trai tôi chỉ có 100.000.000 đồng từ nguồn vốn tích luỹ
được 60.000.000 đồng và có bán thêm 02 con bò giá 40.000.000 đồng nên không đủ
để mua đất, vì thế anh trai tôi có nhờ cha mẹ tôi là ông Trần B, sinh năm 1959 và bà
Lê Thị Kim L1, sinh năm 1961 mượn sổ đỏ là thửa đất 341, tờ bản đồ số 24 tại thôn
L, xã C, huyện C, tỉnh Khánh Hòa để vay thế chấp tại Ngân hàng S1- P là
100.000.000 đồng nữa. Do sổ đỏ là của cha mẹ tôi nên anh trai tôi để cha mẹ tôi
đứng tên trên thửa đất 579, tờ bản đồ 37 tại thôn T, xã C, huyện C, tỉnh Khánh Hòa
trên đơn sang nhượng đất của ông Võ Ngọc H1, bà Trần Thị N là sang nhượng cho
cha tôi là ông Trần B (Đơn sang nhượng lập ngày 23/2/2016)
Năm 2023, anh trai tôi là Trần Phi H thấy Trần Phi S cũng là anh trai tôi, sinh
năm 1987 không có đất ở nên chia lại cho anh S là 5m chiều ngang và nhờ cha mẹ
tôi tách thửa cho Trần Phi H và Trần Phi S mỗi người 5m, còn lại 10m để cha mẹ tôi
đứng tên.
3
Còn việc bà L nói có gửi tiền về mua đất là không đúng vì ngày 5/9/2010, bà L
đi xuất khẩu lao động ở Malaysia có để lại 2 đứa con cho cha mẹ tôi nuôi là Phạm
Trần Khánh A, sinh năm 2003 và Phạm Trung K, sinh năm 2005 vì bà L đã ly hôn.
Trước đây tôi đã cung cấp chứng cứ cho Toà án là công văn số 1038/KHDA-
DVKH ngày 28/11/2024 của Công ty K1, trong công văn này xác định bà L chuyển
tiền cho ông Trần B 8 lần, tổng cộng là 127.727.651 đồng và tại phiên toà hôm nay,
tôi cung cấp thêm chứng cứ mới là Công văn số 1133/KHDA-DVKH ngày
31/12/2024 của Công ty K1 về việc xác nhận các giao dịch kiều hối đã chi trả cho
khách hàng Trần Bảo, theo đó đã xác định bà L đã chuyển tiền cho ông Trần B 14
lần, tổng cộng số tiền là 198.373.313 đồng, cụ thể như sau: -Ngày 5/4/2012 chuyển
13.550.644 đồng; Ngày 07/7/2012 chuyển 13.151.192 đồng; Ngày 08/10/2014
chuyển 6.480.000 đồng; Ngày 10/9/2015 chuyển 5.138.826 đồng; Ngày 9/5/2017
chuyển 15.570.000 đồng; Ngày 6/7/2017 chuyển 15.676.045 đồng; Ngày 5/10/2017
chuyển 10.598.940 đồng; Ngày 07/2/2018 chuyển 18.922.878 đồng; Ngày 12/4/2018
chuyển 12.662.288 đồng; Ngày 7/6/2018 chuyển 11.350.000 đồng; Ngày 6/9/2018
chuyển 19.512.500 đồng; Ngày 17/10/2018 chuyển 16.665.000 đồng; Ngày
19/01/2019 chuyển 22.340.000 đồng và ngày 21/01/2019 chuyển 16.755.000 đồng
và có bản tự khai kèm theo. Nay tôi xác định công văn số 1133/KHDA-DVKH ngày
31/12/2024 là chính xác và thay thế công văn 1038/KHDA-DVKH ngày 28/11/2024
của Công ty K1.
Đó là số tiền 8 năm mà bà L đã gửi về cho 2 con của bà ăn học, nên bà L nói
năm 2016 gửi tiền về mua đất là không đúng vì số tiền 198.373.313 đồng chia cho 8
năm (96 tháng) không đủ để chi phí nuôi con ăn học và các chi phí khác như đưa
đón các cháu đi học, tiền học thêm, chi phí cho các cháu khi bệnh tật ốm đau… thì
làm gì còn tiền để mua đất, đồng thời trong năm 2016 bà L không gửi về một đồng
nào, trong khi đó việc sang nhượng thửa 579 được thực hiện ngay trong năm 2016,
anh tôi đã vay tiền Ngân hàng và ba tôi đã thanh toán xong 200 triệu cho ông Võ
Ngọc H1, bà Trần Thị N trong năm này và cha tôi đã đứng tên trên thửa đất này chứ
không phải bà L.
Việc bà L trình bày là không đúng sự thật. Giữa bà L và cha mẹ tôi không có
thoả thuận về việc mua đất, tôi không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà L. Vì vậy
tôi yêu cầu Toà án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
-Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Trần Phi H trình bày: Tôi đồng ý
với ý kiến của người được uỷ quyền bà Trần Thị Kim C, đề nghị Toà không chấp
nhận yêu cầu của nguyên đơn
-Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Trần Phi S trình bày: Tôi đồng ý
với ý kiến của người được uỷ quyền bà Trần Thị Kim C, đề nghị Toà không chấp
nhận yêu cầu của nguyên đơn.
-Người làm chứng ông Võ Ngọc H1, bà Trần Thị N trình bày: Vào ngày 16
tháng 01 Âm Lịch tức ngày 23/02/2016, vợ chồng tôi có sang nhượng cho ông Trần
B, sinh năm 1959 và vợ là Lê Thị Kim L1, sinh năm 1961 một diện tích đất có chiều
ngang 20m chiều dài 48m với giá tiền 200 triệu đồng, đặt cọc trước 40 triệu, số tiền
còn lại 160 triệu đã thanh toán xong sau 30 ngày kể từ ngày 23/2/2016. Ông B, bà
L1 là người trực tiếp trả tiền đặt cọc và thanh toán số tiền còn lại cho vợ chồng tôi.
Hai bên có làm giấy viết tay, sau đó hai bên tiếp tục làm hợp đồng chuyển quyền sử
4
dụng đất thửa đất số 579, tờ bản đồ số 37, diện tích 923,0m2, toạ lạc tại thôn T, xã
C, có chứng thực số 0001613 quyển số 02/2016 TP/CC-SCC/HĐGD ngày 19/4/2016
tại Văn phòng C2. Còn việc tranh chấp đất đai giữa bà L với ông B, bà L1 vợ
chồng tôi hoàn toàn không biết gì.
-Người làm chứng ông Nguyễn T, bà Nguyễn Thị Thu T1 trình bày: Bà Trần
Thị Kim L ở nước ngoài có điện về hỏi thăm vợ chồng tôi có biết ai có nhu cầu bán
đất không, vợ chồng tôi có biết vợ chồng ông Võ Ngọc H1, bà Trần Thị N là hàng
xóm có nhu cầu bán đất, sau đó tôi cho số điện thoại của ông Trần Phi H để hai bên
liên lạc. Ngoài ra việc mua bán như thế nào giữa hai bên chúng tôi hoàn toàn không
biết.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cam Lâm phát biểu ý
kiến:
-Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán,
Thư ký và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân
sự.
-Về nội dung giải quyết vụ án: Nguyên đơn khởi kiện nhưng không có chứng
cứ chứng minh nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu của nguyên
đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được thẩm tra tại
phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Tại phiên toà, nguyên đơn bà Trần Thị Kim L, đại diện theo
uỷ quyền của bị đơn bà Trần Thị Kim C có mặt; người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan ông Trần Phi H, Trần Phi S có đơn xin xét xử vắng mặt; người làm chứng ông
Nguyễn T, bà Nguyễn Thị Thu T1 có mặt; người làm chứng Võ Ngọc H1 có đơn xin
xét xử vắng mặt; người làm chứng bà Trần Thị N và Trần Phi L2 Toà án đã triệu tập
hợp lệ nhưng vắng mặt; Xét việc vắng mặt của bà Trần Thị N, ông Trần Phi L2
không ảnh hưởng gì đến việc giải quyết vụ án nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227
Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử theo thủ tục chung.
[2] Về nội dung tranh chấp:
[2.1] Nguyên đơn bà Trần Thị Kim L khởi kiện cho rằng vào năm 2010 bà đi
xuất khẩu lao động tại Malaysia. Từ năm 2014 đến 2018 bà có gửi tiền về nhờ vợ
chồng ba mẹ bà là Trần B và Lê Thị Kim L1 mua đất. Tổng số tiền bà gửi về khoảng
hơn 200 triệu đồng. Tất cả những lần gửi tiền bà đều gửi qua ngân hàng cho ông
Trần B. Trước đó bà và ba mẹ bà đã trao đổi về việc mua đất. Bà có nhờ vợ chồng
ông Nguyễn T và bà Nguyễn Thị Thu T1 (Địa chỉ: thôn T, xã C) xem giùm có thửa
đất nào hợp lý, đẹp thì giới thiệu cho bà. Sau đó vợ chồng bà T1 đã tìm được thửa
đất của ông Võ Ngọc H1 và bà Trần Thị N thì có nói với bà, vì vậy bà bắt đầu gửi
tiền về nhờ ba mẹ bà mua đất. Thửa đất nhờ mua có chiều ngang là 10 mét, chiều dài
hơn 40 mét. Do ba mẹ bà nói mua thêm 10 mét ngang nữa, tổng là 20 mét ngang và
5
nói khi nào bà về nước thì sẽ tách thửa sang cho bà. Nhưng đến nay ba mẹ bà là ông
Trần B và bà Lê Thị Kim L1 không chịu tách thửa đất cho bà. Vì vậy bà yêu cầu Toà
án buộc vợ chồng ông B, bà L1 phải trả cho bà một nửa diện tích thửa đất 579, tờ
bản đồ số 37 toạ lạc tại thôn T, C, C.
[2.2] Đại diện theo uỷ quyền của bị đơn bà Trần Thị Kim C thì cho rằng:
Bà là con ruột của ông Trần B và bà Lê Thị Kim L1; vào năm 2016, vợ chồng
anh trai bà là Trần Phi H, sinh năm 1983 và vợ là Nguyễn Thị T2, sinh năm 1984 có
sang nhượng thửa đất số 579, tờ bản đồ số 37 tại thôn T, xã C, huyện C, tỉnh Khánh
Hòa với giá 200.000.000 đồng của ông Võ Ngọc H1, bà Trần Thị N vào ngày
23/2/2016. Tuy nhiên vì do anh trai bà chỉ có 100.000.000 đồng từ nguồn vốn tích
luỹ được 60.000.000 đồng và có bán thêm 02 con bò giá 40.000.000 đồng nên không
đủ để mua đất, vì thế anh trai bà có nhờ cha mẹ bà là ông Trần B, sinh năm 1959 và
bà Lê Thị Kim L1, sinh năm 1961 mượn sổ đỏ là thửa đất 341, tờ bản đồ số 24 tại
thôn L, xã C, huyện C, tỉnh Khánh Hòa để vay thế chấp tại Ngân hàng S1- P là
100.000.000 đồng nữa để mua đất.
Do sổ đỏ là của cha mẹ bà nên anh trai bà đồng thuận để cha mẹ bà đứng tên
trên thửa đất 579, tờ bản đồ 37 tại thôn T, xã C, huyện C, tỉnh Khánh Hòa trên đơn
sang nhượng đất của ông Võ Ngọc H1, bà Trần Thị N là sang nhượng cho cha bà là
ông Trần B (Đơn sang nhượng lập ngày 23/2/2016). Năm 2023, anh trai bà là Trần
Phi H thấy Trần Phi S cũng là anh trai bà, sinh năm 1987 không có đất ở nên chia lại
cho anh S là 5m chiều ngang và nhờ cha mẹ bà tách thửa cho Trần Phi H và Trần Phi
S mỗi người 5m, còn lại 10m để cha mẹ bà đứng tên.
Còn việc bà L nói có gửi tiền về mua đất là không đúng vì các lý do sau:
Ngày 5/9/2010, bà L đi xuất khẩu lao động ở Malaysia có để lại 2 đứa con cho
cha mẹ bà nuôi là Phạm Trần Khánh A, sinh năm 2003 và Phạm Trung K, sinh năm
2005 vì bà L đã ly hôn.
Trong quá trình tố tụng trước khi xét xử, bà C có cung cấp cho Toà án công
văn số 1038 ngày 28/11/2024 của Công ty K1, trong công văn này xác định bà L
chuyển tiền cho ông Trần B 8 lần, tổng cộng là 127.727.651 đồng và tại phiên toà
hôm nay, bà Cúc cung C1 thêm chứng cứ mới là Công văn số 1133/KHDA-DVKH
ngày 31/12/2024 của Công ty K1 về việc xác nhận các giao dịch kiều hối đã chi trả
cho khách hàng Trần Bảo, theo đó đã xác định bà L đã chuyển tiền cho ông Trần B
14 lần, tổng cộng số tiền là 198.373.313 đồng, cụ thể như sau: Ngày 5/4/2012
chuyển 13.550.644 đồng; Ngày 07/7/2012 chuyển 13.151.192 đồng; Ngày
08/10/2014 chuyển 6.480.000 đồng; Ngày 10/9/2015 chuyển 5.138.826 đồng; Ngày
9/5/2017 chuyển 15.570.000 đồng; Ngày 6/7/2017 chuyển 15.676.045 đồng; Ngày
5/10/2017 chuyển 10.598.940 đồng; Ngày 07/2/2018 chuyển 18.922.878 đồng; Ngày
12/4/2018 chuyển 12.662.288 đồng; Ngày 7/6/2018 chuyển 11.350.000 đồng; Ngày
6/9/2018 chuyển 19.512.500 đồng; Ngày 17/10/2018 chuyển 16.665.000 đồng; Ngày
19/01/2019 chuyển 22.340.000 đồng và ngày 21/01/2019 chuyển 16.755.000 đồng.
Bà C xác định công văn số 1133/KHDA-DVKH ngày 31/12/2024 của Công ty
K1 là chính xác và thay thế cho công văn 1038/KHDA-DVKH ngày 28/11/2024
của Công ty K1.
6
Bà C cũng xác định tổng số tiền 198.373.313 đồng mà bà L đã chuyển đó là
số tiền trong 8 năm (từ năm 2012 đến năm 2019; các năm 2013, 2016 bà L không
gửi tiền về ) mà bà L đã gửi về chỉ để chi dùng cho 2 con của bà ăn học, nên bà L
cho rằng năm 2016 gửi tiền về mua đất là không đúng vì số tiền 198.373.313 đồng
chia cho 8 năm (96 tháng) không đủ để chi phí nuôi con ăn học và các chi phí khác
như đưa đón các cháu đi học, tiền học thêm, chi phí cho các cháu khi bệnh tật ốm
đau… thì làm gì đủ tiền để mua đất, mặc khác trong năm 2016 bà L không gửi về
một đồng nào, trong khi đó việc sang nhượng thửa đất 579 được thực hiện ngay
trong năm 2016 và cha bà đã thanh toán xong 200 triệu cho ông Võ Ngọc H1, bà
Trần Thị N trong năm này.
Anh trai bà là ông Trần phi H đi vay tiền để mua đất có xác nhận của Ngân
hàng và cha bà đứng tên trên đất chứ không phải bà L do đó việc bà L trình bày là
không đúng sự thật. Giữa bà L và bố mẹ bà không có thoả thuận về việc mua đất, bà
không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà L. Vì vậy bà yêu cầu Toà án không chấp
nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
[3] Hội đồng xét thấy:
*Về xem xét, đánh giá chứng cứ:
[3.1] Nguyên đơn bà Trần Thị Kim L cho rằng bà gửi tiền từ Malaysia về để
cha mẹ bà mua đất cho bà, tuy nhiên bà chỉ có lời khai mà không có bất cứ tài liệu
chứng cứ nào để chứng minh lời khai, bà yêu cầu Toà án thu thập chứng cứ gửi tiền
từ nước ngoài về thông qua Ngân hàng N1 Chi nhánh C3 và Ngân hàng S1- Phòng
G và Toà án đã ra quyết định yêu cầu cung cấp chứng cứ, kết quả trả lời của Ngân
hàng là bà không có gửi tiền qua các Ngân hàng này (BL 137 và BL 142);
Tuy nhiên phía bị đơn có cung cấp chứng cứ cho Toà án là văn bản số
1038/KHDA-DVKH ngày 28/11/2024 của Cty Kiều hối Đ nội dung xác nhận bà L
có gửi tiền về cho ông Trần B tổng cộng 8 lần gửi là 127.727.651 đồng vào các năm
2012, 2017, 2018 và 2019; năm 2016 bà không gửi và tại phiên toà hôm nay, đại
diện theo uỷ quyền của bị đơn bà Trần Thị Kim C Cúc cung cấp thêm chứng cứ mới
là Công văn số 1133/KHDA-DVKH ngày 31/12/2024 của Công ty K1 về việc xác
nhận các giao dịch kiều hối đã chi trả cho khách hàng Trần Bảo, theo đó đã xác định
bà L đã chuyển tiền cho ông Trần B 14 lần, tổng cộng số tiền là 198.373.313 đồng (
vào các năm 2012, 2014, 2015, 2017, 2018 và 2019; năm 2013, 2016 không gửi). Bà
C cũng xác định công văn số 1133/KHDA-DVKH ngày 31/12/2024 của Công ty K1
là chính xác và thay thế cho công văn 1038/KHDA-DVKH ngày 28/11/2024 của
Công ty K1.
Toà án xác định văn bản số 1133/KHDA-DVKH ngày 31/12/2024 của Công ty
K1 là chứng cứ quan trọng, khách quan, để xác định, phân tích, đánh giá thời gian bà
L gửi tiền về, một lần gửi bao nhiêu tiền, có phù hợp với sự việc mua đất mà bà L
trình bày hay không.
[3.2] Khi đi xuất khẩu lao động, bà L có gửi 2 con cho ông bà ngoại nuôi dùm,
sự việc này là có thật trên thực tế vì bà L đã ly hôn, tổng số tiền 198.373.313 đồng
mà bà L gửi về chia đều cho 8 năm (96 tháng) là để nuôi 2 con của bà L (là Phạm
Trần Khánh A, sinh năm 2003 và Phạm Trung K, sinh năm 2005) ăn học và các chi
phí khác cho con của bà là phù hợp chứ không phải để mua đất vì sự việc mua đất
7
được cha mẹ bà là ông Trần B, bà Lê Thị Kim L1 và anh trai của bà là ông Trần Phi
H thực hiện vào ngày 23/02/2016 với số tiền mua là 200 triệu đồng đúng như lời
khai của người bán đất là ông H1, bà N trong khi đó năm 2016 bà L không gửi về
một đồng nào thì làm sao đủ tiền để mua đất vào thời điểm năm 2016. Mặc khác,
Ngân hàng S1- Phòng G có văn bản xác nhận ông Trần Phi H vay 100 triệu đồng
vào đúng thời điểm mua đất năm 2016 (28/3/2016- BL132). Ông H vay Ngân hàng
để mua đất và để cho cha là ông Trần B đứng tên trên đất chứ không phải bà Trần
Thị Kim L.
Do đó lời trình bày của đại diện theo uỷ quyền của bị đơn bà Trần Thị Kim C
được đánh giá là hợp lý, có sức thuyết phục và phù hợp với thực tế.
[3.3] Trên cơ sở những phân tích, đánh giá như trên, Hội đồng xét xử thấy
rằng yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là không có cơ sở nên cần không chấp nhận
yêu cầu này.
[4] Về án phí, chi phí tố tụng: Do yêu cầu của nguyên đơn không được chấp
nhận nên nguyên đơn phải chịu án phí, chi phí tố tụng theo qui định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
-Căn cứ vào Khoản 1 Điều 236 Luật đất đai năm 2024; Điều 27 Nghị quyết
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp,
quản lý và sử dụng án phí lệ phí của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử:
1-Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn;
2-Về án phí, chi phí tố tụng: Do yêu cầu của nguyên đơn bà Trần Thị Kim L
không được chấp nhận nên phải chịu án phí và chi phí tố tụng theo qui định.
-Án phí: Bà Trần Thị Kim L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 48.000.000
đồng.
H2 lại cho bà Trần Thị Kim L 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai
thu tiền số AA/2021/0009529 ngày 27/2/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện
Cam Lâm.
-Chi phí tố tụng: Chi phí đo vẽ trích đo địa chính, thẩm định tại chỗ theo thực
tế: Bà Trần Thị Kim L đã đóng đủ.
3-Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, đại diện theo uỷ quyền của bị đơn có
mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Bị
đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong
hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được niêm yết.
4-Qui định: Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi
hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hảnh án dân sự có
quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc
8
bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân
sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án
dân sự./.
Nơi nhận : TM.HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
- TAND tỉnh Khánh Hòa; Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa
- VKSND tỉnh Khánh Hòa;
- VKSND huyện Cam Lâm;
- Chi cục THADS huyện Cam Lâm;
- Những người tham gia tố tụng;
- Lưu án văn, hồ sơ.
Trần Được
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 13/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 10/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 07/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 05/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 03/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 28/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 27/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 26/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Bản án số 08/2025/DS-ST ngày 24/02/2025 của TAND huyện Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu về tranh chấp đất đai
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 24/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 21/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 21/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 20/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 20/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm