Bản án số 03/2024/DS-ST ngày 19/06/2024 của TAND huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn về tranh chấp quyền sử dụng đất

  • Thuộc tính
  • Nội dung
  • VB gốc
  • VB liên quan
  • Lược đồ
  • Đính chính
  • Án lệ
  • BA/QĐ cùng nội dung
  • Tải về
Tải văn bản
Báo lỗi
  • Gửi liên kết tới Email
  • Chia sẻ:
  • Chế độ xem: Sáng | Tối
  • Thay đổi cỡ chữ:
    17

Thuộc tính Bản án 03/2024/DS-ST

Tên Bản án: Bản án số 03/2024/DS-ST ngày 19/06/2024 của TAND huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn về tranh chấp quyền sử dụng đất
Quan hệ pháp luật: Tranh chấp quyền sử dụng đất
Cấp xét xử: Sơ thẩm
Tòa án xét xử: TAND huyện Đình Lập (TAND tỉnh Lạng Sơn)
Số hiệu: 03/2024/DS-ST
Loại văn bản: Bản án
Ngày ban hành: 19/06/2024
Lĩnh vực: Dân sự
Áp dụng án lệ:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Đính chính:
Đã biết

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Thông tin về vụ/việc: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Mã Văn H về quyền sử dụng đất.
Tóm tắt Bản án

Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!

Tải văn bản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN ĐÌNH LẬP
TỈNH LẠNG SƠN
Bản án số: 03/2024/DS-ST
Ngày 19-6-2024
V/v tranh chp quyn s dng đt, yêu cu
s hu, di di tài sn trên đt và chm dt
hành vi tranh chp quyn s dng đt
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÌNH LẬP, TỈNH LẠNG SƠN
- Thành phần Hi đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Lành Thị Vệ.
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Nông Văn Thắng;
Bà Hà Thị Tuyết.
- Thư phiên a: Ông Hoàng Văn Trường - Thư Toà án nhân dân
huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn
tham gia phiên tòa: Ông Nông Đức Hoài - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 18, 19 tháng 6 năm 2024 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện
Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn xét xử thẩm công khai vụ án thụ số:
21/2024/TLST-DS ngày 23 tháng 10 năm 2023 v tranh chấp quyền sử dụng
đất, yêu cầu sở hữu, di dời tài sản trên đất và chấm dứt hành vi tranh chấp quyền
sử dụng đất theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2024/QĐXXST-DS ngày
22 tháng 4 năm 2024; Quyết định hoãn phiên tòa số 02/2024/QĐST-DS, ngày
15 tháng 5 năm 2024; Quyết định hoãn phiên tòa số 03/2024/QĐST-DS, ngày
31 tháng 5 năm 2024, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Văn H, sinh năm 1973; địa chỉ: Thôn B, B,
huyện Đ, tỉnh Lạng Sơn; có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Chu Văn T
- Luật của Chi nhánh Công ty Luật Trách nhiệm hữu hạn một thành viên G,
huyện L, thuộc đoàn Luật sư tỉnh Lạng Sơn; có mặt.
- Bị đơn: Ông Mã Văn D, sinh năm 1981; địa chỉ: Thôn C, xã B, huyện Đ,
tỉnh Lạng Sơn; mặt.
- Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của bị đơn: Chu Bích T-
Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Lạng Sơn;
mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
2
1. Bà Lộc Thị S, sinh năm 1973; mặt.
2. Anh Mã Văn H, sinh năm 1993; mặt.
3. Chị Mã Thị P, sinh năm 1995; có mặt.
4. Chị Mã Thị T, sinh năm 2000; mặt.
5. Chị Mã Thị X, sinh năm 2005; có mặt.
Cùng địa chỉ: Thôn B, xã B, huyện Đ, tỉnh Lạng Sơn.
Người đại diện theo ủy quyền của chị Thị T, chị Thị X: Ông
Văn H, sinh năm 1973; địa chỉ: Thôn B, xã B, huyện Đ, tỉnh Lạng Sơn; có mặt.
6. Bà Hoàng Thị N; mặt.
7. Anh Mã Trần B; mặt.
8. Bà Bế Thị V; có mặt.
Cùng địa chỉ: Thôn C, xã B, huyện Đ, tỉnh Lạng Sơn.
9. Thị L, sinh năm 1985. Địa chỉ: Khu *, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh
Lạng Sơn; có mặt.
Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan chHoàng Thị N, Bế Thị V, chị Thị L: Chu Bích T - Trợ
giúp viên pháp của Trung tâm Trợ giúp pháp Nhà nước tỉnh Lạng Sơn;
mặt.
10. Thị V, sinh năm 1964. Địa chỉ: Thôn T, L, huyện Đ, tỉnh
Quảng Ninh; có mặt.
11. Thị T, sinh năm 1979; địa chỉ: Thôn B, B, huyện Đ, tỉnh
Lạng Sơn; vắng mặt.
Người đại diện theo ủy quyền của Thị T: Thị L, sinh năm
1985. Địa chỉ: Khu *, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Lạng Sơn; có mặt.
12. Ủy ban nhân dân huyện Đ, tỉnh Lạng Sơn. Người đại diện theo ủy
quyền: Ông Nguyễn Công H - Trưởng phòng Tài nguyên môi trường huyện
Đ, tỉnh Lạng Sơn (theo Quyết định ủy quyền số 3566/QĐ-UBND, ngày
21/11/2023 của Ủy ban nhân dân huyện Đ); vắng mặt.
Người làm chứng:
1. Ông Mã Văn S, sinh năm 1963; có mặt.
2. Ông Vi Văn H, sinh năm 1972; vắng mặt.
3. Ông Vi Xuân B, sinh năm 1958; có mặt.
4. Nông Thị L, sinh năm 1966; vắng mặt.
5. Ông Hoàng Bách C, sinh năm 1950; vắng mặt.
6. Ông Hà Văn Đ, sinh năm 1954; vắng mặt.
7. Ông Hà Văn G, sinh năm 1978; vắng mặt.
Cùng trú tại: Thôn C, xã B, huyện Đ, tỉnh Lạng Sơn.
3
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện ngày 11/10/2023, các lời trình bày trong quá trình giải
quyết vụ án tại phiên tòa nguyên đơn ông Văn H yêu cầu giải quyết tranh
chấp quyền sử dụng đất với gia đình ông n D với diện tích 1107,2m
2
,
thuộc một phần thửa đất số 83, tờ bản đồ số 05, bản đồ địa chính đất lâm nghiệp
B, huyện Đình Lập, tỉnh Lạng n (gọi tắt thửa đất số 83). Tài sản trên đất
tranh chấp gồm 72 y hồi, 01 cây trám các cây vầu. Về nguồn gốc của thửa
đất đang tranh chấp: Năm 1992 gia đình ông Văn H phát dọn thửa đất
mang hạt thông giống trồng trực tiếp trên thửa đất tại N, Thôn C, B, huyện Đ,
tỉnh Lạng n nhưng do không chăm sóc được n không thành. Đến năm 1994
gia đình ông Mã Văn H được Ủy ban nhân dân huyện Đ, tỉnh Lạng Sơn cấp hồ sơ
giao quyền quản lý và sử dụng rừng và đất trồng rừng đối với lô đất tại khoảnh 4,
tiểu khu 478 với diện tích 6,3 ha mang tên hộ gia đình ông Văn H. Sau khi
được giao đất gia đình ông Mã Văn H lấy cây thông giống về trồng lại, tuy nhiên
do thời điểm đó cây giống khan hiếm nên trồng không hết diện tích đất tỷ lệ
sống không cao nên y thông nằm dải dác một số vị trí trên thửa đất hiện
nay trên toàn bộ khu đất khoảng 1.000 cây đang khai thác nhựa thông. Năm
2005 thửa đất này gia đình ông Mã Văn H kê khai cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất (sổ đỏ) mang tên hộ ông Văn H, Lộc Th S với diện tích
42.000m
2
. Năm 2011 gia đình ông khai cấp đổi sang giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu nhà tài sản khác gắn liền với đất (shồng) với
diện tích 52.998m
2
thuộc thửa đất số 83, tờ bản đồ số 05 bản đồ lâm nghiệp
B, huyện Đ, tỉnh Lạng Sơn giấy chứng nhận cũng mang tên hộ ông Mã Văn H, bà
Lộc Thị S. Đến năm 2021 gia đình ông Mã Văn H tiếp tục trồng cây keo, cây
bạch đàn cây lát vào những phần đất n trống. Ngoài phần diện tích đã trồng
các loại cây cây keo, cây bạch đàn y lát thì còn một phần diện tích đất
khoảng 500m
2
đã có sẵn cây vầu mọc tự nhiên nên gia đình ông Văn H không
tiến hành trồng cây vào đó mà để ăn măng. Đến năm 2023 gia đình ông n
D đã tiến hành trồng cây hồi vào phần diện tích đất rừng vầu gia đình ông
n H đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử đất thì xảy ra tranh chấp. Nay ông
Văn H yêu cầu gia đình ông Văn D trả lại diện tích đất tranh chấp
1107,2m
2
thuộc một phần thửa đất số 83, tờ bản đồ số 05, bản đồ địa chính đất
lâm nghiệp xã B, huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn. Yêu cầu gia đình ông Mã Văn
D di dời toàn bộ số y hồi trên đất yêu cầu được sở hữu cây trám các cây
vầu trên đất. Buộc gia đình ông Văn D chấm dứt hành vi tranh chấp đối với
gia đình ông. Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, định giá tài sản, chi phí đo
đạc, trích đo địa chính khu đất tranh chấp chi phí giám định pháp yêu cầu
Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 06/11/2023 cùng những lời trình bày tiếp
theo tại phiên tòa bị đơn ông Văn D trình bày: Năm 1985 bố mông
ông Mã Hồng V (đã chết năm 2008) và Bế Thị V, sinh năm 1944 có khai phá
thửa đất tại N, Thôn C, xã B, huyện Đ, tỉnh Lạng Sơn để trồng cây lương thực
ngắn ngày quản một phần diện tích rừng vầu tiếp giáp với phần diện tích
4
đã khai phá với mục đích để lấy măng ănlấy cây vầu phục vụ cho cuộc sống.
Năm 2003 ông Văn D kết hôn với Hoàng ThN, sau đó vợ chồng ông
sống chung cùng với bố mẹ từ đó đến nay. Sau khi kết hôn vợ chồng ông đã
được cùng bố mẹ quản lý, sử dụng phần diện tích đất vườn và phần diện tích đất
cây vầu, trong đó diện tích đất ờn khoảng hơn 300m
2
và diện tích đất trồng
cây vầu khoảng 500m
2
. Hàng năm gia đình ông trồng cây ngô, khoai, sắn, còn
rừng vầu vẫn quản lý, hái măng lấy cây. Năm 2020 ông Mã Văn D thuê máy
ủi mở rộng san bằng phẳng diện tích đất vườn để tiện cho việc sử dụng đất
nhưng khi thực hiện xong tông Văn H cho rằng phần diện tích đất vườn
này đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho gia đình ông Văn
H yêu cầu ông Văn D không được quản lý, sử dụng. Do anh em ruột
với nhau nên vợ chồng ông Văn D đã cho ông Văn H trồng cây keo vào
phần diện tích đất vườn. Phần diện tích đất cây vầu gia đình ông Văn D
vẫn tiếp tục quản lý, sử dụng. Đến tháng 3 năm 2023 mẹ ông đã bảo vợ chồng
ông trồng cây hồi vào vị trí đất rừng vầu thì xảy ra tranh chấp. Trước đây ông
Văn D không biết thửa đất này đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho hộ ông Mã Văn H đến khi xảy ra tranh chấp thì ông mới biết. Ông không
nhất trí trả lại đất theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn với do đây đất
của bố m khai phá, quản lý, sử dụng chưa chia cho ai. Ông Văn D yêu
cầu được tiếp tục quản lý, sử dụng diện tích đất tranh chấp, sở hữu cây hồi trên
đất yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho gia đình ông
Mã Văn H đối với phần diện tích đang tranh chấp.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Bế Thị V trình bày tại biên bản
lấy lời khai ngày 08/11/2023, lời trình bày trong quá trình giải quyết và tại phiên
tòa như sau: Năm 1985 cùng chồng Hồng V làm nhà tại N, Thôn C,
B, huyện Đ, tỉnh Lạng Sơn để tiện cho việc chăn nuôi trâu bò và làm ruộng. Sau
khi chuyển vào N sinh sống vợ chồng đã khai phá thửa đất cạnh nhà để
trồng hoa màu, cây lương thực ngắn ngày như ngô, khoai, sắn. Phía trên mảnh
vườn một phần diện tích rừng vầu nên vchồng đã quản để sử dụng lấy
cây măng phục vụ cho cuộc sống. Về diện tích cụ thể không nắm được.
Năm 1990 vợ chồng tiếp tục khai phá diện tích đất tiếp giáp với rừng vầu đ
trồng hồi, bà không nhớ số lượng cây đã trồng nhưng hiện nay còn khoảng 12
cây hồi. Cũng trong năm 1990 vợ chồng không N nữa quay về trung
tâm làng để sinh sống nên đã tháo dỡ ngôi nhà N đi nhưng vẫn tiếp tục quản
lý, sử dụng toàn bộ diện tích đất vợ chồng đã khai phá. Năm 2003
Văn D lấy vợ và ở cùng với vợ chồng đã cùng quản lý, sử dụng toàn bộ thửa
đất này. Đến khoảng năm 2010 con trai cả của Văn H đã tự ý lấy phần
diện tích đất vợ chồng đã trồng hồi trước đó. Năm 2020 vợ chồng
Văn D đã san ủi và mở rộng phần diện tích đất vườn để thuận tiện cho việc s
dụng thì Mã Văn H tiếp tục chiếm lấy. Khi đó bà cho rằng là tài sản vợ chồng
trước sau cũng chia cho các con nên Văn H đã lấy phần diện tích đất trồng
hồi và đất vườn thì phần diện tích đất rừng vầu để lại cho Văn D quản lý,
sử dụng. Năm 2023 Bế Thị V đã bảo vchồng Văn D trồng cây hồi vào
diện tích đất rừng vầu thì xảy ra tranh chấp với ông Văn H. Việc cấp giấy
5
chứng nhận quyền sử dụng đất cho Mã Văn H đối với diện tích đất mà vợ chồng
khai phá quản lý, sử dụng không được biết. Nay không nhất trí với
u cầu khởi kiện của nguyên đơn yêu cầu hủy một phần giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất đã cấp cho ông Văn H đối với diện tích đất tranh chấp để
trả lại đất cho ông Mã Văn D tiếp tục canh tác.
Những người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Lộc Thị S, anh
Văn H, chị Thị P, chị Thị X, chị Thị T trình bày ý kiến giống với ý
kiến nguyên đơn ông Mã Văn H đã trình bày.
Những người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Hoàng Thị N, anh
Trần B trình bày ý kiến giống với ý kiến bị đơn Mã Văn D đã trình bày.
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Mã Thị T, bà Thị L,
Mã Thị V đều cho rằng thửa đất đang tranh chấp là do ông Mã Hồng V và bà
Bế Thị V đã quản lý khu đất có cây vầu tự mọc từ năm 1985 với mục đích để lấy
cây và măng phục vụ cuộc sống hằng ngày. Thửa đất này ông Mã Hồng V
Bế Thị V chưa chia cho các con nên vẫn là tài sản của ông Mã Hồng V và Bế
Thị V. Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn không căn cứ đề nghị Tòa án
xem xét hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông
Văn H đối với diện tích đất tranh chấp để trả lại đất cho Bế Thị V tiếp tục
quản lý, sử dụng.
Những người làm chứng ông Vi Văn H, ông Văn S, ông Vi Xuân B,
Nông Thị L, ông Hoàng Bách C, ông Hoàng Văn G, ông Hà Văn Đ trình bày
tại biên bản lấy lời khai đều cho rằng thửa đất đang tranh chấp khu đất rừng
vầu do Bế Thị V quản lý để ăn măng từ năm 1985 tới nay. Những ai nhu
cầu lấy măng hoặc cây vầu tại khu rừng này thì đều phải được sự đồng ý của bà
Bế Thị V. Tại phiên tòa ông n S, ông Vi Xuân B nêu trên diện tích
đất rừng vầu, ngoài cây vầu thì Bế Thị V chưa trồng cây gì, đồng thời cũng
cho biết đối với đất trồng vầu thì hằng năm cây vầu sẽ lan dần ra diện tích đất
xung quanh.
Tại Công văn số 2542/UBND-TNMT, ngày 21/11/2023 Công văn số
465/UBND-TNMT, ngày 15/3/2024 của Uỷ ban nhân dân huyện Đ, tỉnh Lạng
Sơn cho biết: Việc cấp GCNQSDĐ đối với thửa đất số 83, tờ bản đồ số 05 tờ
bản đồ địa chính đất lâm nghiệp B về trình tự, thủ tục cấp mới, cấp đổi giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Văn H Lộc Thị S thực hiện
đúng quy trình, trình tự, thủ tục theo quy định tại Điều 123 Luật đất đai năm
2003 Điều 135 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của chính
phủ về thi hành Luật đất đai. Về yêu cầu của bị đơn Mã Văn D đề nghị hủy giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất trên không sở. Tuy nhiên, để giải quyết
tranh chấp sử dụng đất được khách quan, đúng quy định, đề nghị Tòa án nhân
dân huyện Đình Lập xem xét, thẩm tra nguồn gốc, thời điểm, quá trình sử dụng
đất, ranh giới thửa đất của các hộ gia đình có tranh chấp để giải quyết vụ việc.
Tại bản Kết luận giám định pháp ngày 24/5/2024 của người giám định
theo vụ việc ông Nông Trường N thể hiện: Đối với diện tích 1.107,2 m
2
theo
6
đồ trích đo khu đất tranh chấp do công ty cổ phần trắc địa bản đồ môi trường
Sông chi nhánh Lạng Sơn lập ngày 02/01/2024 với bản đ giao đất m
nghiệp năm 1994 B, huyện Đ xác định diện tích 1.107,2 m
2
không nằm trong
đất số 314, khoảnh 4, tiểu khu 478, diện tích 6,3 ha được Ủy ban nhân dân
huyện Đ giao đất theo Quyết định số 38/UB-ngày 14/3/1994. Xác định, vị
trí, diện tích đất tranh chấp 1.107,2 m
2
chưa được giao quyền quản lý và sử dụng
rừng đất rừng cho hộ gia đình, nhân o; Đối chiếu diện ch 1.107,2 m
2
theo đồ trích đo khu đất tranh chấp với bản đồ cấp GCNQSDĐ lâm nghiệp
năm 2005 B. Xác định diện tích 1.107,2 m
2
trên thuộc thửa đất số 319, diện
tích 42.000 m
2
cấp cho hộ ông n H vợ Lộc Thị S. Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất số vào sổ cấp giấy: 00394, do UBND huyện Đ cấp ngày
18/11/2005. Vị trí diện tích đất tranh chấp 1.107,2 m
2
thuộc thửa đất số 83, diện
tích 52.998,0 m
2
cấp giấy chứng nhận số BN 503897, số vào sổ cấp giấy chứng
nhận CH-00964 cấp cho hộ ông Văn H vợ Lộc Thị S, cấp ngày
21/3/2011.
Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của nguyên đơn Luật sư Chu
Văn T trình bày: Về nguồn gốc đất tranh chấp, trước đây ông Hồng V và
Bế Thị V quản một phần diện tích nhưng sau đó đó chuyển đi khu vực
khác để sinh sống. Sau khi ông Hồng V Bế Thị V không còn sử dụng
thì năm 1992 ông Văn H Lộc Thị S đã tiếp tục quản sử dụng
đã tạo dựng các tài sản trên đất. Quá trình ông Văn H Lộc Thị S quản
lý, sử dụng ông Mã Hồng V, Bế Thị V và các anh em của ông Văn H đều
biết nhưng không có ý kiến gì. Năm 1994 ông Mã Văn H đã được nhà nước giao
quyền quản sử dụng rừng đất trồng rừng. Năm 2005 khai cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất này thửa số 319; năm 2011
được cấp đổi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất số 83, tờ bản đồ số
05. Tại bản kết luận giám định pháp cũng đã khẳng định diện tích tranh chấp
thuộc thửa đất số 319 cấp lần đầu cho hộ ông Văn H vợ Lộc Thị S
và thuộc thửa đất số 83 cấp đổi giấy chứng nhận cho hộ ông Văn H vợ
Lộc Thị S. Quá trình gia đình ông Văn H quản lý, sử dụng không ai
tranh chấp và đã tạo lập được nhiều tài sản trên đất tại khu vực xung quanh thửa
đất tranh chấp, còn đối với khu vực tranh chấp là rừng vầu ông Mã Văn H chăm
sóc, quản để ăn măng hằng năm diện tích rừng vầu được mở rộng thêm.
Như vậy, ông Văn H đã được nhà nước công nhận quyền quản lý, sử dụng
đất được đảm bảo quyền lợi của người sử dụng đất theo quy định của Luật
Đất đai năm 2003. Việc xảy ra tranh chấp do ông Văn D tự ý trồng cây
vào khu đất mà ông Văn H đã được nhà nước công nhận vi phạm các quy
định của Luật đất đai. Ông Văn D cho rằng đây đất của bố m để lại
nhưng khi chuyển giao đất cho ông Văn D, Bế Thị V không chứng minh
được quyền quản lý, sử dụng hợp pháp đối với thửa đất này. Đồng thời ông
Văn D và các anh em trong gia đình đều thừa nhận đã được bố mẹ chia đất cho
các vị trí khác. Đối với những người làm chứng cho rằng là bà Bế Thị V đã quản
rừng vầu từ năm 1985 nhưng chỉ nói chung chung, không nói Bế Thị V
quản lý, sử dụng như thế nào. Từ những phân tích trên đnghị Hội đồng xét xử
7
căn cứ các Điều 50, 105, 166, 203 Luật Đất đai năm 2003; Điều 158, 163, 221
Bộ luật Dân stuyên chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông
Mã Văn H. Buộc ông Mã Văn D trả lại diện tích đất tranh chấp 1107,2 m
2
thuộc
một phần thửa đất số 83, tờ bản đồ số 05 tờ bản đồ địa chính xã B, huyện Đ, tỉnh
Lạng Sơn cho gia đình ông Văn H quản lý, sử dụng; buộc gia đình ông
Văn D di dời 72 cây hồi trên đất tranh chấp; công nhận quyền sở hữu đối với 01
cây trám toàn bộ cây vầu trên đất cho ông n H. Không chấp nhận yêu
cầu hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bị đơn. Về chi phí tố
tụng và án phí đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.
Người bảo v quyền lợi ích hợp pháp của bị đơn, bà Chu Bích T trình
bày: Căn cứ và các tài liệu chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa cho thấy
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn không căn cứ để chấp nhận vì các do
sau: Nguyên đơn cho rằng diện tích đất tranh chấp đã được nhà nước giao quyền
quản lý sdụng rừng đất trồng rừng từ năm 1994 không căn cứ.
Theo kết luận giám định pháp đã thể hiện diện tích đất tranh chấp không
thuộc thửa đất trong hồ sơ giao quyền quản lý và sử dụng rừng và đất trồng rừng
đã cấp cho hộ ông Văn H; Lời khai của nguyên đơn nhiều mâu thuẫn,
theo bản tự khai, biên bản lấy lời khai cho rằng thửa đất nguồn gốc do gia
đình ông tự khai phá, còn theo đơn khởi kiện ông cho rằng thửa đất này là do bố
mẹ chia cho ông, điều đó thể hiện lời khai của nguyên đơn là sự gian dối;
Theo biên bản hòa giải đã kết luận ông Văn H không canh tác, sử
dụng đối với diện tích đất tranh chấp nên các văn bản trả lời của Ủy ban nhân
dân huyện cho rằng đất được cấp đúng quy định không phù hợp; Lời khai
của phía gia đình bị đơn những người làm chứng đều cùng cho rằng thửa đất
tranh chấp là do bà Bế Thị V quản lý, sử dụng từ năm 1985 đến nay; lời khai của
các anh, em trong gia đình đều thừa nhận thửa đất này chưa chia cho ai; việc
không đi khai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do phía bị đơn cho
rằng diện tích đất không đáng kể và không tranh chấp với ai. Từ những phân
tích trên cho thấy Bế ThV quá trình quản lý, sử dụng rừng vầu liên tục
lâu dài. Do đó việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho gia đình ông
Văn H đối với thửa đất này không đúng đối tượng. Đề nghị Hội đồng xét xử
căn cứ Điều 160, 161, 163, 164, 169 Bộ luật Dân sự năm 2015, Điều 105, 107
Luật Đất đai năm 2003. Điều 166, 170, 179, 203 Luật Đất đai năm 2013; Điều
147, 157, 165 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 12 Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ
Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí
lệ phí Tòa án. Đề nghị tuyên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn ông Văn H về việc được tiếp tục quản lý, sử dụng toàn bộ diện tích đất
tranh chấp 1.107,2m
2
tại N, Thôn C, B, huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn.
Buộc ông Văn H gia đình chấm dứt hành vi tranh chấp đối với diện tích
đất tranh chấp. Ông Văn D được quyền sở hữu tài sản trên đất gồm 72 cây
hồi, 01 cây trám và toàn bộ số cây vầu trên đất. Hủy một giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất đã cấp cho hộ ông Văn H đối với diện tích đất tranh chấp. Về
chi phí tố tụng: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn không được chấp nhận
8
nên buộc ông Văn H phải chịu toàn bộ chi phí tố tụng. Về án phí ông
Văn H phải chịu, trường hợp ông Văn D phải chịu án phí thì đề nghị Hội
đồng xét xử xem xét miễn án phí cho ông Văn D do ông Văn D là người
dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn.
Ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đình Lập,
tỉnh Lạng Sơn tại phiên tòa: Về việc chấp hành pháp luật tố tụng, từ khi thụ
vụ án đến trước khi xét xử, Thẩm phán, Thư ký đã tiến hành tố tụng, thu thập tài
liệu chứng cứ đúng trình tự thủ tục, mphiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp
cận công khai chứng cứ, tổ chức hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử
chuyển hồ cho Viện kiểm sát nghiên cứu đúng quy định. Thành phần tham
gia xét xử tại phiên tòa đảm bảo đúng quy định. Quá trình tiến hành tố tụng tại
phiên tòa Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư phiên tòa thực hiện đúng quy
định của pháp luật. Từ khi thụ vụ án cũng như tại phiên tòa các đương sđã
thực hiện đầy đủ quyền nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại các Điều 70, 71,
72, 73, 75, 76, 77, 78 và Điều 234 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về quan điểm giải quyết vụ án: Sau khi phân tích đánh giá nội dung vụ án
sở xác định v ngun gốc, quá trình quản lý sử dụng thể hiện năm 2005 gia
đình ông Văn H được nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang
tên ông Văn H thuộc thửa đất s319, diện tích 42.000m
2
đến năm
2011 được cấp đổi từ sổ bìa đỏ thành sổ bìa hồng cho gia đình ông Mã Văn H
Lộc Thị S thuộc thửa đất s 83, t bn đ số 05 t bản đồ địa chính xã B, huyn
Đ s dụng phù hợp với bn bn xem xét thẩm đnh ti ch, p hợp với hiện trng s
dng đất mà ông Mã Văn H đã được cơ quan có thẩm quyền cp giấy chứng nhận
quyn sử dụng đt là đm bảo theo quy đnh của pháp luật đt đai và các văn bn
hưng dn thi hành tại thời điểm cấp giấy n có căn c chp nhận đối với yêu cầu
khởi kiện của nguyên đơn ông Văn H về việc được quản lý, sử dụng diện
tích đất 1.107,2 m
2
thuộc một phần thửa đất s83, tbn đ s05 t bn đồ địa
chính xã B, huyện Đ và tài sn trên đất tranh chấp gồm 01 cây trám mọc tự nhiên
có đường kính gốc 21 cm và 653 cây vầu (tương đương với mật độ trung bình là
5.900 cây/ha) mọc tự nhiên đã ra lá, cành trên din tích đất tranh chp n việc ông
Văn D Bế Thị V yêu cầu Tòa án xem xét hủy một phần giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông Mã Văn H và bà Lộc Thị S đối với phần
diện tích đang tranh chấp là 1.107,2m
2
thuộc một phần thửa đất số 83, tờ bản đs
05 tbản đđịa chính xã B, huyn Đình Lp không có căn cứ.
Đối với việc ông Mã Văn H yêu cầu di dời 72 cây hồi do gia đình ông
Văn D trồng trên diện tích đất tranh chấp. Xét thấy việc di dời cây trồng từ chỗ
này sang chỗ khác sẽ gây ảnh hưởng đến quá trình phát triển, tỷ lệ sống của cây
thấp. Do vậy việc yêu cầu di dời 72 cây hồi ông Văn H không được chấp
nhận mà ông Mã Văn H có trách nhiệm thanh toán giá trị 72 cây hồi cho ông
Văn D tương ứng với giá trị tài sản là 72 cây x 100.000 đồng = 7.200.000 đồng).
Đ nghị Hi đồng xét xử căn cĐiều 4, 5, 26, 100, 166, 170, 179 và Điu 203
Lut Đất đai năm 2013; Căn cứ c Điều 158, 160, 161, 163, 164, 169, 221, 275 của
9
B luật Dân sự năm 2015; Căn cứ các Điu 26, 35, 39, 147, 157, 158, 161, 165, 166,
227, 228, 229 ca Bluật Ttng n sự m 2015:
Căn c điểm đ khoản 1 Điều 12; điu 14, khon 6 Điều 15, điều 24, khoản 2
Điu 26, khon 2 Điu 27 Nghquyết s326/2016/UBTVQH 14 ny 30-12-2016
ca U ban Thường vụ Quc hi khoá 14 quy định về mc thu, min, giảm, thu np,
qun lý sử dụng án p và lp T án.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Văn H, bà Lộc Thị
S, anh Văn H, chị Thị P, chị ThX, chị Thị T được quyền quản
lý, sử dụng diện tích đất 1.107,2 m
2
thuộc một phần thửa đất số 83, tờ bản đsố
05 bản đồ địa chính đất lâm nghiệp xã B, huyện Đ, tỉnh Lạng Sơn.
Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc di dời 72 cây hồi. Gia
đình nguyên đơn gồm: Ông Văn H, Lộc Thị S, anh Văn H, chị
Thị P, chị Thị X, chThị T được sở hữu 72 cây hồi đường kính dưới
02 cm; 01 cây trám có đường kính 21cm và 653 cây vầu đã ra lá cành. Đồng thời
ông Văn H trách nhiệm thanh toán giá trị tài sản trên đất là 72 cây hồi
cho ông Mã Văn D và bà Hoàng Thị N với tổng số tiền là 7.200.000 đồng.
Buộc ông Mã Văn D, bà Hoàng Thị N, anh Mã Trần B, bà Bế Thị V chấm
dứt hành vi tranh chấp đối với diện tích đất và tài sản gắn liền với đất tranh chấp
1.107,2 m
2
thuộc một phần thửa đất số 83, tờ bn đ số 05 tờ bản đđịa chính xã B
đã cấp cho hộ ông Mã Văn H và bà Lộc Thị S.
Về chi phí tố tụng: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên
nguyên đơn không phải chịu chi phí tố tụng. Buộc bị đơn ông n D phải
chịu toàn bộ chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, định giá tài sản chi phí giám
định tư pháp theo quy định của pháp luật.
Về án phí dân sự thẩm: Nguyên đơn ông Văn H phải chịu án phí
dân sự thẩm có giá ngạch tương ứng với số tiền phải thanh toán giá trị tài sản
trên đất. Bị đơn ông Văn D người dân tộc thiểu số, sinh sống vùng
điều kiện kinh tế xã hi đặc biệt khó khăn nên xem xét miễn án phí cho bị đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa vắng mặt những người quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan là bà Mã Thị T đã có người đại diện theo ủy quyền, người đại
diện hợp pháp của Ủy ban nhân nhân huyện Đ, tỉnh Lạng Sơn đã đơn xin xét
xử vắng mặt. Những người làm chứng ông Vi Văn H, Nông Thị L, ông
Hoàng Bách C, ông Văn G, ông Văn Đ vắng mặt nhưng đã lời khai
trong hồ sơ vụ án. Căn cứ Điều 227, Điều 228, Điều 229 Bộ luật Tố tụng dân sự,
Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt những người trên.
[2] Về quan hpháp luật thẩm quyền giải quyết: Tại đơn khởi kiện
quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn ông Văn H yêu cầu gia đình ông
Văn D trả lại diện tích đất tranh chấp 1.107,2 m
2
, thuộc một phần thửa đất số 83,
10
tờ bản đồ số 05 bản đồ địa chính đất lâm nghiệp năm 2008 B, huyện Đ, tỉnh
Lạng Sơn; yêu cầu gia đình bị đơn di dời số cây hồi đã trồng trên đất; yêu cầu
được sở hữu cây trám và cây vầu trên đất; yêu cầu gia đình ông Văn D chấp
dứt hành vi tranh chấp quyền sử dụng đất. Căn cứ khoản 9 Điều 26 của Bộ luật
Tố tụng dân sự, Tòa án xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là: Tranh chấp
quyền sử dụng đất, yêu cầu sở hữu, di dời tài sản trên đất tranh chấp chấm
dứt hành vi tranh chấp quyền sử dụng đất. Đất tranh chấp được xác định tại
B, huyện Đ, tỉnh Lạng Sơn nên căn cứ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều
35, điểm c khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn.
[3] Những quyền lợi, nghĩa vụ liên quan người tham gia tố tụng phía
nguyên đơn gồm: Lộc Thị S, anh Văn H, chị Thị X, chị Thị T,
chị Thị P vợ các con của nguyên đơn. Những có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan người tham gia tố tụng phía bị đơn gồm: Bà Hoàng Thị N, anh
Trần B, Bế Thị V, bà Mã Thị V, bà Thị T, bà Thị L vcon của bị
đơn, mẹ và các chị em của nguyên đơn, bị đơn.
[4] Xác định diện tích đất tranh chấp tài sản gắn liền với đất: Theo
Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 02/01/2024 xác định đất tranh chấp
giữa ông Văn H với ông Văn D diện tích 1107,2 m
2
thuộc một
phần thửa đất số 83, tbản đồ số 05 bản đđịa chính đất lâm nghiệp năm 2008
B, huyện Đ, tỉnh Lạng n; đất tranh chấp địa danh N, thuộc Thôn C,
B, huyện Đ, tỉnh Lạng Sơn. Diện tích đất tranh chấp 1107,2 m
2
gồm các phía
tiếp giáp điểm nối các đỉnh thửa A1-A2-A3-A4-A5-A6 được thể hiện tại
Trích đo khu đất tranh chấp hiệu 01-2024, ngày 02/01/2024 do Công ty
S, Chi nhánh Lạng Sơn thực hiện. Tài sản trên đất tranh chấp gồm 72 y hồi
đường kính gốc dưới 02cm, 01 cây trám có đường kính gốc 21cm 653 cây
vầu đã ra cành (số cây được tính theo phương pháp quay ô tiêu chuẩn xác
định mật độ trung bình cây vầu trên đất tranh chấp là 5.900cây/ha).
[4] Về nguồn gốc đất tranh chấp: Nguyên đơn, bị đơn và những người
quyền lợi nghĩa vụ liên quan đều thừa nhận rằng khoảng năm 1985 vợ chồng
ông Hồng V, Bế Thị V là bố mcủa nguyên đơn bị đơn đã làm nhà
đồi N, Thôn C, B, huyện Đ, tỉnh Lạng Sơn đồng thời khai phá thửa đất cạnh
nhà để trồng hoa màu và quản lý diện tích đất rừng vầu để lấy măng, lấy cây vầu
phục vụ cho cuộc sống hằng ngày trồng cây hồi tiếp giáp với diện tích đất
rừng vầu. Phần diện tích đất rừng vầu chính là diện tích đất đang tranh chấp hiện
nay. Đến khoảng năm 1990 thì ông Hồng V Bế Thị V chuyển đi nơi
khác sinh sống. Nguyên đơn cho rằng, sau khi bố mẹ chuyển đi nơi khác đã tiến
hành khai phá và quản lý, sử dụng thửa đất này đồng thời tiến hành khai làm
thủ tục cấp đất 03 lần, cụ thể, năm 1994 gia đình ông đã khai để cấp hồ
giao quyền quản lý và sử dụng rừng và đất trồng rừng là lô đất tại khoảnh 4, tiểu
khu 478 với diện tích 6,3 ha; Năm 2005 tiến hành khai làm thủ tục cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất số 319, diện tích 42.000 m
2
; năm
2011 làm thủ tục cấp đổi giấy chứng nhận quyền sdụng đất thửa đất số 83,
11
diện tích 52.998,0 m
2
. Như vậy, xác định nguyên đơn có các giấy tờ về quyền sử
dụng đất chứng minh về nguồn gốc đất tranh chấp.
[5] Về quá trình quản lý, sử dụng diện tích đất tranh chấp: Nguyên đơn
cho rằng quản lý diện tích đất rừng vầu từ năm 1992. Bị đơn ông Văn D cho
rằng Bế Thị V người quản lý, sử dụng từ năm 1985 đến năm 2023 để ăn
măng. Tháng 4/2023 Bế Thị V bảo vợ chồng bị đơn trồng cây hồi thì xảy ra
tranh chấp. Bà Bế Thị V cũng cho rằng từ năm 1985 bà đã quản lý rừng vầu, đến
năm 2003 Văn D kết hôn với Hoàng Thị N thì hai vợ chồng cũng tham gia
vào việc quản lý, sử dụng đất. Năm 2023 thì cho vợ chồng Văn D và
Hoàng Thị N thửa đất này để trồng hồi. Xét thấy, khu đất tranh chấp rừng
vầu, cây mọc tự nhiên hằng năm diện tích đất rừng vầu mở rộng do đặc tính
phát triển của cây vầu. Trước khi xảy ra tranh chấp thì chưa có ai trồng cây hoặc
tác động vào đất cả hai bên đều cùng nhau lấy măng, cây vầu trên khu đất
này để phục vụ cuộc sống. Điều đó cho thấy việc quản lý, sử dụng đất của các
đương sự chưa được thể hiện ràng. Tuy nhiên, phía nguyên đơn đã tiến hành
khai phá trồng cây xung quanh diện tích đất tranh chấp kể cả phần diện tích
trước đây ông Hồng Vân, Bế Thị V làm nhà. Đồng thời bị đơn
những người quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phía bị đơn cũng thừa nhận ông
Hồng Vân đã chia cho ông Văn H phần đất trồng hồi liền kề với diện
ch đất rừng vầu được sđồng ý của cả gia đình. Quá trình gia đình ông
Văn H khai phá, sử dụng đấtBế Thị V các anh chị em của ông Mã Văn H
đều biết không ý kiến gì. Ngoài ra khi ông n H thực hiện thủ tục
cấp giấy chứng nhận quyền s dụng đất, ông Văn D các chị em của ông
Văn H, Văn D cũng khai được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cùng thời điểm với ông Văn H nhưng không ai khiếu nại, tranh
chấp . Như vậy, căn cứ xác định gia đình ông Văn H quản lý, sử dụng
hợp pháp đối với đất tranh chấp.
[6] Về trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: Tại Công
văn số 2542/UBND-TNMT, ngày 21/11/2023 và Công văn số 465/UBND-
TNMT ngày 15/3/2024 của Ủy ban nhân dân huyện Đ, tỉnh Lạng Sơn và các tài
liệu chứng cứ kèm theo thể hiện trình tự, thủ tục cấp mới, cấp đổi giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cho ông Văn H Lộc Thị S thực hiện đúng
theo quy trình, trình tự, thủ tục theo quy định tại Điều 123 Luật đất đai năm
2003 Điều 135 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của chính
phủ về thi hành Luật đất đai. Về yêu cầu của bị đơn Mã Văn D đề nghị hủy giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất trên là không có cơ sở.
[7] Căn cứ kết luận giám định pháp ngày 24/5/2024 của người giám
định theo vụ việc ông Nông Trường N kết luận: Diện tích đất tranh chấp không
thuộc đất số 314, khoảnh 4, tiểu khu 478, diện tích 6,3 ha được Ủy ban nhân
dân huyện Đ giao đất theo Quyết định số 38/UB-ngày 14/3/1994 cho hộ
ông Mã Văn H. Đối chiếu với bản đồ lâm nghiệp năm 2005 xã B, đất tranh chấp
thuộc thửa đất số 319 cấp cho hộ ông Văn H và vợ Lộc Thị S theo
bản đồ lâm nghiệp năm 2008 đất tranh chấp thuộc thửa đất số thuộc thửa đất số
12
83 cấp cho hộ ông Mã Văn H và bà Lộc Thị S. Mặc dù, diện tích đất tranh chấp
không nằm trong hồ giao quyền quản sdụng rừng đất trồng rừng
nhưng gia đình ông Mã Văn H đã có quá trình quản lý, sử dụng đất từ năm 1994
thông qua việc tạo lập i sản trên đất xung quanh khu đất tranh chấp và quản
rừng vầu. Đến năm 2005 khai cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được
Nhà nước xác lập quyền sử dụng đất hợp pháp từ đó đến nay.
[8] Theo chính sách, pháp luật đất đai của Nhà nước ta qua các thời kỳ thì
đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nnước thống nhất quản lý. Trước khi Luật
Đất đai năm 1993 ra đời, Nhà nước không xác lập quyền sử dụng đất cho
nhân, hộ gia đình (Luật Đất đai năm 1987). Sau khi Luật Đất đai năm 1993
hiệu lực pháp luật (ngày 15/10/1993), Nhà nước xác lập quyền sử dụng đất cho
nhân, hộ gia đình. Người sử dụng đất được cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất được Nhà nước bảo hộ khi bị người khác xâm phạm đến quyền, lợi ích
hợp pháp về đất đai của mình. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chứng thư
pháp để Nhà nước xác nhận quyền s dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản
khác gắn liền với đất hợp pháp của người quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
tài sản khác gắn liền với đất.
[9] Từ những phân tích trên có căn cứ chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn,
gia đình nguyên đơn được quyền quản lý, sử dụng diện tích 1107,2m
2
thuộc thửa
đất số 83, tờ bản đồ số 05 tờ bản đồ địa chính đất lâm nghiệp B, huyện Đ,
tỉnh Lạng Sơn.
[10] Đối với tài sản trên đất: Theo Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ
ngày 02/01/2024 của Tòa án nhân dân huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn thể hiện
trên diện tích đất tranh chấp tổng số 72 cây hồi đường kính gốc dưới
02cm, 01 cây trám đường kính gốc 21 cm 653 cây vầu (tương đương
với mật độ trung bình 5.900 cây/ha). Trong đó có 72 cây hồi do gia đình bị
đơn trồng vào tháng 4/2023, còn 01 cây trám và 653 cây vầu là tmọc. Nguyên
đơn yêu cầu được sở hữu cây trám toàn bộ số cây vầu trên đất, yêu cầu gia
đình bị đơn phải di dời toàn bộ số cây hồi. Hội đồng xét xử xét thấy đối với cây
trám cây vầu những cây tnhiên mọc trên đất tranh chấp nên thuộc quyền
sở hữu của nguyên đơn. Đối với yêu cầu di dời số cây hồi bị đơn trồng trên đất,
xét thấy, cây hồi mới trồng đang trong giai đoạn phát triển nên việc di dời sẽ ảnh
hưởng đến việc phát triển của cây. vậy, không chấp nhận yêu cầu di dời cây
của nguyên đơn. Giao cho nguyên đơn sở hữu 72 cây hồi trách nhiệm
thanh toán gtrị tài sản cho bị đơn theo kết quả định giá của Hội đồng định giá
tài sản, cụ thể: 72 cây x 100.00đồng/cây = 7.200.000 đồng.
[11] Do yêu cầu của nguyên đơn có căn cứ chấp nhận như phân tích ở trên
nên yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bị đơn không
sở.
[12] Về chi ptố tụng: Chi phí xem xét thẩm định tại chỗ, định giá tài
sản đo đạc 12.410.000 đồng; chi phí giám định pháp 1.724.000 đồng.
Tổng cộng 14.134.000 đồng. Do các bên không thỏa thuận được về trách
13
nhiệm chịu chi phí tố tụng yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận
nên căn cứ quy định tại các Điều 157, Điều 158, Điều 165, Điều 166 Bộ luật T
tụng dân sự, b đơn ông Mã Văn D phải chịu toàn bộ chi phí tố tụng là
14.134.000 đồng. S tiền này nguyên đơn đã tạm ứng chi trả nên bị đơn ông
Văn D có trách nhiệm trả lại cho nguyên đơn số tiền này.
[13] Về án phí: Theo quy định tại Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự, khoản
3 Điều 26, điểm a khoản 2 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày
30/12/2016 của Uỷ ban Thường v Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu,
miễn, giảm, thu nộp, quản và sử dụng án phí lệ phí Tòa án, do yêu cầu của
nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn ông Văn D phải chịu án phí dân s
thẩm không giá ngạch 300.000 đồng để sung công quỹ Nhà nước. Tuy
nhiên, ông Văn D người dân tộc thiểu số sinh sống vùng điều kiện
kinh tế hội đặc biệt khó khăn đơn xin miễn án phí nên được miễn toàn
bộ án phí. Nguyên đơn phải thanh toán giá trị tài sản trên đất cho bị đơn với số
tiền 7.200.000 đồng nên phải chịu án phí dân sự thẩm có giá ngạch
360.000 đồng. Số tiền này được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000
đồng nguyên đơn đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Đình Lập.
Ông Mã Văn H còn phải nộp tiếp số tiền 60.000 đồng.
[14] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đình Lập,
tỉnh Lạng Sơn đề nghị của người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của
nguyên đơn căn cứ, phù hợp với các quy định của pháp luật nên được Hội
đồng xét xử chấp nhận. Đề nghị của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
bị đơn là không có căn cứ nên không được chấp nhận.
[15] Các đương sự quyền kháng cáo bản án trong thời hạn theo quy
định tại Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào các Điều 2, 3, 5, 6, 9, 48, 49 của Luật Đất đai năm 2003;
Căn cứ vào các Điều 4, 5, 26, 100, 166, 170, 179, 203 Luật Đất đai năm
2013;
Căn cứ các Điều 158, 160, 161, 163, 164, 169, 221, 275 của Bộ luật Dân
sự năm 2015;
Căn cứ khoản 9 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm c khoản 1 Điều
39, khoản 1 Điều 147, khoản 1 Điều 157, Điều 158, Điều 161, khoản 1 Điều
165, Điều 166, khoản 2 Điều 227, Điều 228, 229, 271, Điều 273 của Bộ luật Tố
tụng dân sự;
Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12, Điều 14, khoản 6 Điều 15, Điều 24,
khoản 2 Điều 26, điểm a, b khoản 2 Điều 27 của Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 ngày 30/12/2016 của Uban Thường
vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý sử
14
dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông n H về quyền
sử dụng đất.
Ông Văn H, Lộc Thị S, anh Văn H, chị Thị P, chị Thị
X, chị Mã Thị T được quyền quản lý, sử dụng diện tích đất 1107,2 m
2
thuộc một
phần thửa đất s83, tờ bản đồ số 05 bản đồ địa chính đất lâm nghiệp năm 2008
B, huyện Đ, tỉnh Lạng Sơn. Đất đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho hộ ông Văn H theo số BN 503897, số vào sổ cấp giấy chứng nhận
CH-00964, cấp ngày 21/3/2011. Diện tích đất tranh chấp 1107,2 m
2
gồm các
điểm các nối các đỉnh thửa A1-A2-A3-A4-A5-A6 được thể hiện tại Trích đo khu
đất tranh chấp kèm theo Bản án.
2. Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc di dời 72 cây hồi.
2.1. Ông Văn H, Lộc Thị S, anh Văn H, chị Thị P, chị
Thị X, ch Thị T được sở hữu 72 cây hồi đường kính dưới 02 cm; 01 cây
trám có đường kính 21cm; 653 cây vầu đã ra lá cành.
2.2. Ông Văn H trách nhiệm thanh toán giá trị tài sản trên đất (72
cây hồi) cho ông Văn D Hoàng Thị N với tổng số tiền 7.200.000đ
(bẩy triệu hai trăm nghìn đồng).
3. Buộc ông n D, Hoàng Thị N, anh Trần B, bà Bế Thị V
chấm dứt hành vi tranh chấp đối với diện ch đất và tài sản gắn liền với đất nêu
tại mục 1 và 2.1.
4. Về chi phí tố tụng: Bị đơn ông Văn D phải chịu toàn bộ chi phí
xem xét thẩm định tại chỗ, định giá tài sản và chi phí giám định tư pháp với tổng
số tiền 14.134.000đ (mười bốn triệu một trăm ba mươi nghìn đồng). Ông
Văn D trách nhiệm trả cho ông Văn H số tiền 14.134.000đ (mười
bốn triệu một trăm ba mươi tư nghìn đồng) tiền chi phí t tụng.
5. Về án phí dân sự sơ thẩm:
Nguyên đơn ông Văn H phải chịu án phí dân sự thẩm giá ngạch
là 360.000đ (ba trăm sáu mươi nghìn đồng) để sung công quỹ Nhà nước. Số tiền
án phí được khấu trừ vào số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án
phí đã nộp theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2021/0003784 ngày
23/10/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn. Sau
khi khấu trừ ông Văn H phải nộp tiếp số tiền 60.000đ (sáu mươi nghìn
đồng).
Bị đơn ông Mã Văn D được miễn toàn bộ tiền án phí dân sự sơ thẩm.
6. Về nghĩa vụ chịu lãi chậm trả: Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật
(đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi
hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án
(đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi
hành xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải
15
thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân
sự, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
7. Về quyền kháng cáo: Các đương sự mặt tại phiên tòa quyền
kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; các đương sự
vắng mặt quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận
được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2
Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành
án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện
thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 9
Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy
định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Lạng Sơn;
- VKSND huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn;
- CCTHADS huyện Đình Lập, tỉnh Lạng Sơn;
- Các đương sự;
- Lưu: hồ sơ vụ án.
TM.HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN-CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
(đã ký)
Lành Thị Vệ
Tải về
Bản án số 03/2024/DS-ST Bản án số 03/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án số 03/2024/DS-ST Bản án số 03/2024/DS-ST

Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!

Bản án/ Quyết định cùng đối tượng

Bản án cùng lĩnh vực

Bản án mới nhất