Bản án số 02/2024/HNGĐ-ST ngày 02/04/2024 của TAND huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang về vụ án ly hôn do một bên bị mất tích
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 02/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 02/2024/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 02/2024/HNGĐ-ST
| Tên Bản án: | Bản án số 02/2024/HNGĐ-ST ngày 02/04/2024 của TAND huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang về vụ án ly hôn do một bên bị mất tích |
|---|---|
| Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn do một bên bị mất tích |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Tòa án xét xử: | TAND huyện Đồng Văn (TAND tỉnh Hà Giang) |
| Số hiệu: | 02/2024/HNGĐ-ST |
| Loại văn bản: | Bản án |
| Ngày ban hành: | 02/04/2024 |
| Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
| Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
| Thông tin về vụ/việc: | 1 bên mất tích |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
TOÀ ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN Đ
TỈNH HÀ GIANG
––––––––––
Bản án số: 02/2024/HNGĐ-ST
Ngày 02 tháng 4 năm 2024
(V/v ly hôn giữa anh S và chị S1)
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
–––––––––––––––––––––––––––
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH HÀ GIANG
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Bùi Văn Đàm
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Hoàng Minh Đức
Bà Lương Thị Nhiễu
- Thư ký phiên tòa: Ông Đặng Văn Tình - Thẩm tra viên Tòa án nhân
dân huyện Đ, tỉnh Hà Giang
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ tham gia phiên toà: Ông
Nguyễn Văn Cương - Kiểm sát viên.
Trong các ngày 06 tháng 3 năm 2024 và 02 tháng 4 năm 2024, tại trụ sở
Toà án nhân dân huyện Đ, tỉnh Hà Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý
số: 17/2023/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 11 năm 2023, về việc ly hôn, tranh
chấp về nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2024/QĐXX-ST
ngày 01 tháng 02 năm 2024 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Anh Vàng Mí S - Sinh năm 1992; Địa chỉ: Thôn CL, xã LT,
huyện Đ, tỉnh Hà Giang (Có mặt);
Bị đơn: Chị Ly Thị S1 - Sinh năm 1991; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú
và nơi cư trú cuối cùng: Thôn CL, xã LT, huyện Đ, tỉnh Hà Giang; đã bị tuyên
bố mất tích theo Quyết định sơ thẩm giải quyết việc dân sự số: 03/2023/QĐST-
VDS ngày 10/3/2023 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Hà Giang. (Vắng mặt).
Người phiên dịch tiếng Mông: Anh Mua Mí Chá; địa chỉ: Tổ 6, thị trấn
Đ, huyện Đ, tỉnh Hà Giang. (Có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Tại đơn khởi kiện đề ngày 11/10/2023 cùng các tài liệu kèm theo đơn và
trong quá trình xét xử, nguyên đơn Vàng Mí S trình bày: Nguyên đơn và bị đơn
là chị Ly Thị S1 kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày
20/6/2011 tại Uỷ ban nhân dân xã LT, huyện Đ, tỉnh Hà Giang. Sau đó, hai vợ
chồng sống chung tại thôn CL, xã LT, huyện Đ, tỉnh Hà Giang. Vợ chồng chung
sống với nhau hạnh phúc, không phát sinh mâu thuẫn gì. Đến tháng 5/2016, do
2
hoàn cảnh gia đình khó khăn, anh S sang Trung Quốc làm, đến tháng 11/2016
vợ anh là chị S1 đã bỏ nhà đi khỏi địa phương không rõ nguyên nhân. Từ khi chị
S1 bỏ đi, anh và gia đình đã báo chính quyền và tìm kiếm nhiều nơi nhưng
không có tin tức gì về chị S1 còn sống hay đã chết. Đến ngày 11/10/2022, anh S
có đơn yêu cầu Tòa án giải quyết tuyên bố chị S1 mất tích. Quyết định giải
quyết việc dân sự số 03/2023/QĐST-DS ngày 10/3/2023 của Tòa án nhân dân
huyện Đ, tỉnh Hà Giang đã tuyên bố chị Ly Thị S1 mất tích. Kể từ khi có Quyết
định của Tòa án tuyên bố chị Ly Thị S1 mất tích đến nay anh S cũng không có
tin tức gì về chị S1. Nay anh S có đơn yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Đ giải
quyết cho anh được ly hôn với chị Ly Thị S1.
Về con chung: Trong suốt quá trình giải quyết vụ án, do nhận thức không
đầy đủ nên anh chỉ khai là vợ chồng anh có hai con chung là cháu Vàng Thị M
và cháu Vàng Thị P mà không khai có cháu Vàng Thị K, vì nghĩ rằng cháu K đã
đi theo mẹ từ nhỏ, đến nay vẫn biệt tích. Nay tại phiên tòa, anh xác định lại quá
trình chung sống, anh và chị S1 có ba con chung là cháu Vàng Thị M (sinh ngày
24/9/2012), cháu Vàng Thị P (sinh ngày 23/12/2014) và cháu Vàng Thị K (sinh
ngày 02/7/2016). Nay hai cháu Vàng Thị M, Vàng Thị P đang sống cùng anh,
còn cháu Vàng Thị K đã biệt tích cùng với mẹ từ tháng 11/2016. Khi ly hôn, anh
xin được trực tiếp trông nom chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục hai cháu Vàng Thị
M, Vàng Thị P cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi theo nguyện vọng của các cháu,
không yêu cầu chị S1 phải cấp dưỡng nuôi con. Riêng cháu Vàng Thị K đã biệt
tích cùng chị S1, đến nay không có tin tức gì. Anh không yêu cầu Tòa án xem
xét, giải quyết về cháu Vàng Thị K trong vụ án này, do có muốn anh cũng
không thể trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu được. Khi
nào xác định được thông tin xác thực về cháu, anh sẽ đề nghị cơ quan có thẩm
quyền giải quyết sau.
Về tài sản, công nợ chung: Anh S xác nhận quá trình chung sống vợ
chồng không tạo lập được khối có tài sản chung nào; vợ chồng anh cũng không
nợ ai hoặc cho ai nợ tài sản gì. Do vậy, anh không yêu cầu Toà án giải quyết.
Về án phí: Anh là đồng bào dân tộc thiểu số, sống ở vùng có điều kiện
kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và có đơn xin miễn án phí nên đề nghị Hội
đồng xét xử miễn án phí cho anh theo quy định.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh Hà Giang
phát biểu ý kiến:
Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán và Hội đồng xét xử:
Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án đã thực hiện đúng, đầy đủ
quy định tại Điều 48 Bộ luật tố tụng dân sự. Trong thời gian chuẩn bị xét xử
Thẩm phán đã thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ của mình theo quy định của
pháp luật. Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký tại phiên tòa:
Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về
việc xét xử sơ thẩm vụ án, tiến hành khai mạc phiên tòa, giới thiệu thành phần
Hội đồng xét xử, quyền và nghĩa vụ của đương sự, thành phần Hội đồng xét xử
3
và Thư ký phiên tòa đã có mặt đầy đủ, không có trường hợp nào phải thay đổi
hoặc phải từ chối tiến hành tố tụng. Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người
tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến
trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ
quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự đúng quy định tại các Điều 70, 71 Bộ luật tố
tụng dân sự. Quan điểm về việc giải quyết vụ án: Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị
Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 53 và khoản 2 Điều 56
của Luật hôn nhân và gia đình, cho anh Vàng Mí S ly hôn với chị Ly Thị S1. Về
con chung: Khi ly hôn, đề nghị Hội đồng xét xử giao con chung là các cháu
Vàng Thị M (sinh ngày 24/9/2012) và cháu Vàng Thị P (sinh ngày 23/12/2014)
cho anh S trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi các
cháu đủ 18 tuổi theo nguyện vọng của anh S và các cháu, chị S1 không phải cấp
dưỡng nuôi con. Riêng cháu Vàng Thị K (sinh ngày 02/7/2016) thì chị Ly Thị
S1 đã đưa đi biệt tích cùng chị từ tháng 11/2016 đến nay không có tin tức gì. Do
anh S không yêu cầu nên đề nghị Tòa án không xem xét giải quyết về cháu
Vàng Thị K trong vụ án này. Về tài sản, công nợ chung: Không xem xét. Về án
phí: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12; Điều 14; khoản
6 Điều 15 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 để miễn
án phí dân sự sơ thẩm cho anh Vàng Mí S.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về tố tụng: Đơn khởi kiện của anh Vàng Mí S về việc xin ly hôn với
chị Ly Thị S1 được Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Hà Giang thụ lý và giải
quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1
Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự. Quá trình giải
quyết vụ án, Tòa án đã xác định tư cách đương sự, thu thập chứng cứ, ra quyết
định đưa vụ án ra xét xử đúng trình tự, thủ tục luật định. Bị đơn Ly Thị S1 đã bị
Tòa án tuyên bố mất tích nên sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã tiến hành niêm yết
Thông báo về việc thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng. Vụ án thuộc trường hợp
không tiến hành hòa giải được nên Tòa án chỉ tiến hành phiên họp kiểm tra việc
giao nộp, tiếp cận, công khai chứng và thông báo kết quả phiên họp cho bị đơn.
Tuy đã được triệu tập hợp lệ nhưng cả hai phiên tòa, chị S1 đều vắng mặt nên
Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân
sự để xét xử vắng mặt bị đơn.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh Vàng Mí S và chị Ly Thị S1 xác lập quan
hệ vợ chồng theo đúng các quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và có
đăng ký kết hôn vào ngày 20/6/2011 tại Uỷ ban nhân dân xã LT, huyện Đ, tỉnh
Hà Giang, nên có cơ sở kết luận quan hệ hôn nhân giữa chị S1 và anh S là hợp
pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống chung với nhau hạnh phúc tại xã LT,
huyện Đ, tỉnh Hà Giang. Tuy nhiên, từ tháng 11/2016, chị S1 đã bỏ nhà ra đi,
anh S và người thân trong gia đình đã áp dụng mọi biện pháp tìm kiếm nhưng
không xác định được chị S1 hiện đang ở đâu, làm gì. Chị S1 đã bị Tòa án tuyên
bố mất tích theo Quyết định sơ thẩm giải quyết việc dân sự số:
03/2023/QĐST-DS ngày 10/3/2023. Nay anh S xin ly hôn chị S1, nên
4
cần xử cho anh S được ly hôn chị S1 theo quy định tại khoản 1 Điều 51 và
khoản 2 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.
[3] Về con chung: Quá trình chung sống, anh S và chị S1 có ba con chung
là cháu Vàng Thị M (sinh ngày 24/9/2012), cháu Vàng Thị P (sinh ngày
23/12/2014) và cháu Vàng Thị K (sinh ngày 02/7/2016). Khi ly hôn, anh S xin
được trực tiếp trông nom chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục hai cháu Vàng Thị M,
Vàng Thị P cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi theo nguyện vọng của các cháu,
không yêu cầu chị S1 phải cấp dưỡng nuôi con. Riêng cháu Vàng Thị K thì chị
Ly Thị S1 đã đưa đi biệt tích cùng chị từ tháng 11/2016 đến nay, không có tin
tức gì. Xét thấy, mặc dù có muốn anh S cũng không thể trực tiếp trông nom,
chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu được. Chị Ly Thị S1 đã bị Tòa án tuyên bố
mất tích nên cũng không thể giao cháu K cho chị S1 nuôi dưỡng, giáo dục. Nay
anh S không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết về cháu Vàng Thị K trong vụ
án này, nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết. Khi nào xác định được
thông tin xác thực về cháu K, anh S sẽ đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết
sau.
[4] Về tài sản chung: Anh S xác nhận quá trình chung sống vợ chồng
không tạo lập được khối có tài sản chung nào; vợ chồng anh cũng không nợ ai
hoặc cho ai nợ tài sản gì, không yêu cầu Toà án giải quyết nên Hội đồng xét xử
không xem xét.
[5] Về án phí: Anh S là đồng bào dân tộc thiểu số, sống ở vùng có điều
kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và có đơn xin miễn án phí nên Hội đồng
xét xử căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12; Điều 14; khoản 6 Điều 15 của Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn,
giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, miễn án phí dân sự
sơ thẩm cho anh S.
[7] Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều
271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 56; khoản 1, 2 Điều 81; khoản
Điều 82; Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình;
Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12; Điều 14; khoản 6 Điều 15 của Nghị
quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí
Tòa án;
Áp dụng Điều 271 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự,
1. Về quan hệ hôn nhân: Cho anh Vàng Mí S ly hôn với chị Ly Thị S1.
2. Về con chung: Khi ly hôn, giao con chung là cháu Vàng Thị M (sinh
ngày 24/9/2012) và cháu Vàng Thị P (sinh ngày 23/12/2014) cho anh Vàng Mí S

5
trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi; chị
Ly Thị S1 không phải cấp dưỡng nuôi con chung và có quyền thăm nom con
theo quy định của pháp luật, không ai được cản trở quyền này.
3. Về án phí: Miễn án phí dân sự sơ thẩm cho anh Vàng Mí S.
4. Quyền kháng cáo: Anh Vàng Mí S có quyền kháng cáo bản án này
trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án; chị Ly Thị S1 có quyền
kháng cáo bản án này trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được bản
án hoặc bản án được niêm yết.
Nơi nhận:
- VKSND huyện Đ;
- TAND tỉnh;
- Các đương sự;
- UBND xã LT, huyện Đ, tỉnh Hà Giang;
- Lưu hồ sơ vụ án, vp.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Bùi Văn Đàm
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 11/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 11/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 03/09/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 14/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 11/07/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 16/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 11/06/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 21/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 15/05/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 28/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 14/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 06/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 25/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 13/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 12/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 12/02/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 22/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 10/01/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 24/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 11/12/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm