Bản án số 02/2024/DS-ST ngày 01/07/2024 của TAND huyện Ứng Hòa, TP. Hà Nội về tranh chấp hợp đồng bảo hiểm
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 02/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 02/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 02/2024/DS-ST
Tên Bản án: | Bản án số 02/2024/DS-ST ngày 01/07/2024 của TAND huyện Ứng Hòa, TP. Hà Nội về tranh chấp hợp đồng bảo hiểm |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Tranh chấp hợp đồng bảo hiểm |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Ứng Hòa (TAND TP. Hà Nội) |
Số hiệu: | 02/2024/DS-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 01/07/2024 |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | Ban rán |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản
1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN UH-TP HÀ NỘI
Bản án số: 01/2024/DS-ST
Ngày 01 tháng 7 năm 2024
{V/v: Tranh chấp Hợp đồng lao động,
bảo hiểm xã hội}
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN UH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Nguyễn Thành Trung
Các Hội thẩm nhân dân: Bà Nguyễn Thị Vân; Ông Đặng Viết Côi
- Thư ký phiên tòa: Bà Tưởng Thị Lan - Thư ký Tòa án nhân dân huyện Ứng
Hoà, Thành phố Hà Nội.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện UH tham gia phiên toà: Bà Nguyễn
Thị Khuyến - Kiểm sát viên.
Ngày 01 tháng 7 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện UH mở phiên tòa
xét xử sơ thẩm công khai vụ án Lao động thụ lý số: 01/2024/TLST-DS ngày 02 tháng
5 năm 2024, về “Tranh chấp Hợp đồng lao động, Bảo hiểm xã hội” theo Quyết định
đưa vụ án ra xét xử số: 01/2024/QĐXXST-LĐ ngày 14 tháng 5 năm 2024, giữa các
đương sự:
* Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thu H, sinh năm 2000; Nơi ĐKHKTT: thôn YT, xã
TT, huyện UH, Thành phố Hà Nội.
* Bị đơn: Công ty TNHH MTV NV; Trụ sở: thị trấn VĐ, huyện UH, thành phố
Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Hải N – Chức vụ: Giám đốc/
Người đại diện theo ủy quyền: Chị Đoàn Thị Ái P – Chức vụ: Trưởng phòng
Hành chính – nhân sự.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Tưởng Thị H1, sinh năm 1996; Địa chỉ: thôn DK, xã PT, huyện UH, thành
phố Hà Nội;
2. Bảo hiểm xã hội huyện TO, thành phố Hà Nội;
Địa chỉ: thị trấn KB, huyện TO, thành phố Hà Nội
Người đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Thị Bích T – Chức vụ: Giám đốc.
3. Bảo hiểm xã hội huyện UH, thành phố Hà Nội
2
Địa chỉ: thị trấn VĐ, huyện UH, thành phố Hà Nội
Người đại diện theo pháp luật: Ông Ngô Xuân G – Chức vụ: Giám đốc.
4. Bảo hiểm xã hội Thành hố Hà Nội
Địa chỉ: số 15 phố Cầu Đơ, phường Hà Cầu, quận Hà Đông, TP. Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Phan Văn M – Chức vụ: Giám đốc.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, biên bản lấy lời khai, biên bản hòa giải cùng các tài liệu
khác có trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn – chị Nguyễn Thu H trình bày:
Do thiếu hiểu biết pháp luật nên chị đã sử dụng thông tin của chị gái họ của chị
(Tưởng Thị H1, sinh ngày 02/7/1996, quê quán: thôn Văn Ông, xã Tảo Dương Văn,
huyện UH, thành phố Hà Nội, nơi thường trú: thôn DK, xã PT, huyện UH, thành phố
Hà Nội) để được làm công nhân may với các dữ liệu như sau:
+/ Vào tháng 7 năm 2016 đến tháng 12/2018, chị xin việc và đi làm tại công ty
TNHH MTV NV. Do tại thời điểm xin việc chị vẫn còn ít tuổi, không hiểu biết pháp
luật nên chị đã lấy giấy tờ của chị gái họ chị là: Tưởng Thị H1, sinh ngày 02/7/1996,
quê quán: thôn Văn Ông, xã Tảo Dương Văn, huyện UH, thành phố Hà Nội, nơi
thường trú: thôn DK, xã PT, huyện UH, thành phố Hà Nội để ký hợp đồng và trở
thành công nhân của công ty, đồng thời khi đó chị tham gia đóng bảo hiểm xã hội từ
tháng 7 năm 2016 đến hết tháng 12 năm 2018 tại bảo hiểm xã hội huyện TO và bảo
hiểm xã hội huyện UH, mã số sổ 0116117637 với toàn bộ thông tin của chị Tưởng
Thị H1;
Đến tháng 12/2018 chị chấm dứt hợp đồng lao động với công ty TNHH MTV
NV và không sử dụng sổ bảo hiểm số 0116117637 nêu trên nữa.
+/ Từ tháng 8/2017 đến tháng 4 năm 2018 chị Tưởng Thị H1 ký hợp đồng và
làm việc tại Công ty TNHH ANAM ELECTRONICS Việt Nam.
Từ tháng 06/2019 đến tháng 7 năm 2020 chị Tưởng Thị H1 ký hợp đồng và làm
việc tại công ty TNHH Hesheng Technology.
Tháng 8 năm 2021 chị Tưởng Thị H1 ký hợp đồng và làm việc tại công ty
TNHH Neweb Việt Nam.
Trong thời gian này, chị Tưởng Thị H1 tham gia đóng bảo hiểm tại bảo hiểm xã
hội huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang, Bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Nam, mã số sổ
3516072956.
Năm 2021, chị H1 chấm dứt hợp đồng lao động với công ty TNHH Neweb Việt
Nam, tại thời điểm này do ảnh hưởng của dịch covid nên chị H1 được hưởng chế độ
3
hỗ trợ theo quy định của công ty và bảo hiểm xã hội, tuy nhiên, khi làm thủ tục
hưởng chế độ thì bảo hiểm xã hội phát hiện ra chị H1 đang sử dụng 02 mã sổ bảo
hiểm số 3516072956 và 0116117637 với cùng thông tin của chị Tưởng Thị H1 nêu
trên, thời gian đóng bảo hiểm trùng của hai sổ là từ tháng 8/2017 đến tháng 12/2018.
Do đó, hiện nay chị H1 chưa được hưởng chế độ hỗ trợ covid theo quy định.
Để đảm bảo quyền lợi của chị cũng như của chị Tưởng Thị H1, tôi làm đơn này
kính đề nghị Tòa án nhân dân huyện UH tuyên hợp đồng lao động đã kí giữa công ty
TNHH MTV NV với hồ sơ chị mượn tên Tưởng Thị H1, sinh ngày 02/7/1996 là vô
hiệu đối với phần thông tin cá nhân của người lao động, còn về chế độ Bảo hiểm theo
mã số sổ 0116117637 tham gia đóng từ tháng 7/2016 đến tháng 12/2018 thì xin vẫn
được tiếp tục thamg gia mang tên Nguyễn Thu H, sinh ngày 08/9/2000 theo quy định
của Luật bảo hiểm.
Vì công việc của chị rất bận, đi làm xa, con còn nhỏ nên chị đề nghị Tòa án
không tiến hành hòa giải vụ án, đề nghị Tòa án đưa vụ án ra xét xử theo quy định
pháp luật. Chị xin vắng mặt tất cả các buổi làm việc khác của Tòa án, xin vắng mặt
tại phiên tòa xét xử vụ án.
Theo nội dung văn bản trình bày ý kiến cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ
án, Bị đơn – Công ty TNHH MTV NV trình bày: Chị Tưởng Thị H1 sinh ngày
2/7/1996, nộp hồ sơ xin việc làm và vào Công ty TNHH MTV NV làm việc từ ngày
10/3/2016. Bộ hồ sơ xin việc bao gồm các loại hồ sơ cá nhân như: sơ yếu lý lịch và
bản sao giấy khai sinh được xác nhận bởi Phó Chủ tịch, chứng minh thư nhân dân
bản sao, sổ hộ khẩu gia đình bản sao có chứng thực sao y bản chính, giấy xác nhận
nhân sự do trưởng công an xã cấp, giấy khám sức khỏe được bệnh viện Đa KH1 VĐ
cấp. Với bộ hồ sơ hoàn chỉnh trên, Công ty TNHH MTV NV đã nhận chị Tưởng Thị
H1 và làm việc tại tổ 60 và là công nhân vận hành máy may công nghiệp, được
hưởng các chế độ lương thưởng đầy đủ và được tham gia đóng bảo hiểm xã hội theo
quy định hiện hành. Thời gian tham gia đóng bảo hiểm xã hội với số sổ 0116117637
chốt thời gian đóng là 2 năm 6 tháng (từ tháng 7/2016 đến tháng 12/2018). Đến ngày
18/12/2018, công nhân Tưởng Thị H1 nghỉ chế độ thai sản nhưng không cung cấp
được giấy khai sinh của con đúng tên mẹ là Tưởng Thị H1 để công ty làm chế độ.
Công nhân H1 mới khai nhận là hồ sơ xin việc vào công ty làm việc là mượn hồ sơ
của người khác (sơ yếu lý lịch tên H1 nhưng được dán ảnh của H và được xã đóng
dấu giáp lai, chứng minh thư nhân dân của H1 dán đè ảnh của H lên sau đó ép platic
lại, từ đó xin được giấy khám sức khỏe tên H1 và cũng dán ảnh của H, còn các giấy
tờ khác được H1 cung cấp cho H). Hồ sơ nộp vào công ty tên H1 nhưng tên thật và
4
người thật là Nguyễn Thu H đến làm việc, lý do tại thời điểm đó Nguyễn Thu H chưa
đủ 18 tuổi nên phải mượn hồ sơ của H1 và quy định của công ty không nhận lao động
dưới 18 tuổi vào làm việc. Công ty đã chốt sổ bảo hiểm với sổ sổ 0116117637 mang
tên Tưởng Thị H1. Xét thấy, công nhân Nguyễn Thu H đã làm hồ sơ giả, vi phạm
pháp luật trong việc làm giả các loại giấy tờ tùy thân, lừa dối công ty để được nhận
vào làm việc suốt thời gian 2 năm 6 tháng. Nhưng vì sự kém hiểu biết tại thời điểm
thiếu tuổi, và do gia đình có hoàn cảnh khó khăn, mong muốn được đi làm trước tuổi
để có thu nhập trang trải cuộc sống, nên công ty vẫn chi trả đầy đủ các chế độ lương
thưởng tháng 13 cho công nhân H.
Và xét theo nguyện vọng của công nhân H mong muốn được xin đi làm lại sau
thời gian nghỉ sinh con với bộ hồ sơ mới mang tên thật là Nguyễn Thu H để có thu
nhập nuôi con nhỏ, công ty đã đồng ý cho H đi làm lại từ tháng 7/2019. Ngày
06/7/2022, sau khi nhận được đề nghị của H xin lại sổ bảo hiểm xã hội với số sổ
0116117637 mang tên Tưởng Thị H1, nhân viên bảo hiểm của công ty đã bàn giao sổ
với sự chứng kiến ký biên bản của Tưởng Thị H1 được mời đến công ty và Nguyễn
Thu H, biên bản ghi rõ “sau ngày công ty trả sổ bảo hiểm xã hội, Công ty TNHH
MTV NV không có trách nhiệm giải quyết mọi tranh chấp phát sinh liên quan”.
Vì vậy, việc chuyển đổi thời gian đóng bảo hiểm 2 năm 6 tháng đang đứng tên
Tưởng Thị H1 theo hồ sơ ban đầu nộp vào công ty làm việc thành tên Nguyễn Thu H,
đó là việc cá nhân của hai người này, không còn liên quan đến công ty NV. Công ty
chúng tôi hoàn toàn bất ngờ khi nhận được đơn khởi kiện của Nguyễn Thu H bởi
công ty đã tạo điều kiện tốt nhất, thuận lợi nhất cho công nhân H đạt được mong
muốn cá nhân trong suốt thời gian làm việc tại công ty. Sự việc liên quan đến sổ bảo
hiểm mang tên Tưởng Thị H1 đã được công ty giải thích rất rõ cụ thể cho công nhân
H hiểu rõ. Công ty TNHH MTV NV đã trình bày sự việc ở trên và cam kết đó là hoàn
toàn đúng sự thật xin gửi kèm toàn bộ hồ sơ tài liệu liên quan.
Công ty TNHH NTV NV xin được vắng mặt tại tất cả các buổi làm việc khác
của Tòa án, xin được vắng mặt tại phiên tòa xét xử vụ án.
Theo nội dung Biên bản lấy lời khai, biên bản hòa giải cùng các tài liệu khác có
trong hồ sơ vụ án, Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan – Tưởng Thị H1 trình bày:
do thiếu hiểu biết pháp luật nên chị đã cho chị Nguyễn Thị H (sinh năm 2000, nguyên
quán: Văn Ông – Tảo Dương Văn - UH – Hà Nội; HKTT: YT – TT - UH – Hà Nội)
là em họ chị sử dụng thông tin của chị (Tưởng Thị H1, sinh ngày 02/7/1996, quê
quán: thôn Văn Ông, xã Tảo Dương Văn, huyện UH, thành phố Hà Nội, nơi thường
trú: thôn DK, xã PT, huyện UH, thành phố Hà Nội) để được làm công nhân may với
5
các dữ liệu như sau:
+/ Vào tháng 7 năm 2016 đến tháng 12/2018, chị H xin việc và đi làm tại công
ty TNHH MTV NV. Do tại thời điểm xin việc chị H vẫn còn ít tuổi nên không hiểu
biết pháp luật nên chị H đã mượn giấy tờ của chị là: Tưởng Thị H1, sinh ngày
02/7/1996, quê quán: thôn Văn Ông, xã Tảo Dương Văn, huyện UH, thành phố Hà
Nội, nơi thường trú: thôn DK, xã PT, huyện UH, thành phố Hà Nội để ký hợp đồng
và trở thành công nhân của công ty, đồng thời khi đó chị H tham gia đóng bảo hiểm
xã hội từ tháng 7 năm 2016 đến hết tháng 12 năm 2018 tại bảo hiểm xã hội huyện TO
và bảo hiểm xã hội huyện UH, mã số sổ 0116117637 với toàn bộ thông tin của chị
Tưởng Thị H1;
Đến tháng 12/2018 chị H chấm dứt hợp đồng lao động với công ty TNHH MTV
NV và không sử dụng sổ bảo hiểm số 0116117637 nêu trên nữa.
+/ Từ tháng 8/2017 đến tháng 4 năm 2018 chị ký hợp đồng và làm việc tại Công
ty TNHH ANAM ELECTRONICS Việt Nam.
Từ tháng 06/2019 đến tháng 7 năm 2020 chị ký hợp đồng và làm việc tại công ty
TNHH Hesheng Technology.
Tháng 8 năm 2021 chị ký hợp đồng và làm việc tại công ty TNHH Neweb Việt
Nam.
Trong thời gian này, chị tham gia đóng bảo hiểm tại bảo hiểm xã hội huyện Việt
Yên, tỉnh Bắc Giang, Bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Nam, mã số sổ 3516072956.
Năm 2021, chị chấm dứt hợp đồng lao động với công ty TNHH Neweb Việt
Nam, tại thời điểm này do ảnh hưởng của dịch covid nên chị được hưởng chế độ hỗ
trợ theo quy định của công ty và bảo hiểm xã hội, tuy nhiên, khi làm thủ tục hưởng
chế độ thì bảo hiểm xã hội phát hiện ra chị đang sử dụng 02 mã sổ bảo hiểm số
3516072956 và 0116117637 với cùng thông tin của chị nêu trên, thời gian đóng bảo
hiểm trùng của hai sổ là từ tháng 8/2017 đến tháng 12/2018. Do đó, hiện nay chị chưa
được hưởng chế độ hỗ trợ covid theo quy định.
Để đảm bảo quyền lợi của chị cũng như của chị H, chị H làm đơn khởi kiện gửi
đến Tòa án nhân dân huyện UH yêu cầu tuyên hợp đồng lao động đã kí giữa công ty
TNHH MTV NV với hồ sơ chị H mượn tên Tưởng Thị H1, sinh ngày 02/7/1996 là vô
hiệu đối với phần thông tin cá nhân của người lao động, còn về chế độ Bảo hiểm theo
mã số sổ 0116117637 tham gia đóng từ tháng 7/2016 đến tháng 12/2018 thì xin vẫn
được tiếp tục thamg gia mang tên Nguyễn Thu H, sinh ngày 08/9/2000 theo quy định
của Luật bảo hiểm.
Vì công việc của chị rất bận, đi làm xa, con còn nhỏ nên chị đề nghị Tòa án
6
không tiến hành hòa giải vụ án, đề nghị Tòa án đưa vụ án ra xét xử theo quy định
pháp luật. Chị xin vắng mặt tất cả các buổi làm việc khác của Tòa án, xin vắng mặt
tại phiên tòa xét xử vụ án.
Theo nội dung văn bản trình bày ý kiến cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ
án, Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan – Bảo hiểm xã hội thành phố Hà Nội trình
bày: Quá trình tham gia BHXH và thụ hưởng các chế độ BHXH, bảo hiểm y tế
(BHYT), bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) của bà Nguyễn Thu H (người mượn hồ sơ)
và bà Tưởng Thị H1 (người cho mượn hồ sơ):
- Người mượn hồ sơ, bà Nguyễn Thu H, mã số BHXH: 0116117637:
+/ Quá trình tham gia BHXH, BHYT, BHTN: tại công ty TNHH MTV NV từ
tháng 7/2016 đến tháng 12/2018, tổng thời gian 2 năm 6 tháng (BHXH thành phố Hà
Nội);
+/ Quá trình thụ hưởng các chế độ BHXH, BHYT, BHTN: chưa hưởng các chế
độ BHXH, BHYT, BHTN (tính đến ngày 29/5/2024);
- Người có mượn hồ sơ, bà Tưởng Thị H1, mã số BHXH: 3516072956:
+/ Quá trình tham gia BHXH, BHYT, BHTN:
Từ tháng 8/2017 – 4/2018 tại Công ty TNHH Anam Electronics (BHXH tỉnh Hà
Nam);
Từ tháng 6/2019 – 7/2020 tại công ty TNHH Hesheng Technology (BHXH thị
xã Việt Yên, Bắc Giang);
Từ tháng 8/2021 – 8/2021 tại công ty TNHH Neweb Việt Nam (BHXH tỉnh Hà
Nam);
Từ tháng 1/2022 – 5/2024 tại công ty CP Dược phẩm quốc tế STP (BHXH thị xã
Duy Tiên, tỉnh Hà Nam).
+ Quá trình hưởng các chế độ (tính đến ngày 29/5/2024):
Thanh toán chế độ thai sản từ 13/01/2020 – 12/7/2020 tại BHXH thị xã Việt
Yên, tỉnh Bắc Giang;
Thanh toán chế độ ốm đau từ 24/2/2022 – 05/3/2022 tại BHXH thị xã Duy Tiên,
tỉnh Hà Nam;
Phát sinh KCB BHYT tại Trung tâm y tế phường Tăng Tiến ngày 20/11/2019:
27.500 đồng;
Phát sinh KCB BHYT tại bệnh viện VĐ từ ngày 9 – 11/02/2020 đẻ thường, chi
phí BHYT là 907.052 đồng;
Đã hưởng trợ cấp thất nghiệp tại BHXH tỉnh Phú Thọ, thời gian hưởng là 7
tháng, mức hưởng là 17.010.000đồng.
7
Ý kiến của BHXH thành phố Hà Nội:
Trước tháng 6/2022 được cơ quan bảo hiểm xã hội thực hiện hiệu chỉnh hồ sơ
bảo hiểm xã hội cấp lại (hoặc cấp mới) sổ bảo hiểm xã hội đối với thời gian thực tế
người mượn hồ sơ làm việc và tham gia bảo hiểm xã hội.
Sau khi có hướng dẫn tại công văn số 1767/ LĐTBXH-BHXH ngày 31/5/2022
của Bộ Lao động thương binh và Xã hội về việc người lao động mượn hồ sơ của
người khác để giao kết hợp đồng lao động, bảo hiểm xã hội thành phố Hà Nội nhận
thấy có nhiều vướng mắc như sau:
Nhiều trường hợp người lao động mượn hồ sơ đi làm chưa được xử lý dẫn đến
việc thụ hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp,
không được giải quyết kịp thời, không đảm bảo được quyền lợi của người lao động,
gây bức xúc cho người lao động.
Việc người lao động mượn hồ sơ để giao kết hợp đồng lao động tham gia bảo
hiểm xã hội là trái quy định pháp luật. Tuy nhiên, trên thực tế người lao động có đi
làm, có hưởng lương, có tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất
nghiệp, nhưng không được hưởng quyền lợi về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất
nghiệp. Nguyên nhân do người lao động không hiểu biết pháp luật khi mượn hồ sơ
giao kết hợp đồng lao động, tham gia bảo hiểm xã hội là trái pháp luật; do đơn vị sử
dụng lao động thiếu trách nhiệm khi kiểm tra hồ sơ lao động trước khi ký kết hợp
đồng lao động. Từ những nội dung trên, kính đề nghị Tòa án nhân dân huyện UH
xem xét phần tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp của bà
Nguyễn Thu H tại Công ty TNHH MTV NV, cho phép được hiệu chỉnh hồ sơ bảo
hiểm xã hội, cấp lại hoặc cấp mới sổ bảo hiểm xã hội đối với thời gian bà H mượn hồ
sơ của bà Tưởng Thị H1 để làm việc và tham gia bảo hiểm xã hội. Do bận công tác
chuyên môn, không sắp xếp được lịch dự phiên tòa, Bảo hiểm Xã hội thành phố đề
nghị tòa giải quyết vụ án theo pháp luật.
Theo nội dung văn bản trình bày ý kiến cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ
án, Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan – Bảo hiểm xã hội huyện UH và Bảo hiểm
xã hội huyện TO, thành phố Hà Nội đều trình bày: Bảo hiểm xã hội huyện UH không
có ý kiến gì, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Do bận công việc
nên xin được vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án và vắng mặt tại
phiên tòa. Tòa án không cần tống đạt các văn bản tố tụng hoặc tài liệu cho Bảo hiểm
xã hội huyện UH. Khi nào có bản án thì gửi cho Bảo hiểm xã hội huyện UH.
* Tại phiên tòa:
Các đương sự đều vắng mặt và đã có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa.
8
Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện UH phát biểu ý kiến:
- Về tố tụng: quá trình giải quyết vụ án Tòa án nhân dân huyện UH và đương sự
đã tuân thủ các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử
thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự;
- Về đường lối giải quyết vụ án: chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:
tuyên hợp đồng lao động đã ký giữa Công ty TNHH MTV NV với hồ sơ bà H mượn
tên là Tưởng Thị H1 là vô hiệu đối với phần thông tin cá nhân của người lao động,
đính chính sửa lại thông tin cá nhân của người lao động trong hợp đồng lao động đã
ký giữa Công ty TNHH MTV NV với hồ sơ người lao động Tưởng Thị H1 là thông
tin của bà Nguyễn Thu H.
Bà Nguyễn Thu H được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội trong quá trình đóng góp
công sức lao động cho Công ty TNHH MTV NV với tên Nguyễn Thu H.
Án phí: bà Nguyễn Thu H được miễn án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiªn cøu c¸c tµi liÖu cã trong hå s¬ vô ¸n ®-îc thÈm tra t¹i phiªn Toµ;
c¨n cø vµo các ý kiÕn cña c¸c ®-¬ng sự gửi Tòa án, Héi ®ång xÐt xö nhËn ®Þnh:
[1] Về tố tụng: người khởi kiện đề nghị Tòa án nhân dân huyện UH tuyên bố
Hợp đồng lao động vô hiệu đối với phần thông tin của người lao động, quy định tại
điểm d, khoản 1 Điều 32 BLTTDS. Hợp đồng lao động được ký kết giữa người khởi
kiện và công ty TNHH MTV NV, hiện có trụ sở tại thị trấn VĐ, huyện UH, thành
phố Hà Nội, do đó Tòa án nhân dân huyện UH thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền
được quy định tại điểm c, khoản 1, Điều 35 và điểm a, khoản 1, Điều 39 BLTTDS.
Tất cả các đương sự trong vụ án đều có đơn xin xét xử vắng mặt, nên Tòa án xét
xử vắng mặt tất cả các đương sự là phù hợp với quy định tại Điều 228 BLTTDS.
[2] VÒ néi dung: căn cứ theo lời trình bày của tất cả các đương sự trong vụ án
cùng tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, HĐXX xét thấy: việc chị Nguyễn Thu H
lấy hồ sơ mang tên Tưởng Thị H1 để giao kết hợp đồng lao động với công ty TNHH
MTV NV là không trung thực khi giao kết hợp đồng. Tuy nhiên, việc không trung
thực khi giao kết hợp đồng của chị H là do thiếu hiểu biết pháp luật, chị H thực sự có
đi làm, có hưởng lương và tham gia BHXH, BHYT và BHTN, tính đến ngày
29/5/2024 theo cung cấp của Bảo hiểm xã hội thành phố Hà Nội thì chị H chưa thụ
hưởng các chế độ BHYT, BHXH, BHTN một lần của quá trình tham gia từ tháng
7/2016 đến tháng 12/2018. Như vậy, ngoài những thông tin về cá nhân của người lao
động ghi trong Hợp đồng lao động là giả nên vô hiệu, còn các thông tin còn lại đều
9
phù hợp quy định pháp luật và đã được các bên giao kết hợp đồng (người lao động và
người sử dụng lao động) thực hiện đầy đủ. Do đó, yêu cầu khởi kiện của chị H đề
nghị Tòa án tuyên Hợp đồng lao động đã ký giữa Công ty TNHH MTV NV với hồ sơ
chị mượn tên Tưởng Thị H1, sinh ngày 02/7/1996 (thời gian từ tháng 7/2016 đến
tháng 12/2018 với mã sổ BHXH 0116117637) là vô hiệu đối với phần thông tin cá
nhân của người lao động, còn về chế độ Bảo hiểm xã hội chị H vẫn xin được tiếp tục
tham gia mang tên Nguyễn Thu H, sinh ngày 08/9/2000 theo quy định của pháp luật
về Bảo hiểm là có cơ sở để chấp nhận.
Về án phí: chị H được miễn án phí theo quy định của pháp luật.
V× c¸c lÏ trªn;
QuyÕt ®Þnh:
Căn cứ Điều 130, 131 Bộ luật Dân sự 2015;
Căn cứ Điều 21, khoản 2 Điều 49, Điều 50, Điều 51 Bộ luật Lao động năm
2019;
Căn cứ Điều 2, Điều 18, Điều 21 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014;
Căn cứ Điều 147, Điều 228, Điều 271, Điều 273 BLTTDS; Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức
thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xö:
1. ChÊp nhËn yªu cÇu khëi kiÖn cña nguyên đơn, tuyên bố Hợp đồng lao động đã
ký giữa Công ty TNHH MTV NV với người lao động đề tên Tưởng Thị H1, sinh
ngày 02/7/1996 (thời gian từ tháng 7/2016 đến tháng 12/2018) là vô hiệu đối với
phần thông tin cá nhân của người lao động. Đính chính, sửa lại thông tin cá nhân
người lao động trong Hợp đồng lao động đó là Nguyễn Thu H, sinh ngày 08/9/2000,
hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: thôn YT, xã TT, huyện UH, thành phố Hà Nội.
2. Chị Nguyễn Thu H được hưởng các chế độ bảo hiểm trong quá trình đóng góp
công sức lao động cho Công ty TNHH MTV NV. Đính chính, sửa lại thông tin cá
nhân người đóng bảo hiểm (trong khoảng thời gian từ tháng 7/2016 đến tháng
12/2018 với mã sổ BHXH 0116117637) từ Tưởng Thị H1, sinh ngày 02/7/1996 thành
Nguyễn Thu H, sinh ngày 08/9/2000. Chị H được tiếp tục tham gia bảo hiểm mang
tên Nguyễn Thu H, sinh ngày 08/9/2000 theo quy định của pháp luật về bảo hiểm.
3. Về án phí: Chị H được miễn toàn bộ tiền án phí lao động sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn
15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
10
N¬i nhËn:
- TAND TP Hµ Néi;
- VKSND huyÖn øng Hoµ;
- Chi côc THADS huyện øng Hoµ;
- C¸c ®-¬ng sù;
- L-u h/s; v/p./.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TOÀ
NguyÔn Thành Trung
Tải về
Bản án số 02/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án số 02/2024/DS-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 30/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 18/09/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 08/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 05/08/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 24/07/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 23/07/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 21/06/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 21/06/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 20/06/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 06/06/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 03/06/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 31/05/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 28/05/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 27/04/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 22/04/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 29/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 26/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 26/03/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 23/02/2024
Cấp xét xử: Sơ thẩm