Bản án số 01/2025/HNGĐ-ST ngày 09/01/2025 của TAND huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Thuộc tính
- Nội dung
- VB gốc
- VB liên quan
- Lược đồ
- Đính chính
- Án lệ
- BA/QĐ cùng nội dung
- Tải về
Tải văn bản
-
Bản án số 01/2025/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
-
Bản án số 01/2025/HNGĐ-ST
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Báo lỗi
Thuộc tính Bản án 01/2025/HNGĐ-ST
Tên Bản án: | Bản án số 01/2025/HNGĐ-ST ngày 09/01/2025 của TAND huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
---|---|
Quan hệ pháp luật: | Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Tòa án xét xử: | TAND huyện Bình Lục (TAND tỉnh Hà Nam) |
Số hiệu: | 01/2025/HNGĐ-ST |
Loại văn bản: | Bản án |
Ngày ban hành: | 09/01/2025 |
Lĩnh vực: | Hôn nhân gia đình |
Áp dụng án lệ: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem áp dụng án lệ. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Đính chính: |
Đã biết
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để xem đính chính. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây! |
Thông tin về vụ/việc: | 1. Chị Đào Thị H, sinh năm 1993; nơi đăng ký thường trú và chỗ ở |
Tóm tắt Bản án
Nội dung tóm tắt đang được cập nhật, Quý khách vui lòng quay lại sau!
Tải văn bản

1
TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN B
TỈNH HÀ NAM
Bản án số: 01/2025/HNGĐ-ST
Ngày: 09/01/2025
V/v: Ly hôn, tranh chấp về
nuôi con khi ly hôn.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B, TỈNH HÀ NAM
- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Đặng Trần Anh Dũng.
Các Hội thẩm nhân dân: Ông Trần Xuân Phong và ông Nguyễn Đình Thật.
- Thư ký phiên tòa: Ông Nguyễn Văn Bảy – Thẩm tra viên Tòa án nhân dân
huyện B, tỉnh Hà Nam.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh Hà Nam tham gia phiên
tòa: Bà Nguyễn Thị Thúy Tình – Kiểm sát viên.
Trong ngày 09/01/2025, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Hà Nam
xét xử sơ thẩm công khai
vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 24/2024/TLST –
HNGĐ ngày 11/10/2024 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo
Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 04/12/2024
và Quyết định hoãn phiên tòa số 15/2024/QĐST-HNGĐ ngày 24/12/2024, giữa
các đương sự:
1. Chị Đào Thị H, sinh năm 1993; nơi đăng ký thường trú và chỗ ở: Thôn x,
xã B, huyện B, tỉnh Hà Nam. (có mặt)
2. Bị đơn: Anh Trần Văn T, sinh năm 1990; nơi đăng ký thường trú và chỗ
ở: Thôn x, xã B, huyện B, tỉnh Hà Nam. (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN:
[1] Tại đơn khởi kiện đề ngày 16/8/2024 và trong quá trình giải quyết vụ
án, nguyên đơn – chị Đào Thị H trình bày:
1.1. Về hôn nhân: Chị tự nguyện đăng ký kết hôn với anh Trần Văn T vào
ngày 31/10/2011 tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện B, tỉnh Hà Nam; trước khi cưới
được tự nguyện tìm hiểu.
Sau ngày cưới vợ chồng chung sống tại gia đình anh T ở thôn x, xã B, huyện
B, tỉnh Hà Nam đến khoảng năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là
do lúc đó bố mẹ chị là đại lý thức ăn chăn nuôi gia súc; vợ chồng chị có mua cám
2
của bố mẹ chị để nuôi lợn. Lúc đầu bố mẹ chị còn chở cám đến tận nhà cho vợ
chồng chị nhưng sau đó bố chị bảo vợ chồng tự ra chở cám về; anh T không ra
chở cám nhưng chị vẫn ra chở; anh T cho rằng bố mẹ chị cắt không bán cám cho
vợ chồng chị. Do anh T có mâu thuẫn với bố mẹ chị và do dịch bệnh nuôi lợn thua
lỗ nên khi bán lợn thì vợ chồng chị không nuôi lợn nữa. Tuy nhiên sau đó mỗi lần
anh T đi uống rượu say về anh T lại lấy chuyện này ra để làm cớ chửi bố mẹ chị;
chị có nói lại thì vợ chồng cãi nhau. Mâu thuẫn vợ chồng căng thẳng nhất vào tối
ngày 15/7/2024; anh T đi uống rượu say về lại lôi chuyện bố mẹ chị không bán
cám cho vợ chồng chị ra để nói và chửi bố mẹ chị; chị nói lại thì vợ chồng cãi
nhau; anh T đã đánh đấm và chửi đuổi chị; chị đã phải đến nhà bác ruột của chồng
để ngủ nhờ; đến sáng hôm sau chị về nhà bố mẹ đẻ ở. Thời gian chị ở nhà bố mẹ
đẻ, anh T có vài lần đến nhà bố mẹ chị nhưng không phải là tìm chị về đoàn tụ mà
đến để chửi bới gia đình chị; vợ chồng sống ly thân từ đó đến nay và không còn
quan tâm gì đến nhau nữa. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng với anh T không
còn; đề nghị Tòa án nhân dân huyện B giải quyết cho chị được ly hôn anh T.
1.2. Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là cháu Trần Hải Đ, sinh ngày
03/10/2012 và cháu Trần Hải Ph, sinh ngày 22/7/2017; từ khi chị về sống với bố
mẹ đẻ chị thì các cháu ở với anh T.
Ly hôn, do cháu Đ đã lớn và có nguyện vọng ở với bố nên chị đề nghị được
nuôi cháu Ph và giao cháu Đăng cho anh T nuôi dưỡng; chị và anh T không phải
cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho nhau.
Chị xác định hiện tại chị không có thai.
Chị H xác định hiện chị làm công nhân tự do, thu nhập khoảng 8 triệu đồng
một tháng. Chị không có bảng lương để nộp cho Tòa án. Nếu được giao nuôi con,
chị và con sẽ ở cùng với bố mẹ đẻ; điều kiện ăn ở đảm bảo.
1.3. Về tài sản riêng của mỗi người, tài sản chung của vợ chồng, đất nông
nghiệp trồng cây hàng năm (ruộng cấy), nghĩa vụ chung về tài sản của vợ
chồng (công nợ), trợ cấp khó khăn sau ly hôn: Chị H xác định không có và chị
tự nguyện không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Ngoài ra chị H không còn ý kiến gì khác.
[2] Trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn – anh Trần Văn T trình
bày:
2.1. Về hôn nhân: Anh và chị Đào Thị H tự nguyện đăng ký kết hôn với
nhau vào ngày 31/10/2011 tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện B, tỉnh Hà Nam;
trước khi cưới được tự nguyện tìm hiểu. Sau khi kết hôn vợ chồng về chung sống
với bố mẹ chồng; hai người không có mâu thuẫn gì lớn.
Đối với nguyên nhân vợ chồng mâu thuẫn, anh T xác định chị H trình bày
không đúng sự thật. Anh T trình bày: Năm 2018 vợ chồng anh đầu tư nuôi nhiều
3
lợn và có mua cám của bố mẹ chị H. Cuối năm 2018 do dịch tả châu Phi nên lợn
chết nhiều làm vợ chồng anh thiệt hại lớn về kinh tế; anh phải đi Hà Nội làm để
lấy tiền trang trải. Đến cuối năm 2018 chị H có gọi điện thoại nói là bố mẹ chị H
không bán cám cho vợ chồng anh nữa. Anh về thấy đúng như vậy nên anh đã
chuyển sang mua cám của đại lý khác. Sau đó thỉnh thoảng anh có nhắc lại với
chị H về việc bố mẹ chị H cắt không bán cám trong lúc vợ chồng khó khăn. Chị
H có nói lại thì thành ra vợ chồng to tiếng với nhau. Chiều tối ngày 15/7/2024 sau
khi uống bia tại nơi làm về thì anh có nói chuyện với chị H về việc còn có nhiều
người tốt giúp mình trong lúc khó khăn; chị H cho rằng anh chửi bới bố mẹ chị
nên nói lại; vợ chồng cãi nhau; trong lúc nóng giận không kiềm chế được bản thân
anh có đánh đuổi chị H. Chị H bỏ đi, sau đó về nhà bố mẹ đẻ ở. Khoảng 4 - 5 ngày
sau anh đến nhà bố mẹ chị H để tìm chị H nói chuyện. Khi anh vừa vào đến nhà
thì bố chị H đã chửi anh; anh có nói lại nên thành ra hai người cãi nhau; chị H có
ra gặp; anh bảo chị H về nhà chung sống nhưng chị H không về. Sau đó chị H
chặn số, chặn mọi tương tác qua mạng xã hội nên anh không liên lạc được với chị
H. Sau đó chị H có khoảng 4 - 5 lần về nhà bố mẹ anh thăm con nhưng đều về vào
những lúc anh đi làm nên hai người không gặp nhau.
Nay chị H kiện ly hôn; anh xác định tình cảm vợ chồng vẫn còn, đồng thời
anh không muốn các con phải sống xa nhau nên anh không nhất trí ly hôn. Về
cách khắc phục mâu thuẫn; anh xác định hiện anh không tìm được cách nào để
khắc phục mâu thuẫn do chị H chặn mọi liên lạc với anh.
2.2. Về con chung: Anh xác định vợ chồng có 02 con chung là cháu Trần
Hải Đ, sinh ngày 03/10/2012 và cháu Trần Hải Ph, sinh ngày 22/7/2017; Từ khi
chị H về nhà bố mẹ đẻ sống thì các cháu ở với anh cùng bố mẹ anh.
Do anh không nhất trí ly hôn nên anh không có quan điểm gì về việc nuôi
con sau ly hôn. Còn nếu chị H cứ kiên quyết xin ly hôn thì anh đề nghị Tòa án
giao cả 2 cháu cho anh nuôi dưỡng và anh không yêu cầu chị H phải cấp dưỡng
nuôi con chung cho anh.
Anh xác định hiện tại anh đang làm thợ xây thu nhập bình quân khoảng từ
10- 12 triệu đồng một tháng, do anh làm tự do nên không có căn cứ chứng minh
thu nhập để nộp cho tòa án. Hiện anh đang ở cùng với bố mẹ anh, nhà cửa rộng
rãi, thu nhập ổn định và có ông bà phụ giúp nên đủ điều kiện nuôi cả hai con.
2.3. Về tài sản riêng của mỗi người, tài sản chung của vợ chồng, đất nông
nghiệp trồng cây hàng năm (ruộng cấy), nghĩa vụ chung về tài sản của vợ
chồng (công nợ), trợ cấp khó khăn sau ly hôn: Anh T xác định không có và anh
tự nguyện không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Ngoài ra anh T không còn ý kiến gì khác.
[3] Tại phiên tòa, chị H giữ nguyên quan điểm như đã trình bày. Chị đề
nghị Hội đồng xét xử cho chị được ly hôn anh T. Về nuôi con chung sau ly hôn,
4
chị đề nghị được nuôi dưỡng cháu Ph; giao cháu Đ cho anh T nuôi dưỡng; anh chị
không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau. Về phân chia tài sản riêng của
mỗi người, tài sản chung của vợ chồng, đất nông nghiệp trồng cây hàng năm
(ruộng cấy), nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng (công nợ) và trợ cấp khó
khăn sau ly hôn; chị tự nguyện không yêu cầu Tòa án giải quyết.
[4] Tại phiên toà, đại diện VKSND huyện B có quan điểm:
* Về tố tụng, TAND huyện B thụ lý giải quyết vụ án đúng thẩm quyền; quá
trình giải quyết vụ án tại toà và xét xử tại phiên toà, Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng
xét xử thực hiện đúng quy định Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn thực hiện
đúng và đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân
sự. Bị đơn chưa thực hiện đúng và đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy
định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
* Về giải quyết vụ án; đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ: Khoản 1 Điều 28,
điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2
Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự. Khoản 1 Điều 51, khoản 1
Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình. Luật phí và lệ phí
số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội khóa 13 và Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy
định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án
và Danh mục án phí, lệ phí Tòa án;
- Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Đào Thị H. Xử cho chị Đào Thị H ly hôn
anh Trần Văn T.
- Về con chung: Chấp nhận yêu cầu của chị H. Giao cháu Trần Hải Ph, sinh
ngày 22/7/2017 cho chị Đào Thị H nuôi dưỡng. Giao cháu Trần Hải Đ, sinh ngày
03/10/2012 cho anh Trần Văn T nuôi dưỡng. Chị H, anh T không phải cấp dưỡng
nuôi con chung cho nhau.
- Về tài sản riêng của mỗi người, tài sản chung của vợ chồng, tài sản công
sức, đất nông nghiệp trồng cây hàng năm (ruộng cấy), nghĩa vụ chung về tài sản
của vợ chồng (công nợ), trợ cấp khó khăn sau ly hôn: Chị H, anh T tự nguyện
không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Án phí ly hôn sơ thẩm: Đương sự phải nộp theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
I. Về tố tụng: Hội đồng xét xử thấy đây là vụ án hôn nhân và gia đình về
việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”; bị đơn – anh Trần Văn T đăng
ký thường trú tại thôn x, xã B do vậy Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Hà Nam thụ
lý giải quyết là đúng quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm
a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
5
Hội đồng xét xử xét thấy: Anh T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai
nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa vì vậy Hội đồng xét xử T hành xét xử vắng mặt
anh T là đúng quy định tại khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng
dân sự.
II. Về giải quyết vụ án:
[1] Về hôn nhân: Chị Đào Thị H và anh Trần Văn T tự nguyện đăng ký kết
hôn với nhau vào ngày 31/10/2011 tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện B, tỉnh Hà
Nam; trước khi cưới được tự nguyện tìm hiểu. Sau ngày cưới, vợ chồng chung
sống với nhau đến đầu năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bố
mẹ chị H là đại lý thức ăn chăn nuôi và bán cám cho vợ chồng anh T chị H chăn
nuôi. Từ giữa năm 2018 do dịch bệnh làm lợn chết nhiều nên việc chăn nuôi của
anh T chị H thua lỗ. Bố mẹ chị H từ việc tự chở cám vào tận nơi chăn nuôi cho
anh chị thì bảo vợ chồng anh T chị H ra đại lý tự chở cám về dẫn đến việc anh T
nghi ngờ bố mẹ vợ không muốn bán cám, gây khó khăn cho vợ chồng anh. Sau
đó vợ chồng anh T chị H không nuôi lợn nữa nhưng anh T vẫn để bụng việc này;
cứ mỗi lần uống rượu về anh T lại lấy chuyện này ra làm cái cớ để nói bố mẹ vợ;
chị H nói lại thì thành ra hai người cãi chửi nhau; mâu thuẫn cứ thế kéo dài. Tối
ngày 15/7/2024, anh T đi làm về và lại nói chuyện bố mẹ vợ không bán cám, chị
H nói lại, vợ chồng cãi nhau, anh T đánh, đuổi chị H. Chị H ngay tối đó phải đi
sang nhà bác ruột anh T ở và từ sáng hôm sau chị H về nhà bố mẹ đẻ ở. Sau đó
anh T có sang nhà bố mẹ chị H nói chuyện với mục đích để đón chị H về chung
sống tuy nhiên trong quá trình nói chuyện thì giữa anh T và bố mẹ chị H lại xảy
ra mâu thuẫn, to tiếng với nhau nên chị H không về chung sống cùng anh T. Sau
đó thỉnh thoảng chị H có về nhà bố mẹ anh T gặp gỡ các con nhưng không gặp
anh T.
Hội đồng xét xử thấy rằng giữa chị H và anh T xảy ra mâu thuẫn từ lâu nhưng
anh chị không có sự thấu hiểu, chia sẻ những khó khăn trong cuộc sống dẫn đến
mâu thuẫn âm ỉ kéo dài. Mặc dù anh T xác định tình cảm vợ chồng vẫn còn nhưng
trên thực tế anh đã có hành vi đánh, đuổi chị H; hành vi này đã làm tổn thương
nghiêm trọng đến tình cảm của chị H. Trong toàn bộ quá trình Tòa án chuẩn bị
giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa ngày hôm nay chị H kiên quyết xin ly hôn
trong khi đó anh T lại không tìm ra biện pháp nào để khắc phục mâu thuẫn. Căn
cứ vào thực tế cuộc sống của chị H với anh T và mong muốn được ly hôn của chị
H; Hội đồng xét xử thấy rằng mâu thuẫn vợ chồng chị H, anh T thật sự đã trầm
trọng và không còn khả năng đoàn tụ do vậy Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị
của chị H; xử cho chị H ly hôn anh T là phù hợp với thực tế, đúng quy định tại
khoản 1 Điều 51 và khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.
[2] Về con chung: Chị Đào Thị H và anh Trần Văn T có 02 con chung là
cháu Trần Hải Đ, sinh ngày 03/10/2012 và cháu Trần Hải Ph, sinh ngày 22/7/2017;
6
từ khi chị H về sống với bố mẹ đẻ chị thì các cháu ở với anh T, các cháu khỏe
mạnh và phát triển bình thường.
Xét thấy việc nuôi con vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của cha mẹ; chị H, anh
T đều có việc làm cho thu nhập tương đương nhau; đều đang ở cùng với bố mẹ;
nhà bố mẹ hai anh chị cùng thôn không cách nhau quá xa; cháu Đ có nguyện vọng
ở với anh T, cháu Ph không nêu nguyện vọng muốn ở với ai. Do vậy Hội đồng
xét xử chấp nhận yêu cầu của chị H; giao cháu Ph cho chị H nuôi dưỡng; giao
cháu Đ cho anh T nuôi dưỡng; anh chị không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho
nhau.
[3] Về tài sản riêng của mỗi người, tài sản chung của vợ chồng, tài sản
công sức, đất nông nghiệp trồng cây hàng năm (ruộng cấy), nghĩa vụ chung
về tài sản của vợ chồng (công nợ), trợ cấp khó khăn sau ly hôn: Do chị H, anh
T đều tự nguyện không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không giải
quyết những vấn đề này. Nếu sau này chị H, anh T xảy ra tranh chấp về tài sản thì
có quyền khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của Bộ luật Tố tụng
dân sự.
[4] Án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Đào Thị H phải chịu theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39,
khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật
Hôn nhân và gia đình.
Căn cứ Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội
khóa 13 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử
dụng án phí, lệ phí Toà án và Danh mục án phí, lệ phí Tòa án;
1. Xử cho chị Đào Thị H ly hôn anh Trần Văn T.
2. Về con chung: Chấp nhận yêu cầu của chị Đào Thị H. Giao cháu Trần Hải
Ph, sinh ngày 22/7/2017 cho chị Đào Thị H nuôi dưỡng. Giao cháu Trần Hải Đ,
sinh ngày 03/10/2012 cho anh Trần Văn T nuôi dưỡng. Chị H, anh T không phải
cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.
Chị H, anh T và các thành viên trong gia đình chị H, anh T không được cản
trở anh T, chị H trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Ph
và cháu Đ.
3. Án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Đào Thị H phải nộp 300.000 đồng.

7
Chuyển 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí ly hôn sơ thẩm mà chị H đã nộp
tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện B theo biên lai số 0000573 ngày 11/10/2024
thành án phí ly hôn sơ thẩm mà chị H phải chịu. (Chị H đã thi hành xong án phí ly
hôn sơ thẩm).
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án
dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền
thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị
cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân
sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành
án dân sự.
Báo cho chị H được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ
ngày tuyên án. Báo cho anh T được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ
ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết tại trụ sở Ủy ban
nhân dân xã B, huyện B, tỉnh Hà Nam.
Nơi nhận:
- TAND tỉnh Hà Nam;
- VKSND huyện B;
- Chi cục THADS huyện B;
- UBND xã B; huyện B;
- Các đương sự;
- Lưu hồ sơ, văn phòng.
TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa
Đặng Trần Anh Dũng
(đã ký)
Tải về
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Quý khách vui lòng Đăng nhập tài khoản để tải file. Nếu chưa có tài khoản, Quý khách vui lòng đăng ký tại đây!
Bản án/ Quyết định cùng đối tượng
1
Ban hành: 08/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
2
Ban hành: 03/04/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
3
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
4
Ban hành: 31/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
5
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
6
Ban hành: 28/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
7
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
8
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
9
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
10
Ban hành: 27/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
11
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
12
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
13
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
14
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
15
Ban hành: 26/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
16
Ban hành: 25/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
17
Ban hành: 22/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
18
Ban hành: 21/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
19
Ban hành: 19/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm
20
Ban hành: 19/03/2025
Cấp xét xử: Sơ thẩm